*

Phỏng Vấn





Edward Said

Từ 30 năm nay, E. Said là người phê bình văn học, giảng dậy Đại Học, và có uy tín nhất trên thế giới trong việc giải trừ chủ nghĩa thực dân trong văn hóa, khi đứng ở địa vị một nhà trí thức nhược tiểu phương Đông, phê phán văn chương, và học thuật của phương Tây, trong việc mô tả và trình bầy xã hội châu Phi, châu Á.
Phỏng vấn dưới đây, do Eleanor Wachtel thực hiện cho đài CBC Radio (Canada); được in trong (More) Writers & Company (nhà xb Vintage Canada, 1997).
Edward Said không đơn giản. Khi cố gắng mô tả ông, tôi đụng những nhãn hiệu thật chỏi nhau. Ông là tín đồ Ky-tô, Ả-rập Palestine; thân phụ phục vụ trong quân lực Hoa-kỳ thời kỳ Đệ Nhất Chiến. Một nhà khoa bảng sống tại Mỹ trong 40 năm qua, thành viên, tiếng nói trực tiếp của Hội đồng Quốc gia Palestine (Palestinian National Council) từ 1977-1991; tuy nhiên ông không tin cậy chủ nghĩa quốc gia, lên tiếng chỉ trích Sađam Hussein và bênh vực Salman Rushdie.
Học tại Princeton và Harvard, giáo sư môn văn chương so sánh, ông mê nhất, những cuốn tiểu thuyết trong đó ông chỉ ra, nào là chủ nghĩa phân biệt sắc tộc, chủ nghĩa đế quốc, cũng như tinh thần phe nhóm, địa phương.
Tiếng tăm quốc tế của ông, là từ cuốn Chủ nghĩa Đông-phương, Orientalism (1978), một cuốn sách gây tranh luận, và làm bực mình. Một cuộc khai quật, mổ xẻ thái độ của Tây-phương đối với Hồi-giáo và Đông-phương, và cùng với nó là điều mà Said mô tả: "một màng lưới phân biệt sắc tộc, nguyên mẫu văn hoá, và ý thức hệ phi nhân." Ngoài ra, Said còn chính trị hóa, điều vốn giản đơn được coi là "văn chương so sánh". Cuốn sách trở thành đề tài hội thảo, và được dịch ra 15 thứ tiếng.
Cuốn sách xuất bản năm 1993 của ông, "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc", đặc biệt là do tham vọng và tính uyên bác của nó. Như một nhà điểm sách nói về ông: "Said là một, trong số đếm trên đầu ngón tay, những nhà phê bình lớn lao, mang tính nhân bản, vượt biên cương, bờ ngăn".
Trong cuốn sau, Said phân tích tác phẩm của Austen, Thackeray, Dickens, Eliot, Kipling, Conrad, những tác giả khác, và khẳng định rằng: thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Anh mắc míu ngay từ khởi thuỷ với sự thành lập Đế quốc Anh. Rằng biện minh cho chủ nghĩa đế quốc nằm ngay trong tim trong hồn giấc mơ văn hóa Tây-phương. Ông còn đi xa hơn. Ông nghiên cứu thật tỉ mỉ văn chương những cựu thuộc địa, và vẽ ra bản đồ lịch sử cuộc đề kháng, và cùng với nó, là văn chương phản ảnh cuộc kháng chiến đó. Ở đây, ông lại đi sâu, và xa hơn, trên cái nền của cuốn trước, Orientalism.
Said tiếp tục kếp hợp phê bình văn hóa với nghiên cứu chính trị, người đọc hiển nhiên nhận ra điều này, trong hai bài viết năm 1996: "Đại diện cho người Trí thức (Representation of the Intellectual)", và "Hòa bình và Bất mãn: Những tiểu luận về Palestine trong Tiến trình Hòa bình Trung Đông (Peace and Its Discontents: Essays on Palestine in the Miđle East Peace Process").
Vào năm 1992, bác sĩ phát hiện, ông bị bệnh hoại huyết (leukemia). Bệnh chỉ làm ông cất cao tiếng nói. Nó cũng làm ông phải thực hiện một chuyến thăm viếng Jerusalem, nơi chốn ra đời, và khởi sự viết hồi ký về cuộc đời trước 1967 của ông.
Bài phỏng vấn được thực hiện tại văn phòng của ông tại Đại học Columbia vào ngày 26 tháng Hai, 1993; đúng ngày Trung tâm Thương mại Thế giới bị ăn bom.
Wachtel: Ông từng nói, cái nền của ông là một chuỗi những đổi dời, di xứ, và không thể vãn hồi. Rằng cái cảm quan ở giữa những nền văn hóa bám riết ông. Có lẽ chúng ta nên lần theo những đổi dời, bắt đầu bằng nơi chôn rau cắt rốn: Jerusalem, thời Palestine. Ông cảm thấy ở giữa những văn hóa, khi còn là một đứa trẻ?
Said: Đúng như vậy. Tôi sinh ra ở Jerusalem, cha tôi là từ Jerusalem, nhưng ông thuộc mẫu người khá lạ. Sống ở Hoa Kỳ trước khi lấy vợ. Ông trốn đi lính cho Thổ Nhĩ Kỳ, qua Mỹ vào năm 1911 hay 1912. Họ tính bắt ông đi đánh nhau ở Bulgaria, tôi nghĩ vậy. Lúc đó ông 16 hay 17 tuổi. Sau đó, ông gia nhập quân đội Hoa Kỳ, vì nghĩ rằng sẽ được đi chiến đấu chống Thổ Nhĩ Kỳ. Thực sự, ông gia nhập quân đội Canada, rồi bỏ ngũ, vì biết họ sẽ không đưa ông qua Trung Đông. Sau đó mới tới quân đội Hoa Kỳ. Ông chiến đấu ở Pháp, và bị thương ở đó. Thành công dân Hoa Kỳ. Sau chiến tranh chừng một năm, khoảng 1919, ông trở lại Palestine, làm ăn chung với một người bà con. Cuối thập niên 1920, ông có một cơ sở kinh doanh sách vở và đồ dùng văn phòng tại Ai Cập. Tôi sinh tại Jerusalem vào năm 1935, khi đó cha mẹ tôi đi đi lại lại giữa Palestine, và Ai Cập. Tôi không sống nhiều ở Palestine, và ở bất cứ nơi nào, là vì vậy. Chúng tôi lúc nào cũng di chuyển. Có thể, đầu năm Ai Cập, giữa năm Palestine, cuối năm ở Lebanon, nơi đây chúng tôi có một căn nhà. Lại thêm, có cha là công dân Hoa Kỳ, tôi thừa hưởng cùng lúc hai thứ, Hoa Kỳ và Palestine. Tôi sống ở Ai Cập, mà không phải là người Ai Cập. Tôi cũng giống cha, một mẫu người phức hợp kỳ cục. Đây là hồi ức sớm sủa nhất của tôi.
Wachtel: Ông cũng đã từng coi mình là một thiểu số trong một thiểu số.
Said: Cha mẹ tôi đều là tín đồ Tín Lành (Protestants) ở Palestine. Điều này thực sự có nghĩa, họ bị tách rời khỏi khối đa số tín đồ Ky-tô (Christians), khối đa số này lẽ dĩ nhiên lại là thiểu số trong một xã hội thiết yếu là Hồi-giáo. Hầu hết tín đồ Ky-tô giáo ở Trung Đông - hay ít ra ở vùng Levant - là theo Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodox), nhưng cha mẹ tôi lại là con cái của những người đã cải đạo, không còn giữ gốc Chính Thống Giáo Hy Lạp. Cha tôi, qua cha của cha tôi, trở thành tín đồ Anglican - một Episcopalian. Má tôi - qua ông già của bà - trở thành Baptist. Đây là một trong những điều lý thú từ những phái đoàn truyền giáo mà ra. Khi tới Palestine, Lebanon, Jordan, và Syria vào những năm 1850, họ đã thất bại, không làm sao cho những người Hồi giáo hoặc Do-thái chuyển qua Ky-tô giáo; đây là điều họ định làm; thay vì vậy, cuối cùng họ chuyển những tín đồ Ky tô từ khối đa số qua những tân giáo mới như trên.
Wachtel: Một đứa bé, lại ở giữa những nền văn hoá như thế, thì sao?
Said: Tôi phải nói sự thực, một cách "thực thà, lương thiện nhất": thật thê thảm. Hồi ức đeo đuổi hoài hoài, ngay từ bé: mình là thứ trôi sông lạc chợ (a misfit). Xấu hổ trần ai. Tôi luôn luôn bức xức về liên hệ của mình với người khác, như thể lúc nào cũng muốn được như họ, hoặc Hồi giáo/Ai Cập, hoặc Hồi giáo/Palestinian. Và tôi luôn luôn có cảm giác (mình) hoàn toàn không đúng. Cuốn sách tới của tôi có tên là "Không Hoàn Toàn Đúng" (Not Quite Right). Tôi luôn luôn nghĩ rằng, mình có đây là để trả giá cái điều đó (I was being made to pay for it), cách này hoặc cái khác.
Tôi quên không thêm vô một yếu tố quan trọng: tôi luôn học, trường Anh hoặc trường Pháp. Thành thử ngoài vấn nạn căn cước Arab, còn chuyện do học hành mà ra. Vào cái tuổi mười ba, mười bốn, có thể nói là tôi biết mọi điều về lịch sử Anh, hay Pháp. Nhưng tôi chẳng biết gì về nơi tôi đang sống. Đó là phong cách học (style of education). Đây là một sự mất thoải mái thường xuyên. Gia đình tôi khu trục nó, bằng cách tạo vỏ bọc chung quanh chúng tôi. Chúng tôi khác biệt nhau một cách không bình thường, và chúng tôi - bốn chị em và tôi - mỗi đứa có những loại quà khác nhau. Hậu quả là chúng tôi sống trong một thế giới giả đò (a make-believe world), và thế giới này không có liên hệ gì tới: a/ thực tại, b/ lịch sử và thực tế nơi chốn mà chúng tôi đang sống.
Wachtel: Nói chung là ông không hòa đồng được với một số bạn bè. Như tôi được biết, khi gia đình ông chạy qua Cairo vào năm 1947, ông đã trải qua vài tháng tại một ngôi trường có tên là "Eton của Trung Đông", dành cho con nhà quyền quí, trong đó có ông vua tương lai của Jordan, King of Hussein, và tài tử Omar Sharif.
Said: Vào thời học chung, tôi không biết anh sẽ là một tài tử nổi tiếng. Anh là đầu đàn trong trường, lớn hơn tôi bốn hoặc năm tuổi, và thường chỉ chơi với đám nhỏ như tôi. Học sinh ở đây được phép có thầy riêng. Và bị đòn không ít. Ngày đầu tiên tôi đã bị đòn vì nói chuyện trong lúc cầu nguyện. Thầy toàn người Anh, họ đều tỏ ra khinh bỉ học trò như tụi tôi. Luôn luôn có chiến tranh giữa hai bên. Đó là những ngày cuối cùng người Anh còn hiện diện tại Ai Cập, thành thử mấy ông thầy coi như họ là những người còn lại sau cùng, đại diện cho cả một đế quốc. Nói chung thật không vui vẻ một tí nào, vài năm sau (ở đây ghi là vài năm, trong khi câu hỏi, vài tháng. CTND), tôi bị đá văng ra khỏi trường.
Wachtel: Tại sao?
Said: Thì bị gán cho là hạnh kiểm xấu, thực sự là, luôn gây rối trong lớp, chọc tức mấy ông thầy. Bây giờ nhìn lại, tôi có cảm tưởng những ông thầy là những người lính già mệt mỏi của Đệ Nhị Chiến. Nếu họ quay lưng về phía lớp học, là nó biến thành bãi chiến trường - chúng tôi thô bỉ không thể tưởng tượng được - và họ chỉ còn một cách lắc đầu. Họ là người Anh (British), và không thể hiểu những điều chúng tôi nói bằng tiếng Ả Rập. Một sự kiện quan trọng: khi tới nhập học, chúng tôi được phát một tập kỷ yếu, trong đó là những luật lệ; luật thứ nhất: tiếng Anh là ngôn ngữ ở trong trường, và nếu học sinh bị bắt gặp đang nói tiếng Ả Rập, hay một ngôn ngữ khác, người đó bị đánh đòn, hoặc bị nhốt. Bởi vậy chúng tôi nói tiếng Ả Rập là để tấn công thầy giáo. Ông già tôi sau đó quyết định, nếu có cố cho tôi trở lại trường Anh, thì cũng như không. Thế là ông tống tôi qua Mỹ, vào một trường thanh giáo chán không thể chịu được, ở New England. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy tuyết, vẻ đẹp của nó.
Wachtel: Nhưng trường học là một thảm họa?
Said: Nó thật kinh khủng. Nhưng do tôi khá khôn, lại học được, nên họ không thể đuổi. Tôi không nói tên trường, vì nó thật sự nổi tiếng. Bạn phải thức dậy vào giờ ma họp chợ (ungodly hour), và làm những chuyện như vắt sữa bò, hoặc đủ thứ chuyện "thánh thiện" khác. Nhưng do tôi đã được cái lò Anh (the English system) huấn luyện quá kỹ, cho nên mọi thứ đều là trò trẻ con đối với tôi. Mấy chuyện còn lại đều quá tệ. Vả chăng, ngay cả ở đó, tôi cảm thấy mình không hợp với hệ thốngỉ. Có thể là do bản chất, tôi không thích nó, hoặc trong tôi thiếu, cái gọi là hệ thống. Bởi vậy sau hai năm, tốt nghiệp, với điểm cao nhất, tôi vẫn không được ngợi khen hoặc công nhận giá trị. Khi cố hỏi, họ nói tôi không hội đủ điều kiện đạo đức. Và tôi chẳng bao giờ tha thứ cho họ về chuyện coi thường luật lệ học vấn, do chính họ đặt ra, khi phải đối diện với thành quả của tôi.
Wachtel: Ông coi cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế Quốc" như một cuốn sách của lưu vong. Như thế, ông đúng là một con người mà những quan tâm hiện thời được "kiểm tra một cách chặt chẽ" bởi cuộc tranh chấp giữa văn hóa từ đó ông được sinh ra, và văn hóa ông đang sống. Ông có nghĩ, theo một nghĩa nào đó, chúng ta đều là những kẻ lưu vong trí thức. Ông có coi lưu vong là một sự kiện hồ hởi?
Said: Tôi không biết bất cứ một điều kiện nào khác, để mà nói ra sự thực với bà. Năm nay tôi 57 tuổi. Năm ngoái tôi trở lại Palestine, sau 45 năm xa nó. Đi với vợ con. Chúng tôi có trở lại căn nhà nơi tôi ra đời. Thật dễ chịu khi được nhìn lại căn nhà, sau bao năm tháng như thế đó, nhưng cũng thật rõ ràng: tôi không thể trở lại. Tôi thực sự không hiểu được thế nào là cảm thấy hoàn toàn ở nhà. Tôi cứ giả dụ, như nó là những trái nho chua chát, và có lẽ cũng chẳng đáng tìm kiếm làm chi.
Wachtel: Tôi nghĩ là, ngay từ khởi thuỷ, ông đã cố tách rời, văn chương và chính trị. Một bên là nghiên cứu văn học Anh theo lối trường lớp, và một bên là những quan tâm chính trị của ông. Tôi nghĩ, ông có một cuộc sống rất là "schizophrenic" (thần kinh bại liệt), như ông đã từng gọi. Làm cách nào, ông kiếm ra con đường để nối kết những điều ông quan tâm?
Said: Sự kiện (cần nói ra là), chúng ta sống trong thế giới. Đây là vấn đề thời-cơ (time and right event). Trong trường hợp của tôi, đó là Cuộc Chiến 1967. Lúc đó, tôi là một bậc mô phạm gương mẫu; tôi làm toàn những điều phải, điều đúng - học trung học, đại học, lấy bằng Ph. D., có việc làm, tạo môi trường bạn bè, có sách xuất bản - và rồi 1967: thế giới mà tôi biết đó vỡ vụn ra. Thêm nhiều phần đất Palestine, phải nói là phần còn lại của Palestine, bị Do Thái tước đoạt - West Bank, và Gaza - và bất thình lình, tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào khu vực này. Tôi chưa từng dậy môn văn chương Trung Đông - Tôi có dậy vài cuốn sách Ả Rập, qua bản dịch, nhưng cơ bản mà nói, mọi sáng tác của tôi là về văn chương Tây-phương. Thế là tôi bắt đầu tự làm quen với chính mình, với cái phần đời bị đàn áp, hủy diệt, tức phần lịch sử đời tôi như là một người Ả Rập. Tôi làm được vài chuyện. Tôi đi Trung Đông khá thường xuyên. Lấy vợ ở đó. Một người đàn bà Trung Đông. Và lần thứ nhất trong đời, tôi lo học, nghiên cứu một cách hệ thống ngữ văn (philology) Ả Rập, và những tác giả cổ điển thuộc truyền thống Ả Rập. Vào thời điểm này, lực lượng Palestine đụng độ nặng nề với những người Jordanians. Bởi vì phần lớn gia đình tôi sống ở Jordan, tôi tới viếng thăm bà con ở Amman vào năm 1970. Ở đó, tôi gặp một số bạn bè cùng học trung học, người Palestine, họ đã trở về và gia nhập lực lượng. Thật là một cú sốc đối với tôi. Và cứ thế tôi càng ngày càng dính líu tới phong trào, khi nó chuyển tới Beirut (thời gian những năm 1970, gia đình tôi ở đó). Tôi ngày càng quan tâm tới những vấn đề chính trị trong cuộc chiến đấu của người Palestine. Lẽ tự nhiên, trong đó có cả quan tâm tới những giải pháp cho nỗi đau bị tước đoạt, lưu vong, cuộc chiến chính trị cho nhân quyền, chiến đấu để nói lên điều không thể nói lên được. Tất cả mớ bòng bong, và rồi cuốn sách của tôi, Orientalism, đã thoát thai từ kinh nghiệm đó.
Wachtel: "Chủ nghĩa Đông-phương" là một trong những cuốn tạo ảnh hưởng nhất của ông. Trong đó, ông đưa ra vấn đề: những người Ả Rập hay thế giới Đông-phương đã được tiêu biểu như thế nào, trong và bởi, những người Tây-phương. Cơ bản mà nói: nó đã được tiêu biểu sai (misrepresented).
Said: Có tiêu biểu là có là sai lạc, hoặc thế này hoặc thế khác. Nhưng trong "Chủ nghĩa Đông-phương", tôi khẳng định một điều rằng: những quan tâm trong việc tiêu biểu hóa Đông-phương qua cái nhìn Tây-phương, đều nằm trong sự kiểm soát của đế quốc, và đây là những "đặc quyền" của nó. Tôi cố gắng chứng tỏ: cuộc xâm lăng Đông-phương, bắt đầu với Nã Phá Luân, vào cuối thế kỷ 18, và tiếp tục khi Anh và Pháp cứ thế ăn sâu vào Đông phương, nó đã tạo nên mầu sắc, và hình dáng cho cái gọi là tiêu biểu hóa Đông-phương bằng cái nhìn Tây-phương. Điều này chẳng mắc mớ gì tới cách giải thích, vào thế kỷ 19, của đa số những nhà khoa bảng chuyên nghiên cứu về Đông-phương - đặc biệt là những giáo sư người Đức, cũng có cả những giáo sư người Anh, và Pháp. Theo họ, nó (sự tiêu biểu, cái nhìn Đông-phương bởi Tây-phương) mang tính khách quan, và khoa học. Thực sự, đây là vận hành của quyền lực, và kiểm soát thường xuyên, liên tục đám dân mà họ cố gắng cai trị.
Wachtel: Những những hình ảnh - những biếm họa (caricatures) của một Đông-phương không thể nào chiếu giọi, một phương Đông huyền bí, tính quỉ ma, sự ghê rợn của thế giới Ả Rập - tại sao chúng "cần thiết được tạo ra"?
Said: Tôi nghĩ, ở đây sự ngu dốt, thiếu hiểu biết đã đóng một vai trò lớn lao. Đã có một sự thù nghịch, và nó ngăn cản điều mà tôi gọi là sự trao đổi bình thường giữa những văn hóa. Một trong những điều thực sự quái lạ, đó là có một sự liên tục bướng bỉnh, ngu đần giữa những cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo ở thế kỷ 12, và những cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo của thế kỷ 18, 19, và 20: chúng cứ thế, không thay đổi. Trước hết, tôi khẳng định: không có một Đạo Hồi, Islam, thuần nhất, và giản dị. Có rất nhiều tín đồ Hồi giáo (Muslims) và rất nhiều cách để giải thích Đạo Hồi (Islam) - đây là chủ đề một cuốn sách khác nhan đề là "Covering Islam" (Tạm dịch: "Theo dõi Hồi giáo"). Có một khuynh hướng, luôn luôn muốn đồng hóa, gói tròn cái khác, một điều gì đó, do ngu dốt, một phần; ngoài ra còn do sợ hãi, bởi vì những đạo quân Ả Rập đã tiến vào Âu-châu, và bị đánh bại ở thế kỷ 14, và 15. Thành thử ý nghĩa này đã có từ lâu rồi. Thứ nữa, lẽ dĩ nhiên, còn bộ ba tín ngưỡng nhất thần: Đạo Hồi là sau chót, trong ba tín ngưỡng nhất thần lớn (hai đạo kia là Do-thái giáo và Ky-tô giáo). Theo một nghĩa nào đó, sự liên hệ gần gũi giữa người Ả Rập, thế giới Hồi-giáo với Âu-châu đã phát sinh từ một điều khó chịu, mất thoải mái. Thật dễ hiểu: con người, khi đứng trước dị biệt, thường miêu tả cái đó nguy hiểm, cái đó đáng sợ, cuối cùng giản đơn nó về một vài bản kẽm có sẵn.
Điều này thực đáng sợ. Rằng trọn lịch sử tạo thành Đông-phương đang được giảm trừ, cho nên, bây giờ, trong báo chí Tây-phương, thí dụ vậy, những gì mà người đọc về Đạo Hồi, về thế giới Ả Rập, đã được tối giản một cách ghê sợ, và được hóa trang, giả mạo, như là lịch sử của hai hoặc ba trăm năm liên hệ gần gũi giữa những người Âu-châu, và về một mức độ nào đó, những người Mỹ, một bên, và bên kia, là những người Ả Rập và những người Hồi giáo. Như thể cả hai luôn ở trong thế đối diện, ở giữa họ là con mương rộng lớn, và cứ thế đôi bên ném đồ ăn hư thối vào nhau.
Watchtel: Chuyện này không thể thay đổi?
Said: Không. Và ngày càng tệ. Khi có khủng hoảng, như Cuộc Chiến Vùng Vịnh, và trên cái nền "chuyện thường ngày ở huyện" của giới truyền thông báo chí Mỹ, những bản kẽm như trên ngày càng trở nên hết hấp dẫn, mất đi dần sự tha thứ, tính xác thực của chúng. Càng ngày, chúng càng không đáp ứng thực tại có thể chấp nhận được, mang tính nhân bản. Đạo Hồi ở Tây-phương là nguyên mẫu sắc tộc, văn hóa cuối cùng có thể chấp nhận được; bạn có thể rũ bỏ mà không cần nghĩ làm như vậy là sai, hay phải lo ngại, sợ hãi.
Wachtel: Tại sao ông lại nghĩ nó là như vậy?
Said: Có nhiều lý do, nhưng tôi nghĩ nguyên nhân chính là không có sự ngăn ngừa. Không một người phương Tây, hay nói như thế này, không một người Bắc Mỹ nào hiểu biết nhiều về thế giới Hồi giáo. Nó ở ngoài kia, nó chủ yếu là sa mạc, (ở đó có) rất nhiều cừu, lạc đà, những con người miệng ngậm dao, những tên khủng bố, vv... Gia tài văn hóa, những cuốn tiểu thuyết, và những cuốn sách khác xuất hiện bằng tiếng Anh không hề quan tâm, để ý tới nó. Chẳng có gì ngăn chặn người ta ở đây nói điều họ mong muốn. Về mặt khác, những người Ả Rập và những người Hồi giáo không thực sự hiểu những phương thức chính trị về biểu thị văn hóa ở Tây Phương. Hầu hết những chế độ ở trong thế giới Ả Rập lại mang tính độc tài cơ bản, rất không được lòng dân, những chế độ thiểu số hoặc loại này hoặc loại khác; họ không quan tâm khi nói bất cứ một điều gì về chính họ, bởi vì như vậy là bắt buộc chường mặt ra để biện minh, về những chỉ trích. Những huyền thoại về Mỹ Châu, và Tây Phương trong thế giới Ả Rập đã được bản kẽm hóa, tất cả những người Mỹ đều quá ám ảnh bởi sex, họ có cẳng dài, họ ăn rất nhiều. Hậu quả là, nơi đúng ra có con người, lại chỉ thấy trống không, nơi đúng ra có trao đổi, đối thoại, cảm thông, lại chỉ có một thứ không-trao đổi tệ hại.
Wachtel: Một trong những mâu thuẫn bề ngoài, phức tạp của đời ông, đó là: mặc dù là thành viên chính quyền-lưu vong Palestine, một quán quân trong vấn đề giải phóng Palestine, ông lại tỏ ra không thoải mái với chủ nghĩa quốc gia.
Said: Chủ nghĩa quốc gia thật dễ thoái hoá, biến thành chủ nghĩa sô vanh (chauvinism). Khi bạn bị tấn công ba bề bốn bên, nhất là trong những phong trào như của người Palestine, khi mà chúng tôi không thực sự có nhiều bạn bè; nó dễ trở thành co cụm, và coi tất cả mọi người không suy nghĩ như nó, đều là kẻ thù. Đây là trường hợp đối với những người Palestine sống trong thế giới Ả Rập. Thật quá dễ hiểu. Đã có một thời, là một người Palestine là một điều thực phong nhã, cao cả. Nhưng thế giới Ả Rập ngày càng bị thu hẹp, giản trừ, cùng với nó là nghèo đói, kinh tế, xã hội phân hóa. Mọi người quá mệt mỏi vì cuộc chiến đấu kéo dài quá lâu. Lại thêm vấn đề nghi ngờ lẫn nhau. Cứ thế họ càng trở nên co cụm thành những nhóm nhỏ, đồng nhất, tin tưởng nhau. Hãy nhìn chuyện xẩy ra ở Nam Tư, nơi vốn được coi là một nhà nước đa văn hóa, đa ngôn ngữ; nó đã thoái hóa đưa đến thanh lọc chủng tộc (ethnic cleansing). Cũng chuyện như thế xẩy ra ở Lebanon, nơi một xã hội đa nguyên (pluralistic society), với những người Ky-tô và Hồi, cuối cùng đã trở thành một cuộc tắm máu hàng ngày, vì cái điều được gọi là tấm căn cước, như người ta thường gọi tại đây. Nếu bạn bị hỏi căn cước, và nếu bạn có một cái tên sai, một tôn giáo lầm, bạn sẽ bị bắn, hoặc bị cắt cổ.
Tôi sợ rằng, những chuyện không vui về chủ nghĩa quốc gia cũng đang ló diện tại những xã hội như Hoa Kỳ, và có thể ở Canada cũng vậy. Những cộng đồng sắc tộc khác nhau đang cảm thấy vấn đề làm thế nào để bảo tồn, gìn giữ căn cước của riêng họ, chống lại sự tấn công của những kẻ khác. Chính trị căn cước biến thành chính trị phân biệt, và người ta cứ thế lui vào pháo đài. Tôi có cảm tưởng quái đản là "một người nào đó" đang khoái chuyện này, thường là những người ở trên cao, vốn thích chuyện giựt dây những cộng đồng, khiến họ chống đối lẫn nhau. Nó cổ điển, và là luật chia để trị của đế quốc. Thí dụ như ở Ấn Độ, bạn có trong tay người Sikhs, người Muslims, người Hindus phụ thuộc vào bạn, và nghi ngờ những người ái quốc. Đó là tất cả cái phần gọi là tiến trình của chủ nghĩa quốc gia. Về điều này, tôi tự cảm thấy chẳng vui vẻ một chút nào hết.
Wachtel: Như vậy là những chuyện quá đa đoan phức tạp đã khiến cho ông ở vào thế đi trên dây, bởi vì ông phải bước hai bên, không chỉ về chính trị, mà còn theo kiểu, của một kẻ đánh động, đưa ra những giải pháp cho chủ nghĩa đa văn hóa, và kinh điển văn học (the literary canon). Một mặt ông hô hào chuyện cởi trói (opening things up), một mặt ông bảo vệ qui tắc văn chương, kinh điển văn học.
Said: Tôi bảo vệ điều mà tôi gọi là tác phẩm tốt (good work). Nguyên tắc chính của tôi khi đánh giá một cuốn tiểu thuyết, một bài thơ, hay một vở kịch, không liên quan gì tới căn cước cá nhân người viết ra tác phẩm. Căn cước cá nhân, cũng thú vị đấy, nếu biết được, nhưng đây không phải là giải pháp chính cho vấn đề. Một cá nhân "may mắn" thuộc loại có mầu da "đúng", có giới tính "được", có quốc gia "ngon", như vậy không có nghĩa là tác phẩm của người đó tốt, tuyệt. Có lẽ bà đã nghe nói về Hanan Ashrawi, một phụ nữ Palestine, phát ngôn viên của Phong Trào Giải Phóng Palestine, PLO. Bà là một sinh viên của tôi, và đã có viết một luận án văn chương về West Bank dưới sự chiếm đóng. Bà đã nhận ra một điều, là một người Palestine, và viết về (cái việc) bị chiếm đóng, bị thống trị, như vậy không có nghĩa là sáng tác ra được một bài thơ hay, hoặc một cuốn tiểu thuyết tốt. Đấy là vấn đề, và nó thật quan trọng.
Tôi không nói, như thế là không chủ quan. Phải rất chủ quan, nếu quyết tâm viết ra một tác phẩm tốt. Tôi thường đụng hoài với những người nói về khách quan tính, nhất là trong giới truyền thông. Bởi vì hiển nhiên, mọi chuyện trên đời đặt trên cái nền diễn giải mang tính chủ quan. Theo một nghĩa nào đó, khi nói về phẩm chất là nói về chủ quan tính. Không ai có thể nói cho bạn, rằng cuốn sách này lớn lao, vĩ đại, "bạn phải tin như vậy, bởi vì tôi nói ra điều này". Đây là vấn đề của tra hỏi, nghiên cứu. Theo tôi, một cuốn sách hay đòi hỏi một cái đọc kỹ, đọc đi đọc lại, cứ mỗi lần đọc lại có thêm thú vị, hoặc là do nó mở rộng phần ý thức, tăng khiếu thưởng ngoạn, cảm tính hay gì gì đi nữa, một tác phẩm kém không đạt được như vậy. Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm này. Bạn đọc một cuốn tiểu thuyết của Danielle Steel - như tôi thường đọc - bạn đâu cần phải đọc lại, nhưng nếu bạn đọc một cuốn của Dickens, bạn muốn trở lại với nó.
Wachtel: Ông có trích dẫn Walter Benjamin: Mọi tài liệu về văn minh đều là một tài liệu về dã man. Một cách nào đó, cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" là bàn về vấn đề này.
Said: Đúng như vậy. Một tác phẩm lớn lao không có nghĩa là nó tất yếu ngây thơ, vô tội, hoặc nó chẳng mắc mớ gì đến điều thô bỉ, tởm lợm. Khi "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" của tôi xuất hiện tại Anh, thế là có một trận bão phê bình điểm sách nổi lên. Rất nhiều người trong số đó cho rằng họ bị sỉ nhục, rằng một tác giả thánh thiện như Jane Austen thì có liên can gì tới đế quốc, nô lệ, mặc dù cái điều này không phải là tôi bịa đặt ra mà chính bà đã nói tới. Tôi không nói là bà kém tài văn đi, là vì điều này. Tôi chỉ muốn nói là tất cả những tác phẩm nghệ thuật cũng giống như con người đều mắc míu tới cái gọi là kém hấp dẫn, dã man, hoặc lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ. Điều này thật dễ nhận ra trong những tác phẩm thuộc loại qui chuẩn của thế kỷ 19 tại Âu-châu. Chúng ta đều bị vướng vào chuyện nô lệ, đế quốc qua những gì được nói về chúng. Tôi không tin đây là chuyện khó hiểu. Câu hỏi đặt ra là: một khi bạn nhận ra điều này, bạn làm gì với nó? Bạn muốn đè bẹp nó, hay là bạn cho rằng có gì đâu mà phải quan tâm, để ý.
Wachtel: Ông nói, ông không muốn là một người khắt khe, nhưng ông lại tránh đọc văn chương cổ điển, theo nghĩa chúng là những tác phẩm tuyên truyền cho thực dân thuộc địa?
Said: Tôi không đọc chúng theo cách đó. Trong cuốn sách, tôi nói, thật lầm lẫn nếu giản trừ những tác phẩm cổ điển như thế, vào một bảng danh sách dài những trường hợp này nọ, của chủ nghĩa đế quốc. Hoặc nói đây là những tác phẩm mang tính đế quốc. Chúng đâu phải như thế. Chúng là một phần của văn hóa đế quốc, và một phần của tiến trình - như những lý thuyết gia về đế quốc thường nói - liên can tới không chỉ những hành xử ghê tởm nhất nhưng còn tới vài sắc thái tốt đẹp nhất của một xã hội. Rất nhiều người thật sáng chói đã liên can tới đế quốc: những nghệ sĩ lớn, như Delacroix; những nhà văn lớn, như Flaubert. Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi trường hợp, bản chất, mức độ liên can khác biệt nhau, và cách nhìn của họ thật là khác biệt. Họ chẳng có gì là như nhau, và đây là lý do tại sao có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu, trong những cuốn sách của tôi, trong cả hai cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" và "Chủ nghĩa Đông-phương". Tôi không cố gắng chứng tỏ: họ đều là đế quốc, nhưng mà là: họ đưa ra những cái nhìn khác nhau về thế giới đế quốc, trong những tác phẩm của họ. Họ chi li, chau truốt nó, đem đến cho nó một vài loại cảm giác, sự thích thú; như Kipling đã làm với (tác phẩm) Kim, thí dụ vậy.
Wachtel: Ông còn đưa ra một nhận định rất khó nắm bắt, theo đó, tiểu thuyết và sự tạo thành đế quốc đã mắc míu với nhau, không thể nào gỡ ra được; rằng tiểu thuyết không giản dị chỉ là phản ảnh điều gì đang xẩy ra, nhưng chủ nghĩa đế quốc và tiểu thuyết, một cách nào đó, đã hỗ trợ lẫn nhau.
Said: Đây là một nhận định khá xa vời, nhưng tôi nghĩ, nó thực.
Wachtel: Làm sao chúng hỗ trợ cho nhau?
Said: Cuốn tiểu thuyết Anh có giá đầu tiên là "Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký (Robinson Crusoe)". Và "Robinson Crusoe" sẽ không thể hiểu được nếu thiếu cuộc truy tìm săn đuổi mang tính đế quốc. Lỗ Bình Sơn rời Anh quốc, bị đắm tầu, thấy mình ở trên hoang đảo, và chỉ trong vài ngày, vài trăm trang tiểu thuyết, anh ta trở thành ông chủ tất cả những gì quanh anh ta. Và sau đó, bạn nhận ra một điều là, những gì hoang đảo đã làm cho anh ta, cho phép anh ta tạo dựng một thế giới riêng của mình. Nói một cách khác, chủ nghĩa đế quốc, như ở mức độ như thế, đã liên hợp với một phương hướng sáng tạo nào đó. Sau này, vào cuối thế kỷ 19, John Seely nói, rằng sự kiện trung tâm Anh Quốc, sự kiện trung tâm văn hóa Anh, căn cước Anh, nó là: bành trướng. Điều này không đúng, đối với mọi xã hội. Nhận định của tôi là: trong thế kỷ 19 và 20, Anh quốc, tự thân nó, đã là một cái gì thật độc đáo. Ý nghĩ thật lạ đời: bạn đang ngồi ở London - hãy giả dụ bạn có một căn phòng nho nhỏ ở Hampstead - và buổi sáng, thức dậy, bạn nói: "Ta kiểm tra cuộc sống của hàng trăm con người", bởi vì mỗi một người Anh kiểm tra một trăm, hoặc trăm rưởi con người khác, nếu so dân số Anh và dân số Ấn- độ, nơi họ chiếm đóng trên ba trăm năm năm. Sự kiện đó, cộng thêm sự kiện này: chưa có một xã hội Tây phương nào giữ được tính cha chú (kiểm tra, chiếm đóng) liên tục như thế, trong truyền thống đế quốc, ngoài Anh quốc ra. Và sự liên tục không bị bẻ gẫy này còn là của chuyện viết văn, viết tiểu thuyết. Không có tiểu thuyết Ý trước 1860, hay 1870. Không có tiểu thuyết Đức, cho mãi đến sau 1870. Với một vài ngoại lệ, không có tiểu thuyết Tây-ban-nha, ở thế kỷ 19. Tôi đang nói về sự liên tục. Theo hầu hết các nhà sử gia, tiểu thuyết Anh bắt đầu với những người như Defoe vào ngay đầu thế kỷ 18 và cứ thế tiếp tục, không gẫy khúc, qua thế kỷ 18, 19 và 20.
Wachtel: Nhưng như vậy là ông đặt nặng vấn đề nhân quả (causality), trong khi ở đây, chỉ là vấn đề đồng thời (synchronicity)?
Said: Không, tôi không nói về nhân quả, mà về đồng hành (accompaniment). Tất cả những tiểu thuyết gia lớn của thế kỷ 19 đều nhắc nhở tới những sự kiện chiếm đóng thuộc địa, thí dụ như di dân tới những nơi chốn như là Úc, Hoa Kỳ hay Phi Châu. Cũng như vậy, tuy ở mức độ thấp hơn, là Pháp. Nhận định của tôi là như thế này: Sự kiện chiếm đóng thuộc địa đã tác động lên trí tưởng tượng, gây hứng khởi, và là một phần trong cấu tạo căn cước cá nhân. Hầu hết tiểu thuyết thực sự chỉ là sáng tạo ra một căn cước giả tưởng, tôi là ai? Thí dụ, tôi là Pip, trong "Great Expectations" ("Hoài Bão Lớn", tác phẩm của Dickens, CTND), hay là Tom Jones, đứa con hoang. Người ta thấy anh ta ở trên giường, ở ngay đầu cuốn truyện; tới cuối truyện, chúng ta biết anh ta là ai. Tiểu thuyết thực ra chỉ là một dạng tích tụ văn hóa, và tiện nghi hóa, làm sao cho cái tôi được thoải mái, dễ thở trong xã hội. Một phần của tiến trình này đó là: cái tôi bị vướng víu với những mục tiêu mang tính đế quốc. Trong trường hợp Mansfield Park của Jane Austen, thí dụ vậy, đồn điền nô lệ mà Sir Thomas Bertram sở hữu ở Antigua đã được sử dụng như túi bạc bảo đảm cuộc sống ở Mansfield Park, Anh quốc. Điều tôi gọi là dự phóng hoá, ở trong giả tưởng, trong cách tự sự, nó giả dụ rằng Anh quốc đã dính chặt với những thuộc địa ở hải ngoại theo nhiều đường hướng khác nhau. Nhưng chúng ta không nhai đi nhai lại mãi cùng một điều, bởi vì mỗi cuốn tiểu thuyết là mỗi chút khác biệt.
Wachtel: Liệu có thể bị coi là quá ngây thơ khi coi: cốt truyện nó phải như vậy?
Said: Đâu có gì là ngây thơ: nó chính là cốt truyện. Nhưng tại sao cốt truyện đó mà không phải cốt truyện khác? Mọi cuốn tiểu thuyết liên quan tới chuyện chọn lựa, một phần của nhà văn, và của sự kiện, rằng đó là một đề tài sẵn có trong tầm tay; phần khác thuộc về tài sản trí thức, tình cảm, tưởng tượng, của người Anh. Nếu bạn đọc một cuốn tiểu thuyết Đức, sẽ khác hẳn. Sẽ chẳng có bàn vềà những vùng đất, lãnh thỗ của chúng ta, và chúng ta không thể đi Ấn-độ. Nó (Ấn-độ) có một chức năng khác hẳn: một chủ nghĩa hương xa (exoticism), đại khái như vậy. Trong khi ở Anh quốc, nó là một nơi chốn người ta có thể đi tới, bởi vì chúng ta ở đó, thí dụ như trong "Đường qua Ấn-độ, A Passage to India" (tác giả E.M. Forster, CTND); Kim, hay trong vài tác phẩm của Conrad. Anh quốc là tất cả mọi nơi, nói theo nghĩa đen. Bạn cứ thử nghĩ về nó, một phút thôi: rõ ràng là người Anh gần như chỗ nào cũng có. Vào thời kỳ 1918, một nhóm nhỏ những quyền lực Âu-châu đã ngự trị, chiếm đóng 85% thế giới. Cái điều giản dị, tự nhiên - chiếm đóng, sở hữu, vốn chỉ là một kinh nghiệm lịch sử - biến thành kinh nghiệm cho trí tưởng tượng (imaginative experience), bạn thấy không? Tôi tin nó là như vậy, nó có đó, và bạn làm gì với nó?
Wachtel: Ông làm gì với nó?
Said: Tôi nghĩ bạn phải coi đây là một phần của một điều gì lớn lao hơn nhiều. Ý của tôi là: kinh nghiệm này một phần do việc đọc tiểu thuyết Anh. Tôi không nói phần quan trọng nhất, nhưng nó là một phần quan trọng. Người ta còn phải nhớ - nhiều người không nhận ra - một điều là: những nơi chốn được Jane Austen hay Kipling nhắc tới, có một lịch sử vượt ra ngoài vai trò của nó ở trong tiểu thuyết. Vào năm 1814, khi cuốn "(Công viên) Mansfield Park" được xuất bản, Antigua là một thuộc địa đồn điền của Anh quốc, hầu hết những người đọc nó nói, thì nó như vậy, đúng rồi. Nhưng sự kiện (cần nói ở đây là), kinh nghiệm (về một trú sở, nơi chốn được nhắc tới, như ở trong tiểu thuyết) vẫn tiếp tục, và Antigua đã được giải phóng, trở thành độc lập.
Đã có trọn một nền văn chương thoát thai từ vùng Caribbean, được viết bởi những người như V.S. Naipaul hay George Lamming và cả một trường nhà văn Caribbean; họ nhìn kinh nghiệm đế quốc trong lịch sử của vùng đất này - như là thuộc địa nô lệ - khác hẳn cái nhìn của Jane Austen.
Điều tôi đang nói: cách thích thú nhất, đầy đủ nhất, để đọc những người như Jane Austen hay sau đó, Kipling - những người viết về Ấn-độ - đó là không coi họ chỉ như tác giả những tiểu thuyết Anh mà còn như những tác giả khác từ đó mà ra. Bạn có thể đọc họ theo kiểu đối âm (contrapuntally), nếu phải sử dụng một ẩn dụ của âm nhạc. Họ cũng vẫn bàn về cùng một đề tài, cùng một lịch sử, nhưng từ quan điểm khác biệt. Khi bạn đọc họ theo cách đó, bạn có cảm tưởng về tính tương thuộc (interdependence) của những nền văn chương vốn được coi như phải cách ly lẫn nhau. Không có điều gì thú vị hơn, hứng khởi hơn (nếu đọc theo kiểu đó). Bởi vì nó cho bạn chạm tới một cách viết lớn. Nó cho bạn cảm tưởng, đây là một cuộc thi (contest), và rất nhiều nền văn chương cùng tham gia trong một cuộc chiến đấu về một lãnh thổ, một vùng đất mang tính hình tượng hay có thực. Nó còn cho bạn chạm tới những ý tưởng giải phóng con người, rằng con người không thể nào chịu đựng được, trong một thời gian quá dài, chủ nghĩa thuộc địa. Tôi chắc chắn một điều, những người đọc Jane Austen, biết rất ít, chuyện gì xẩy ra tại một nơi mà Sir Thomas Bertram đã tới đó. Tác giả đâu có nói chi nhiều về nơi chốn đó, bởi vì bà cũng chẳng biết chuyện chi xẩy ra: nó chỉ là một nơi bạn đến đó lượm bạc rồi trở lại Anh quốc. Bạn đi, và nếu có một cuộc nổi loạn của nô lệ, như ở trong tiểu thuyết, bạn "thanh toán" (fix) nó, rồi trở về Anh.
Wachtel: Có vẻ như những tiểu thuyết gia thời Victoria đã tiếp cận chủ nghĩa đế quốc theo cùng một kiểu, nếu nói về mưu đồ, cốt truyện.
Said: Đúng như vậy. Nhưng quan điểm của tôi, ở ngay đầu cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc", đó là thế giới bây giờ đã thay đổi. Chẳng còn chuyện, những người Ấn-độ ở Ấn, Những người Anh ở Anh, và du lịch lòng vòng. Hầu hết những xứ sở Âu-châu ngày nay không còn là những xứ sở thuần nhất, hoàn toàn được tạo nên bởi giống trắng. Có một cộng đồng lớn người Ấn-độ ở Anh, cộng đồng rất lớn người Bắc Phi Hồi-giáo ở Pháp, ở Đức, Thụy-điển, Ý và cứ như thế... Thế giới đã được pha trộn (mixed) rất nhiều. Tại sao có người Bắc Phi ở Pháp? Phần lớn, là do Pháp là ông chủ thuộc địa ngày xưa, và khi những người này phải bỏ nhà bỏ cửa vì nạn cướp phá, họ chọn Pháp là nơi tới; họ là dân nói tiếng Pháp. Trường hợp được coi là đơn tính (unilateral) ở thế kỷ 19 không còn nữa. Có những nhà phê bình viết bằng tiếng Anh, nhưng không phải là người Anh. Khi Conrad viết "Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness", ông tin rằng - và điều này hiển nhiên sai, nhưng không thể chê trách ông được, bởi vì do lệch lạc thời gian (the bias of time) - không một người Phi-châu nào có thể đọc nó; rằng ông viết cho những người Anh. Sự kiện là, những người Phi Châu bây giờ đã đọc "Giữa Lòng Đen", và họ nhìn nó khác hẳn những người da trắng đồng thời với Conrad, vào thập niên 1900, và cái đọc của họ trở thành một yếu tố của cuốn tiểu thuyết. Như vậy là cuốn sách mở ra theo một đường hướng mà ngay cả những tác giả của nó như Jane Austen, Dickens hay Conrad, dù nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được. Điều này thật đáng đón nhận bởi vì nó chỉ ra cho bạn thấy một mặt mới của tác phẩm, và nó khiến cho bạn nhìn sự vật trước đó bạn không thể nào nhìn thấy.
Wachtel: Đó là lý do tại sao Conrad là một tác giả ruột của ông?
Said: Có một điều gì rất "cùng một lứa bên trời lận đận" (tương đồng, affinity) giữa ông ta và tôi. Bởi vì ông người Ba-lan, rời quê hương chừng 16 tuổi, sống một thời gian ở Thụy-sĩ, Pháp; học tiếng Pháp, và vào tuổi hai mươi, bắt đầu viết và học tiếng Anh, sống ở Anh, trở thành thành viên của Thương Thuyền Anh (British Merchant Navy), đi biển đâu chừng 15 năm, rồi định cư ở Anh. Khi là nhà văn, ông chừng 40 tuổi. Ông luôn là người Ba-lan, ở bên ngoài cái gọi là vòng tròn Anh, theo một nghĩa nào đó, nhưng ông lại viết ra những cuốn tiểu thuyết Anh tuyệt vời. Ông có một thứ tâm thức lưu vong kỳ cục. Ông luôn ở bên ngoài bất cứ một hoàn cảnh nào mà ông viết về nó, và tôi chia sẻ tâm trạng này với ông. Cách ông nhìn sự vật hoàn toàn không giống bất cứ một người nào trong thời kỳ đó. Ông rất thân thiện với những người như Henry James và John Galsworthy, họ cũng là những nhà văn tuyệt vời nhưng không cho bạn cảm quan kỳ cục, muôn mặt của đổi dời và trên tất cả, chủ nghĩa ngần ngại, hồ nghi, đặc biệt là hồ nghi về căn cước và về hiện hữu ổn định (settled existence) như Conrad. Conrad là một trong số ít tiểu thuyết gia viết bằng tiếng Anh, theo cách của bậc thầy (tuy trong vài trường hợp có thể phản bác), về những nơi chốn như Indonesia, Malaysia, Thailand, Phi Châu, và Nam Mỹ. Ông ta thực sự là một người theo chủ nghĩa quốc tế (internationalist), của thời kỳ đế quốc.
Ông là một khuôn mặt phức tạp, và tôi không có ý giả dụ, tôi quan tâm tới ông là do ông chia sẻ cùng một cái nền khá giống nhau. Hoàn toàn không phải như vậy. Ông là một tiểu thuyết gia vĩ đại, và có một điều chi thật phức tạp, thật xum xuê mầu mỡ, và cũng thật giầu có về ông khiến tôi phải trở đi trở lại. Không một người nào nhìn sự vật hoàn toàn giống như cách ông nhìn. Còn một tương đồng nữa là, ông viết tiếng Anh như một người nào đó không phải là người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ (native-born speaker). Tôi kinh ngạc hoài về điều này. Có vẻ như ông không thèm để ý tới cú pháp (syntax). Cách nhấn tính từ cũng thật kỳ quặc. Cách viết theo bản năng ở một số điều như vậy thật là quá thích thú đối với tôi.
Wachtel: Còn một nhận định cũng thật khó nắm bắt nữa là: hơn bất cứ một lý thuyết nào khác như Marxism, giải cấu trúc, hay chủ nghĩa duy lịch sử mới (new historicism), chủ nghĩa đế quốc là chân trời chính trị xác định chủ chốt (the major determining political horizon) trực diện (vis-à-vis) với lý thuyết văn chương.
Said: Ý niệm về một giàn dựng toàn cầu trong văn chương thoát thai từ kinh nghiệm đế quốc. Loài người (people) có những đế quốc toàn cầu - đế quốc Anh, đế quốc Pháp thực sự đã là như vậy - và bây giờ, ở thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã thành công trong việc đi theo con đường bá quyền của Anh và Pháp. Do đó, thật thiếu chín chắn, thiếu nghiêm túc, khi nghiên cứu văn hóa mà không tính tới cái chân trời rộng lớn hơn - tôi muốn nói cái giàn toàn cầu ở trên - Tất cả những gì tôi đang làm là nói rằng: có một sự nối kết. Tôi không nói mối nối này là giản dị, là trực tiếp hay mang tính nhân quả; tôi nói là có rất nhiều những liên-kết (inter-connections), những tương thuộc (inter-dependencies), giữa hai trái cầu. Cho tới nay, chủ nghĩa đế quốc đã vươn tới tầm toàn cầu, đang có tầm toàn cầu, như vậy đây là lúc giàn dựng cho sự gia nhập của một vài cơ cấu văn chương, một vài cơ cấu và cách hành xử văn hóa.
NQT chuyển ngữ.