Phỏng vấn Nguyễn Quốc Trụ (2)
Lên mạng
lúc 15:22:43
ngày 02.08.2001
Nhà
văn Việt kiều Nguyễn Quốc Trụ:
Lê
Tự.
Với
trên 100 truyện ngắn, bút ký, tiểu luận phê bình, truyện
dịch… đã khẳng định một phong cách văn chương Nguyễn Quốc Trụ qua mấy
chục năm
cầm bút. "Lần cuối, Sài Gòn" và "Nơi người chết mỉm cười"
là hai tập sách khá hấp dẫn của nhà văn Việt kiều này vừa được in ở Mỹ.
Nhân
dịp trở lại cố hương sau nhiều năm xa cách, nhà văn đã dành nhiều thời
gian tâm
sự với bạn đọc.
Hơn 40 năm, nay tôi trở về nơi chôn rau cắt rốn – một làng
quê yên ả thuộc xã Phú Cường, huyện Ba Vì, vùng "Xứ Đoài mây trắng".
Gần nửa thế kỷ phiêu diêu từ Bắc vô Nam rồi dạt qua vùng Bắc Mỹ. Số
phận con
người như cánh bèo trôi theo dòng người cuồn cuộn, khi lênh đênh giữa
phẳng
lặng, lúc vần vũ quanh vòng xoáy ngã ba sông. Dù đi đâu, ở đâu thì
trong tôi
không hề mờ đi hình bóng thân thương quê nhà, một cây sấu, một ngôi nhà
cổ liệu
xây bằng đá tổ ong và dãy núi Ba Vì huyền thoại.
Tôi về thắp hương cho cha. Ông hy sinh vì họa đảng phái
những ngày 1945. [NQT mạn phép anh Lê Tự sửa một câu văn ở đây]. Quê
hương tôi
thay đổi nhiều quá, cảnh đói cơm rách áo hồi tôi còn nhỏ đã không còn.
Nhiều người quen giờ đã mất. Mỗi khi biết tin ai đó cùng
thời đã về nơi vĩnh hằng lòng tôi lại chợt buồn. Nỗi buồn đọng dần
thành trống
trải. Một thế hệ sắp qua đi.
Chuyến
này tôi dành nhiều thời gian ở Hà Nội. Tuổi thơ của
tôi đã trải qua mấy năm học ở trường Nguyễn Trãi, phố Huế. Những ký ức
tuổi học
trò: bạn bè tụ nhau đi nhặt sấu rụng, nhảy tầu điện leng keng, ăn lạc
rang (phá
sa) của một ông Tầu già bên bờ Hồ đã khắc vào bộ nhớ. Chính vì thế năm
1965 khi
sống ở phía Nam
tôi đã viết truyện ngắn đầu tay "Những ngày ở Sài Gòn" để kỷ niệm
tuổi thơ ở Hà Nội. Những người từng sống ở miền Bắc đọc truyện ngắn này
đã rưng
rưng thương nhớ. Ngày ấy đất nước còn chia cắt, cuộc sống thấp thỏm lo
âu vì
chiến tranh, người dân đất Bắc sống ở miền Nam
khao khát đất nước chóng thống nhất để được trở về quê mẹ. Thế rồi thời
gian cứ
trôi đi, số phận con người bị đẩy đưa theo thời cuộc.
Ở
phía Nam
tôi làm công nhân tại Sở Bưu Điện. Vừa làm vừa viết văn. Tôi là người
cầm bút nghiệp
dư, vừa viết vừa tự hoàn thiện mình. Năm 1970 tôi ra tập đầu tiên với
10 truyện
ngắn viết về đất Bắc, về Hà Nội, về xứ Đoài quê tôi và ước vọng hoà
bình.
Đam
mê văn chương đồng nghĩa với nhọc nhằn vất vả. Chiêm
nghiệm lại điều ấy thật chẳng sai chút nào. Đọc rất nhiều, viết rất
nhiều mà
chẳng được bao nhiêu. Đã có lúc tôi có ý định tạo cho mình một phong
cách, một
lối đi riêng rẽ nhưng rồi rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy gì. Văn chương
là khu
rừng rậm rạp đầy bí hiểm, mỗi người tự chui vào và tự tìm đường bò đi.
Ở đấy
chẳng biết dựa vào ai, chẳng có ai giúp đỡ. Và may thay tôi đã tìm được
cho
mình một cây gậy chống cho đỡ vấp ngã mỗi khi bị say chếnh choáng trên
cõi đời
này. Cây gậy ấy chính là quê hương, Tổ quốc, là hướng tâm về cội nguồn
dân tộc
Việt Nam.
Lá
bùa hộ mệnh đó là kim chỉ nam xuyên suốt qua những sáng tác của tôi.
Sống giữa thế giới mênh mông của trời đất và lòng
người,
thênh thang thế mà nhiều khi vẫn thấy cô quạnh. Nơi đất khách quê người
ngồi
nhâm nhi ly cà phê, thả hồn qua làn thuốc để cố tình kéo quá khứ về
hiện tại và
tôi bỗng thấy thương quá chính mình và những số phận trần gian. Những
lúc như
thế tôi lại ngồi vào bàn viết, viết tất cả những gì chợt đến, đuổi theo
những
gì đột ngột trôi đi. Những khuôn mặt thân thương bạn bè, người thân trở
thành
nhân vật, bờ tre gốc lúa, cánh diều hóa thành những vần thơ. Hình như
thời gian
càng trôi đi bao nhiêu thì ký ức của người xa xứ càng khắc khoải. Từ
nửa vòng
trái đất tôi cảm thấy mình công bằng hơn khi đánh giá một vấn đề.
Trở
về cố hương lần này tôi ngợp mình vào nhịp điệu hối hả
cuộc sống thời mở cửa. Người Việt Nam
bây giờ hoạt bát, năng động lên rất nhiều nhưng vẫn nhân hậu bao dung.
Mỗi
người tôi gặp dù quen hay lạ, mỗi nơi tôi qua dù có danh hay vô danh
đều khắc
vào ký ức và nhất định sẽ đi vào trang viết của tôi.
Dọc
đường từ Nam
ra Bắc tôi ngỡ ngàng ngắm cảnh đất nước mình. Đẹp quá, vĩ đại quá!
Nhưng nỗi
đau của chiến tranh vẫn còn nguyên đó – những nấm mồ chiến sĩ vô danh.
Những
ngày ở Hà Nội tôi tranh thủ tìm đọc những tác phẩm văn
chương của một số nhà văn trẻ. Sách nhiều quá, đủ các thể loại được bầy
bán
trong cửa hàng. Truyện ngắn hiện đại nước ta khá hay, mang đậm tính
nhân bản
cao, thể loại phê bình cũng khởi sắc, góc cạnh hơn. Người viết đã dám
nhìn
thẳng vào sự kém cỏi, cầu toàn trong văn chương.
Một
tác phẩm hay thường được đánh giá qua số lượng được mua
bằng tiền túi của tác giả [?], tuy nhiên điều này đôi khi còn chưa được
thừa
nhận ở nơi này, nơi kia.
Một
trong những hoạt động văn chương mà tôi yêu thích là
dịch các tác phẩm nước ngoài sang tiếng Việt. Tôi thường chọn những tác
giả
viết theo xu hướng đề cao giá trị nhân bản của con người, hướng thiện
để giới
thiệu như [nhà thơ người Nga] Akhmatova, Joseph Brodsky, [học giả gốc
Do Thái]
George Steiner. Dạo quanh mấy cửa hàng sách trung tâm Hà Nội tôi thấy
văn học
nước ngoài còn ít quá. Đây là điều rất thiệt thòi vì trên thế giới có
nhiều tác
phẩm rất nổi tiếng, nhiều dòng văn học rất hay. Thiết nghĩ Nhà nước cần
đầu tư
hơn nữa vào công tác biên dịch.
Lần
này về nước tôi đem theo hai cuốn bản thảo dịch tác phẩm
tiêu biểu của một số nhà văn nước ngoài để xin phép xuất bản tại Việt
Nam [Ở
đây cần nói rõ thêm: ý định in tác phẩm ở Việt Nam là hoàn toàn bất
ngờ, và do
một số bạn mới quen ở Hà Nội đưa ra đề nghị, khi gặp nhau lần đầu. NQT]
Hai
cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn đọc những truyện ngắn, tiểu luận khá
đặc sắc
của khuynh hướng sáng tác mang đậm bản tính dân tộc.
Vấn
đề anh hỏi, những người viết văn Việt kiều có sống được
bằng văn không? Xin thưa là không. Tôi biết một số nhà văn Việt kiều
nổi tiếng
như Miêng, Mai Ninh ở Pháp, Thảo An ở Mỹ, Lê Minh Hà ở Đức… cũng khó
sống lắm
bằng thơ văn.
Ở
Canada
thời gian đầu tôi đi làm công nhân. Mấy năm gần đây do đau ốm thường
xuyên nên
sống bằng tiền bảo trợ của Chính phủ. Người Việt ở Canada
sống rải rác, số người đọc văn cũng ít nên in sách thường lỗ vốn. Các
nhà thơ
văn bản xứ cũng phải bỏ tiền ra in tác phẩm của mình, trừ những người
đã thực
sự nổi tiếng. Văn xuôi còn nhúc nhắc bán được chứ thơ thì ế lắm. Ở Châu
Mỹ cũng
đang có phong trào sáng tác thơ, nhiều người có danh bởi có tiền in thơ
để
biếu. Nhìn một cách lạc quan, đây là một nét đẹp của thơ, của một xã
hội con
người không quá chật vật về kinh tế.
Sau
chuyến đi này trở lại Canada
ông sẽ viết những gì? Tôi sẽ viết tập bút ký chuyến về quê hương, viết
về cuộc
sống đổi mới trên khắp mọi miền Tổ quốc ta, viết về những người chân
chính. Và
nếu còn sức khỏe tôi sẽ viết một bản trường ca về đất nước.
(Đại
Đoàn Kết số 258, ngày 5 tháng 8, 2001, Lao Động điện tử
trích đăng).
Ghi
chú:
Nhân
chuyến trở về Hà Nội, Nguyễn Quốc Trụ, một thân hữu và
cũng là người cộng tác thường xuyên của VHNT, đã gặp gỡ thân mật với
anh
Lê Tự
và một nhiếp ảnh viên báo Đại Đoàn Kết, tại tư gia người cậu, một căn
phòng ở
lầu hai một căn nhà tại khu Phố Cổ, Hà Nội. Anh Lê Tự đã biết về chuyến
đi qua
Hội Việt Kiều, và hẹn gặp, chỉ để hỏi thăm về xứ lạnh (Canada)
và đồng bào mình ở đó.
Cả
ba ngồi dưới sàn nhà nói chuyện, cho tới lúc anh nhiếp
ảnh viên nói, cần một tấm hình "đàng hoàng" trước khi tạm biệt. Cuộc
nói chuyện không dùng máy ghi âm; thỉnh thoảng anh Lê Tự mới ghi chú
một vài
chi tiết mà anh nghĩ cần thiết. Thành thử, câu nói, "Tôi sẽ viết một
bản
trường ca về đất nước" có lẽ là giấc mơ của cả hai, và chắc chắn của
nhiều
người viết khác nữa, nhưng khi nói ra, nó khiêm nhường, và "thực"
hơn, "tôi mong viết được một điều gì đó về quê hương."
Ngoài
ra, bài viết còn một chi tiết thật là lạ thường đối
với riêng tôi, đó là con số 10 truyện ngắn, của tập truyện Những Ngày Ở
Sài
Gòn.
Tôi
chưa bao giờ để ý đến con số 10 này. Như vậy, có thể anh
Lê Tự đã đọc nó.
Trên
đầu cuốn sách có một câu trích dẫn nhà văn Pháp,
Topffer:
Va, petit livre, et choisis ton monde. (Lên đường đi, hỡi cuốn
sách
nhỏ bé, và hãy chọn lựa cái thế giới của mày).
Tôi
rất mừng, vì cuốn
sách nhỏ
bé của tôi, một thời bị coi là phản động đồi trụy, đã sống sót, và tìm
được cái thế giới của nó.
NQT