PHỎNG VẤN
|
LINDA LÊ
Thư chết
Linda
Lê sinh ngày 3 tháng
Bẩy 1963 tại Đà-lạt (Việt-nam). Cha là kỹ sư; mẹ, cosmopolite (một
người của
bốn phương, thế giới). Bốn chị em ra đời trong một gia đình không mấy
thuận
hòa. Sáu tuổi khi gia đình về Sài-gòn; mười bốn tuổi, cùng mấy chị em
theo mẹ
hồi hương (Le Havre,
Pháp), "bỏ mặc" ông bố ở Việt-nam. Ông mất năm 1995, không có dịp
nhìn lại cô con gái. Năm 1981, học dự bị đại học Lycée Henri IV (Paris). Rớt cao
đẳng sư
phạm Normale. Cuốn tiểu thuyết đầu tay: năm 21 tuổi. Hiện làm việc tại
nhà xb
Hachette, viết giới thiệu (préfaces). Từ hai năm nay, sống bằng tiền
bản quyền.
Một
ngày, như mọi ngày: sáng,
viết; chiều, đi ciné; tối, đọc.
Cùng
xuất hiện với Thư chết
(105 trang, nhà xb Christian Bourgois, 70 F), là Bạn sẽ viết về hạnh
phúc, Tu
écriras sur le bonheur , (352 trang, nhà xb PUF, 139 F), một tuyển tập
những
bài bình luận - nhạy cảm và "có tầm" (sensibles et cultivés). Đây còn
là một dịp viếng thăm những khuôn mặt lớn: Kôbô Abé, Raymond Carver,
Conrad,
Durrenmatt, Knut Hamsun, Hermann Hesse, Marina Tsvetaeva...
Một nữ
lưu vong hung bạo, một
kẻ lạ không khoan nhượng, luôn bên bờ vực thẳm. Cơn điên ám ảnh bà. Nó
ám ảnh
cả người cha, chết cô đơn tại Việt-nam. Thư chết là kinh cầu, điếu văn
dành cho
ông.
Sỗ
sàng, khinh khi nhưng tế
nhị, tinh tế (leste et subtile); kiêu hãnh, không chịu bẻ cong. Luôn
cưỡng lại
lối viết thống trị, muốn bà là một nữ tiểu thuyết gia xinh đẹp, một
người đàn
bà Việt-nam "hữu dụng", hay một kẻ bắt chước Cioran.
Thật
sắc nét, rõ ràng và với
giọng nói giống như một lời thì thầm, bà trả lời mọi câu hỏi. Bà kể,
bằng cách
nào, qua ngôn ngữ hung bạo và giận dữ, sau khi đã lớn tiếng tố cáo,
cuối cùng,
hận thù dịu xuống, quyện với nỗi bi thương, ở buổi mai cơn tẩu hỏa mấp
mé bờ
điên loạn. Bà chôn cất người cha ra sao. Bằng cách nào, nẻo tâm linh
nuôi dưỡng
hai đam mê độc nhất: viết và đề kháng, chống cự lại (résister).
Cuốn
mới nhất của bà, Thư
chết kể một phản bội kép: một của người
tình, Morgue (tiếng Pháp, có
nghĩa :1/ thái độ kiêu căng 2/ nhà xác), một kẻ
cám dỗ tầm thường. Một, của người nữ kể chuyện, kẻ từ chối gặp người
cha đang
hấp hối và kêu gọi nàng. Câu chuyện kể của người đàn bà trẻ toát ra nỗi
đoạn
trường, của mất mát và sau cùng cam nhận (admise).
-Morgue,
người tình trong
cuốn truyện, là một thứ điếm thúi. Bà thích những cuộc gặp gỡ xấu? (1).
Linda
Lê: Tôi mê những thứ
chuyên mang đến tang tóc, tai uơng. Đây là từ ấu thời, uớc mong gặp chó
sói,
mong được sợ. Khi còn nhỏ, tôi thích Cô bé bán diêm và những cây diêm
cuối cùng
(những cây pháo đốt cuối cùng, ses dernières munitions) của cô, hơn là
Cô bé
quàng khăn đỏ. Trong Thư chết, liên hệ giữa Morgue và người kể chuyện
có bề
ngoài giống như giữa kẻ tra tấn và người chịu cực hình; nó gần gũi với
điều mà
nữ tiểu thuyết gia người Áo, Ingeborg Bachmann gọi là vi khuẩn tội ác
(virus du
crime); người ta gặp chúng hoài, trong những cặp tình.
-Ingeborg
Bachmann, bà chị
lớn của bà?
LL: Bà
ám ảnh tôi. Tôi còn
được Malina gợi hứng rất nhiều, trong cuốn sách này. Tôi thích sự đòi
hỏi vốn ở
trong những tác phẩm của bà, cách bà nói: "Sự thực là điều người ta có
thể
yêu cầu ở một người đàn ông." Bà diễn tả nỗi đau, là một công dân trong
một xứ sở mà bà ghê tởm, ghét cay ghét đắng. Bà biết nói về tình yêu
của bà đối
với phái nam, lột trần mặt nạ của những người đàn ông với một sự diễu
cợt giống
như là yêu thương. Đây cũng là một ý thức: bà có sự thông minh, không
viết những
bài viết dấn thân, nhưng vẫn nói về nỗi ghê rợn của thế kỷ, bằng một
giọng thật
diệu nghệ.
-Cuốn
sách là mối chót, của
một bộ ba. Vòng tròn đã khép lại?
LL:
Vâng, và (với nó), tôi
lại mở ra một chu kỳ khác. Đây là cuốn sách bản lề. Nó đóng lại, điều
mà tôi
coi là một tiểu thuyết bộ ba (trilogie) viết về cái chết của cha tôi,
và cơn
điên rồ, hệ quả sau cùng đối với người nữ kể chuyện. Les trois Parques
khai phá
đề tài, từ xa, bằng cách dựa vào những điển cố văn hóa, văn chương.
Voix, ngược
lại, là nguyên liệu ở dạng thô thiển, rời rã, bắn miểng, tức thời. Ở
đây, là
một độc thoại.
-Bà
muốn tới đâu (với nó)?
LL: Tôi
thử, với ba cái nhìn,
một công trình mà thoạt đầu tôi nghĩ là vô phương: đạt được một
"dạng" văn chương hầu như phổ cập, không ở trong dạng tự thuật, biến
cái chết của người cha thành một cái chết biểu tượng. Chính vì thế Les
trois
Parques (ba nữ thần Địa ngục, tượng trưng cho số mệnh) thuộc bộ ghi
(registre)
huyền thoại. Voix, cơn mộng, và Thư chết, hồn ma bóng quế
(fantasmagorie). Để
cho cái tang không còn là một cái tang đặc thù.
-Bà
nói, cuốn sách mở ra một
chu kỳ mới: đâu là nội dung (teneur) của nó?
LL: Tất
cả những cuốn sách
trước đó của tôi là những cuốn sách của sự nguyền rủa, của cơn điên rồ.
Trong
mỗi cuốn, tôi "khiếu nại", lên tội thế giới. Với Voix (Tiếng, Giọng)
là cơn khủng hoảng mà tôi đã qua đi, giận dữ câm lặng nhường chỗ cho
thanh
thản. Sự thanh thản cho phép tôi tìm kiếm một văn phong khác biệt....
Có lẽ tôi
sẽ viết những cuốn sách rọi sáng hơn, vẫn cúi xuống vực thẳm nhằm khai
phá tới
mãi, nhưng có lẽ, nhiều bóng bẩy, nhiều dịu dàng trong cơn buồn bã.
-Tuyệt
vọng, mùi vị của nó?
LL: Đã
có lúc, tôi trả lời:
mùi của máu. Bây giờ: mùi của sự độc ác, theo nghĩa Artaud dùng để nói
về kịch
độc ác. Theo nghĩa cái đẹp co giật, rung chuyển (beauté convulsive),
không phải
theo kiểu sa-đích.
-Giờ
"hòa giải",
tiếp theo sau giờ "nguyền rủa"?
LL: Đây
gần như là từ-chìa
khóa của điều tôi đang viết. Ít ra, tôi có cảm tưởng, hòa giải với
chính tôi.
-Trong
Voix và Thư chết, bà
khêu cơn khủng hoảng đẩy tới khùng điên, tự sát. Làm sao nó xẩy ra?
LL:
Khi cha tôi mất ở
Việt-nam, vào năm 1995, trong hai năm trời tôi sống ở bên trong nỗi đau
đớn, và
nó chỉ ló dạng ra bên ngoài, khi tôi hoàn tất Les Trois Parques. Hoang
tưởng,
chỉ muốn tự sát, hành động quái gở, đó là tôi hồi dó. Khi cha tôi còn
sống, tôi
gửi tất cả những cuốn sách của tôi cho ông. Ông là một người đọc lý
tưởng, một
độc giả tưởng tượng của tôi. Khi ông chết, tôi mất độc giả, bầu trời
trở thành
sa mạc, thế giới, không Thượng đế. Tất cả là vô tiếng, không cả tiếng
vọng, về
điều tôi có thể viết. Tôi viết Les Trois Parques trong trạng thái cô
đơn tuyệt
đối và tự nguyện.
-Khi
nỗi đau thoát ra được
bên ngoài, chuyện gì xẩy ra?
LL:
Tôi trải qua cơn khủng
hoảng giống như thần bí (quasi-mystique), một cơn khủng hoảng hung hãn
(khiến
tôi) hết còn trông mong ở văn chương, ở khả năng cứu vớt của văn chương
đối với
kẻ nào tiếp cận với nó. Tôi có cảm tưởng sống những cơn ác mộng và khi
kêu,
không một tiếng thoát ra từ cổ họng. Tôi cảm thấy bị bóp cổ, bị chết
ngạt. Lần
đầu tiên, tôi có cảm giác những con chữ không thể cứu nổi tôi nữa.
-Bấy
lâu nay, văn chương cứu
bà được gì?
LL:
Cứu vớt tôi khỏi cảm
giác, vốn bám hoài lấy tôi: về một cái chết kế cận, cái chết trước cái
chết, sự
hư ruỗng, phân hóa. Khi trải qua được nó, tôi sống, đối diện với hình
ảnh một
xác ướp khô cằn. Tôi có cảm tưởng nếu cứ ôm hoài lấy cơn nguyền rủa,
chắc chắn
tôi sẽ là một cái chết sống động (une mort vivante) trong những gì mà
tôi viết
ra.
-Bằng
cách nào, những con chữ
lại trở lại?
LL:
Qua những sự kiện, sau
thời gian nằm viện, tôi trở thành một khán giả, trước cơn điên của
những người
khác. Một loại điên nói, bởi vì những người đàn bà ở đó nói nhiều lắm.
Lạ một
điều, tiếng nói đã trở lại với tôi qua lời lệch trục (la parole
désaxée), của
những kẻ khác. Chính sự mất trí cho tôi lại lý trí, cho tôi lại bản
viết/nói
(le discours). Tôi khám phá ra một ý niệm rất quan trọng, về bi khúc
(élégie).
Tôi bắt đầu khai phá mảnh đất hoài nhớ, như là nỗi ân hận về quá khứ,
theo
nghĩa, đây là một điều hết sức thiêng liêng, không phải chuyện mầu mè.
-Vậy,
đây là một cơn khủng
hoảng "bổ ích"?
LL:
Rất bổ ích. Rất lâu sau
đó, qua những gì mà tôi trải qua, tôi nghĩ tới cơn khủng hoảng của
Tolstoi, nó
làm ông từ bỏ Anna Karenine, vươn tới những bản viết khác, những bản
viết đẹp
nhất ở cuối đời ông. Một cơn khủng hoảng như thế đúng là một trận động
đất. Nếu
chữ viết cho phép anh lại thoát ra, như vậy là nó còn hơn cả sự sống.
-Bà
có cảm nghĩ thế nào, về
sự khùng điên?
LL:
Tôi luôn bị ám ảnh bởi
những nhà văn khùng, hay sống trong nỗi sợ sẽ trở nên khùng: Holderlin,
Nerval,
Artaud, Byron... Ngay từ nhỏ, tôi cũng có nỗi sợ đó: sợ có ngày khùng.
Như họ,
tôi nghĩ là chỉ bằng tri thức về những hố thẳm mà con người đạt được sự
thực,
và qua thám hiểm những mép bờ, đêm tối mà người ta tới được huyền
thoại. Cơn
điên mê hoặc tôi ở điều: trong nó có những tia sáng của sự sáng suốt,
nỗi ghê
rợn, niềm hứng khởi mà con người phải bật ra ở những thời điểm như thế
đó.
-Hình
tượng người điên ám ảnh
tất cả những cuốn sách của bà, rất đỗi "riêng tư, thầm kín"...
LL:
Đây là do dòng dõi, gia
đình. Một trong những cuốn sách đầu tôi đọc, kể chuyện một người đàn
ông bị ma
tuý (morphine) rủ rê, sợ sẽ trở nên khùng như người mẹ ở trong nhà
thương điên.
Khi khám phá ra cuốn sách này, tôi có cảm tưởng, đây là câu chuyện của
đời tôi,
và nó tiên đoán những gì sẽ xẩy ra cho tôi.
-Bà
đã muốn tự tử, bà đã đốt
bản thảo, viết sau cuốn Les Trois Parques: Bà muốn giết ai?
LL:
Tôi tin rằng, người ta
chỉ có thể viết với nỗi thù hận về mình, với ý muốn tra hỏi - theo
nghĩa thời
Trung Cổ - con người kép (le double) ở trong nó, con người mà người ta
muốn
được là, muốn trở thành, và cũng là con người mà người ta cưu mang, như
một kẻ
chết. Chính tình cảm này đã sống sót, khỏi nỗi ghê rợn được sinh ra,
tình cảm
đã mất, đã giết một người anh/em song sinh, và chẳng bao giờ thanh toán
được
mọi chuyện với người anh hay đứa em này.
-Kẻ
kép đó, là ai, mà bà đã
giết, và từ đó, là nỗi hoài nhớ?
LL:
Tôi có cảm tưởng tôi cưu
mang một xác chết. Rõ ràng, đó là Việt-nam mà tôi mang trong tôi, như
một đứa
trẻ chết.
-Bà
quan niệm ra sao, về xứ
sở của bà, đất cát của bà, tiếng nói của bà như là một xác chết?
LL:
Tất cả đã bị cắt đứt. Và
nhà văn Conrad, tên phản phúc (ce renégat) đã phản bội tiếng nói của
nó, gia
đình của nó, xứ sở của nó, là một khuôn mẫu đối với tôi. Với ông ta,
trở về với
mình có điều chi giống như là để thanh toán. Tôi cảm thấy tôi là một
"khách trú"- "métèque", tiếng dùng để chỉ những người ngoại
quốc, nhất là dân địa trung hải sống ở Pháp, hành xử của họ bị coi khó
chịu,
đối với dân bản xứ. CTND) - viết văn bằng tiếng Pháp. Tôi nói "khách
trú" với rất nhiều kiêu ngạo. Tôi là một kẻ lạ ở trên đời, với cái
thực,
với cuộc sống, với xứ sở mà tôi đang sống, với xứ sở của riêng tôi.
-Bà
không thừa nhận, mọi tình
cảm "tùy thuộc" (appartenance)?
LL:
Vâng.
-Ngay
cả tùy thuộc vào một
thế hệ?
LL:
Hơn thế nữa, tôi đọc rất
ít, những người đồng thời với tôi.
-Tùy
thuộc là chết?
LL:
Vâng, đại khái như vậy.
-Xứ
sở độc nhất mà bà biết,
văn chương?
LL:
Vâng. Như một nơi chốn mà
tôi không ngừng khai phá những mảng của nó.
-Những
liên hệ với tiếng
Pháp, ngôn ngữ chấp nhận (adoption) của bà?
LL:
Trước tiên, tôi viết
những tiểu luận về tiếng (voix). Trong hai cuốn đầu - tôi đã gạt chúng
ra khỏi
những cuốn sách của tôi, cũng vì lý do này - tôi chấp nhận một văn
phong nịt
cứng (corseté), rất ứng dụng. Đó là cách để ngang tầm với người bản địa
(indigènes). Sau đó, bởi vì nó không phải là của tôi, bởi vì tôi không
thể nhét
tôi vào bất cứ một truyền thống nào khác, tôi có thể xử sự, trước ngôn
ngữ đó
(tiếng Pháp), như một kẻ dị giáo đứng trước thần tượng, làm cho nó tái
sinh,
bịa đặt (inventer) ra nó, là một pygmalion của nó. (Pygmalion: nhân vật
trong
huyền thoại Hy-Lạp, vua xứ Cyprus,
si mê pho tượng ông tạo nên, và khi pho tượng biến thành người, đã lấy
làm vợ).
-Cưỡng,
chống là bản chất thứ
nhì ở nơi bà?
LL: Tôi
luôn ở thế cảnh giác,
tôi luôn luôn muốn biết sống lưu vong (là như thế nào). Vào lúc này,
tôi mơ
chuyện đi, đâu đó, để nhân đôi lưu vong, không còn sống ở trong một xứ
sở mà
tôi đã quen ngôn ngữ.
-Bà
muốn đi đâu?
LL:
Bồ-đào-nha, có thể. Một
giấc mơ mà tôi chia sẻ với một người bạn thân. Tôi tin, phải luôn luôn
biết
đánh mất những điểm mốc, khinh khi những cơ sở, những nền tảng.
-Nếu
không bỏ nước vào lúc 14
tuổi, liệu bà có viết...?
LL:
Vâng. Nhưng là những cuốn
sách khác. Viết, là tự lưu vong. Trong khi viết, bạn không có một mái
nhà, chỉ
khung trời, là nơi ẩn náu, và chính sự trần trụi trước sự vật là điều
bạn yêu
thích. Nhà văn chỉ viết khi cảm thấy, mình là một đứa trẻ được tìm
thấy, một
đứa con hoang. Là một đứa trẻ của không ai, không một tổ quốc, đó là
một thái
độ khả hữu độc nhất đối với tôi. Tôi tin rằng người ta chỉ thấy rằng
mình còn
sống, nếu cảm thấy nhu cầu chống cự với tất cả những gì mọc rễ, dóng
trụ ở
trong mình. Một cưỡng chống với điều có vẻ không nâng bạn tới cái đẹp,
sự thực.
Tôi từ chối làm điều: vì sự nghiệp chung (cause commune). Như Thomas
Bernhard.
-Bà
ghét cay ghét đắng nó:
Việt-nam?
LL: Tôi
biết nó không đủ, để
mà ghét cay ghét đắng (exécrer)
-Bà có
muốn biết nó không?
LL: Tôi
nhìn Việt-nam như một
mảnh đất trinh nguyên mà tôi biết: những đau khổ, và một ngày nào, tôi
mong
biết hát, bằng cách phản bội nó, nghĩa là bằng một ngôn ngữ khác.
-Nó
giúp gì bà, nếu nói về
hứng khởi?
LL: Nhờ
nó, tôi có niềm cảm hứng,
theo kiểu người ta có, khi quên mất đường về.
-Thái
độ của bà bây giờ, đối
với thân sinh?
LL:
Niềm tôn kính lớn lao. Mẹ
tôi bịnh, khi tôi còn nhỏ, và ông đã hết sức lo cho tôi. Tôi vẫn nhớ
những chủ
nhật ở Đà-lạt nơi chúng tôi sống, ở miền nam Sài-gòn... những buổi
píc-níc...
những buổi dạo thuyền (pédalo)... Tất cả chao đảo khi chúng tôi về
Sài-gòn. Tôi
đã trải qua thiên đường tuổi thơ, ở địa ngục. Tôi mới sáu tuổi, thành
phố là
một lò lửa, và những liên hệ giữa ba má tôi đã tan hoang. Cơn té (la
chute) bắt
đầu vào lúc, tôi có cảm tưởng mình chỉ là một thứ bị nguyền rủa
(damnée). Từ
đó, viễn ảnh tối thui về cuộc đời của tôi, tôi nhìn thấy cơn điên, cái
chết,
tôi biết một điều, những liên hệ vợ chồng là những liên hệ chiến tranh.
Trong
bốn đứa con gái, tôi là người kính mến ông nhất, một cách thật là kỳ
quái. Đối
với gia đình, ông là một kẻ thất bại, tủi nhục, đối với tôi, một anh
hùng.
-Bà có
ý nghĩ: cơn điên chỉ
là ao ước nhập thân ông già, sống cuộc đời của ông?
LL: Một
nhà phân tâm học đã
cắt nghĩa như vậy cho tôi. Rằng ám ảnh đi hoang, ý nghĩ giam mình vào
tu viện
là một cách bất tử hóa người cha, bị đóng cứng vào xứ sở của ông, như
một nhà
tù, chẳng có một nơi nào để mà đi, nếu ra khỏi đó, bởi vì mẹ tôi không
chịu
nhận ông. Bây giờ, tôi đã chôn cất ông.
-Ông
còn, ở trong những cuốn
sách của bà?
LL:
Calomnies (Vu khống) gợi
lại cuộc tìm kiếm người cha; Les Trois Parques, một người cha mà người
ta muốn
rũ bỏ; Voix, tìm người cha thần thoại từng ám ảnh tất cả những cô gái,
về một
điều rất loạn luân. Trong Thư chết, ông phân thân, biến thành hai: là
người cha
và ông chú khùng, người cha và người tình, người cha thất bại và người
tình
thành công. Trong cuốn sách tới, ông ta sẽ khác.
-Tại
sao bà không về VN gặp lại ông?
LL:
Người ta luôn luôn phản
bội những người mà mình yêu thương. Do không thể giết được họ. Cha tôi
là người
theo Ca-tô giáo, và tôi biết rành Thánh kinh, hơn là những điều giảng
dậy của
Khổng Tử. Tôi luôn hướng về Ca-tô giáo. Từ nhỏ, tôi thích đọc sách cuộc
đời
những vị thánh, rồi Dostoievski và Kierkegaard đã thấm vào vũ trụ của
tôi, nuôi
nó bằng thực phẩm: tội lỗi, nhục nhã. Tôi luôn bị cuốn hút bởi những kẻ
thần
bí, những lời nói của họ vừa là chịu mình trước Thượng đế, vừa là nổi
loạn
tuyệt đối, sự cuốn hút của họ với chuyện "tự hạ mình" (avilissement).
Tôi đặc biệt yêu thích Thánh Thérèse d'Avila, thái độ, cuộc đời, và
Château
intérieur của ngài. Thánh Goan Thánh Giá (Jean de la Croix) lại quyến
rũ tôi, ở
văn phong. Bây giờ cũng vậy, mỗi lần đi dạo, tôi luôn luôn vô nhà thờ.
Và tôi
thích nghe thánh ca, đặc biệt là Buxtehude.
-Sự
cuốn hút bởi những kẻ
thần bí, đã nuôi dưỡng văn chương của bà theo cách nào?
LL: Nó
nuôi dưỡng vừa trí
tưởng tượng, vừa văn phong của tôi. Sự thù hận, nguyền rủa trong Les
Trois
Parques: đó là một cách coi Thượng đế như cái đích. Với Thư chết, tôi
muốn viết
một ai điếu (chant de deuil), soạn như một kinh cầu: câu thần chú
nghiêm khắc.
Như thể trước đó, viễn ảnh thần bí thấm nhập vào văn phong của tôi,
trong cuốn
sách này, chính hình thức (la forme) tạo hứng khởi.
-Bà tin
Thượng đế, hay đây
chỉ là một cái cớ?
LL: Một
cái cớ. Tôi không tin
nơi Thượng đế. Chủ nghĩa thần bí chỉ là một cách tái nắm bắt, quay
ngược lại,
cưỡng chiếm một điều gì, từ tình cảm tội lỗi.
-Bà
muốn gì?
LL:
Chẳng gì hết. Luôn luôn
viết, chắc vậy, tìm một từ cuối, một từ thiếu, một từ của tình yêu, của
sự kiêu
hãnh, của nỗi ghê sợ, của sự vô-nghĩa của cuộc đời... Người ta kiếm
thấy nó, có
thể, khi đã quá trễ, khi mà người ta không thể viết nữa. Holderlin tìm
thấy nó,
trong cái tháp của ông ta; Nerval, đúng lúc tự treo cổ.... Chính vì vậy
mà tôi
luôn luôn bị mê hoặc bởi những lời nói cuối cùng của những kẻ hấp hối.
Trong
Henry James, một trong những nhân vật của ông la lên: "Sau cùng, nó đây
rồi, bông hoa đặc biệt này". Còn cha tôi, ông ấy hỏi: mấy giờ rồi?
-Bà
thích chết, như thế nào?
LL:
Trong một rạp chiếu phim,
trong khi coi Những kẻ buôn lậu ở Moonfleet, của (nhà đạo diễn) Fritz
Lang (2).
Rạp chiếu phim là nơi mà tôi cảm thấy một cách rất ư mãnh liệt, huyền
thuật về
một thiên đường đã mất.
Ng.
Tuấn Anh.
(1) Lời
người dịch: Phỏng vấn
trên đây, người dịch xin mạn phép cả hai - người hỏi và người trả lời -
do
Catherine Argand thực hiện cho báo Đọc (Lire), số tháng Tư, 1999, nhân
Thư chết
(Lettre morte) mới xuất bản, ở Pháp. Trong bài phỏng vấn còn có những
hình vẽ,
những hình ảnh (từ những cuốn phim) do Linda Lê chọn lựa, để minh họa
cuộc nói
chuyện.
(2) Chú
thích của người dịch:
Fritz Lang (1890-1976) là nhà đạo diễn gốc Áo. Những phim Đức của ông
gồm có
Metropolis (1927), và loạt phim Dr. Mabus; sau đó, ông bỏ chạy Nazi qua
Hollywood, vào năm 1936.
Những phim Mỹ của ông gồm có
Fury (1936), You Only Live Once (1937), và The Big Heat (1953). Phim
Những kẻ
buôn lậu... do tài tử Stewart Granger đóng. Một phim về trẻ thơ. Tài tử
này còn
đóng trong phim đánh kiếm Scaramouche, cũng một phim tuyệt vời dành cho
tuổi
thơ.
Entretien
Linda Lê
Par Catherine Argand (Lire), publié le
01/04/1999
Exilée farouche, étrangère irréductible, elle
marche au bord de l'abîme. La
folie la hante. Son père aussi, mort solitaire au Vietnam, pour lequel
elle
vient de composer un requiem, un chant de deuil, Lettre morte.
Leste et subtile, fière et inflexible: Linda
Lê, longue digitale, résiste
au discours dominant qui la voudrait romancière jolie, ou Vietnamienne
de
service, ou épigone de Cioran. Sans aucune afféterie, avec une rigueur
quasi
janséniste n'était son sourire silencieux, elle refuse de faire cause
commune.
Avec netteté et d'une voix murmurante elle répond à toutes les
questions. Elle
raconte comment, après avoir brandi l'anathème dans une langue violente
et
courroucée, la vindicte s'est calmée, s'est arrondie d'élégie au
lendemain
d'une crise qui la mena au bord de la folie. Comment elle enterra son
père.
Comment, aussi, le mysticisme nourrit ses deux seules passions
publiques:
écrire et résister. La rencontrer fut un bonheur. Elle parla trois
heures, chez
elle, assise sur un haut tabouret dans une pièce nue. Immobile,
peut-être
espiègle, derrière le rideau noir de ses cheveux. Son dernier livre,
Lettre
morte, raconte une double trahison: celle d'un amant, Morgue le
tentateur
vulgaire. Celle de la narratrice refusant d'aller voir son père qui la
réclame
et meurt. Mélancolique et vénéneux, le récit de la jeune femme exhale
une
plainte déchirante, celle de la perte enfin admise.
Morgue, l'amant qui figure dans votre livre,
est une ordure. Vous aimez les
mauvaises rencontres?
Linda Lê. J'éprouve une attirance pour les
êtres funestes. C'est un désir
enfantin de rencontrer le loup, d'avoir peur. Enfant, je préférais La
petite
marchande d'allumettes et ses dernières munitions au Chaperon rouge.
Dans
Lettre morte, la relation entre Morgue et la narratrice s'apparente à
celle du
tortionnaire avec une suppliciée; elle s'approche de ce que la
romancière
autrichienne Ingeborg Bachmann appelle le virus du crime et que l'on
rencontre
dans tous les couples.
Ingeborg Bachmann serait-elle votre grande
sœur?
L.L. Elle me hante. Pour ce livre d'ailleurs,
je me suis beaucoup inspirée
de Malina. J'aime l'exigence qui traverse toute son œuvre, sa façon de
dire:
«La vérité est exigible d'un homme. Les yeux doivent être dessillés.»
Elle a
décrit la douleur d'être la citoyenne d'un pays qu'elle exècre. Elle a
su
parler de son amour pour les hommes, les démasquer totalement avec une
ironie
presque amoureuse. C'est aussi une conscience: elle avait
l'intelligence de ne
pas écrire des textes engagés mais avait l'art de parler de l'horreur
de ce
siècle.
Votre livre se présente comme le dernier
volet d'une trilogie. Un cycle
s'achève?
L.L. Oui, et j'en ouvre un autre. C'est un
livre charnière. Il clôt ce que
je considère comme une trilogie consacrée à la mort du père et à la
folie qui
en résulte pour la narratrice. Les trois Parques exploraient ce thème à
distance, en recourant à de nombreuses références culturelles et
littéraires.
Voix, au contraire, est un matériau brut, fragmenté, très éclaté,
immédiat.
Celui-ci est un monologue.
Où vouliez-vous en venir?
L.L. J'ai tenté, avec ces trois regards, une
entreprise qu'au départ je
croyais impossible: atteindre une dimension presque universelle, ne pas
rester
dans l'autobiographie, faire de la mort du père une mort symbolique.
C'est pour
cela que Les trois Parques appartiennent au registre du mythe, Voix à
celui du
rêve et Lettre morte à la fantasmagorie. Pour que le deuil ne soit plus
un
deuil particulier.
Vous dites que ce livre ouvre un nouveau
cycle: quelle en est la teneur?
L.L. Tous mes précédents livres sont des
livres d'imprécation, de rage.
Dans chacun d'eux je porte plainte, je dresse un réquisitoire du monde.
Avec
Voix et la crise que j'ai traversée, la colère s'est tue, elle a fait
place à
une sérénité qui autorise la recherche d'un style différent...
J'écrirais
peut-être des livres plus lumineux qui se pencheront autant sur les
gouffres
que j'ai toujours explorés mais, peut-être, avec plus de nuance, plus
de
douceur dans la tristesse.
Quel goût a le désespoir?
L.L. Il y a quelque temps, j'aurais répondu
un goût de sang. Maintenant je répondrais
un goût de cruauté, dans le sens où l'emploie Artaud pour parler du
théâtre de
la cruauté. Au sens de la beauté convulsive et non du sadisme.
Serait-ce l'heure de la réconciliation après
celle de l'imprécation?
L.L. C'est presque le mot clé de ce que je
suis en train d'écrire. Pour
l'heure au moins, j'ai l'impression de m'être réconciliée avec moi-même.
Dans Voix et Lettre morte vous évoquez la
crise qui vous a menée au bord de
la folie, du suicide. Comment cette crise a-t-elle surgi?
L.L. Lorsque mon père est mort au Vietnam, en
1995, j'ai vécu pendant deux
ans enceinte d'une très très grande douleur qui n'a vu le jour qu'avec
l'achèvement des Trois Parques. Je souffrais d'hallucinations, de
pensées
suicidaires, de conduites paranoïaques. Tant que mon père était en vie,
tous
mes livres lui étaient adressés. Il était mon lecteur idéal, mon
lecteur
imaginaire. Lorsqu'il est mort, j'ai perdu mon lecteur, le ciel est
devenu
désert, le monde sans Dieu. Tout était sans voix, il n'y avait plus
d'écho à ce
que je pouvais écrire. J'ai écrit Les trois Parques dans un état de
solitude
absolue et volontaire. Et c'est pour cela qu'il y a dans ce livre un
véritable
déchaînement verbal, parce que j'étais cloîtrée en moi-même. Les
clochards, les
ivrognes étaient les seuls êtres qui trouvaient grâce à mes yeux, je
jugeais
leurs logorrhées d'une grande noblesse. Tout le reste était suspect,
factice.
Je suis restée des semaines entières sans parler.
Que s'est-il passé lorsque votre douleur est
sortie au grand jour?
L.L. J'ai éprouvé une crise quasi mystique,
une crise violente où je ne
croyais plus au pouvoir de la littérature, à la capacité qu'elle a de
sauver
celui qui s'en approche. J'avais l'impression de vivre ces cauchemars
dans
lesquels on crie sans qu'aucun son ne sorte de votre bouche.
J'éprouvais un
sentiment d'étranglement, d'étouffement. Pour la première fois, j'avais
le
sentiment que les mots ne me sauvaient plus.
De quoi la littérature vous avait-elle sauvée
jusqu'alors?
L.L. D'un sentiment qui ne m'a jamais
quittée, celui de la mort très
proche, le sentiment de la mort avant la mort, le sentiment de la
corruption,
de la décomposition. Or, lorsque j'ai traversé cette crise, je vivais
avec en
face de moi l'image d'une momie desséchée. J'avais l'impression que si
je
persistais dans l'anathème, j'allais à coup sûr devenir une morte
vivante dans
ce que j'écrivais.
Comment les mots sont-ils revenus?
L.L. Dans les faits, après une
hospitalisation où j'étais devenue la
spectatrice de la folie des autres, une folie très parlante puisque les
femmes
qui étaient là, avec moi, s'exprimaient beaucoup. Etrangement, la
parole, la
voix, m'est revenue à travers ce que j'entendais de la parole désaxée
des
autres. C'est la déraison qui m'a fait retrouver la raison, retrouver
un
discours continu là où je n'entendais plus que des éclats de voix. La
crise que
j'ai traversée a fait voler en éclats les barrières que je m'étais
mises
jusque-là. J'ai découvert une notion très importante, l'élégie. J'ai
commencé à
explorer le territoire de la nostalgie comme regret du passé, sentiment
du
passé dans ce qu'il a de plus sacré, non pas dans ce qu'il a de mièvre
ou de
sentimental.
Il s'agit donc d'une crise salutaire...
L.L. Très salutaire. J'ai pensé beaucoup plus tard, et toutes
proportions
gardées, à la crise qu'a traversée Tolstoï. C'est à la suite de cette
crise
qu'il a renié Anna Karénine et s'est tourné vers d'autres écrits, les
plus
beaux, ceux de la fin de sa vie. Une crise comme celle-là, c'est un
véritable
tremblement de terre. Si l'écriture vous permet d'en réchapper, c'est
qu'elle
est plus que vitale.
Qu'éprouvez-vous à l'égard de la folie?
L.L. Je suis hantée par les écrivains fous ou
vivant dans la crainte de le
devenir: Hölderlin, Nerval, Artaud, Byron... Dès l'adolescence,
j'éprouvais
cette même crainte, celle de devenir folle. Je pensais, comme eux, que
c'est
seulement par la connaissance des gouffres que l'on peut atteindre la
vérité et
par l'exploration des marges et de la nuit que l'on peut atteindre au
mythe. Ce
qui me fascine dans la folie, ce sont les éclairs de lucidité,
l'horreur ou
l'exaltation que l'on doit éprouver dans ces moments-là.
La figure du fou hante tous vos livres de
façon intime...
L.L. C'est ancestral, familial. L'un des premiers livres qui m'aient
marquée
racontait l'histoire d'un homme adonné à la morphine et qui craint de
devenir
fou comme sa mère internée. En découvrant ce livre, j'ai eu
l'impression de
lire l'histoire de ma vie et la préfiguration de ce qui allait
m'arriver.
Vous avez voulu vous suicider, vous avez
brûlé le manuscrit que vous aviez
écrit après Les trois Parques: qui vouliez-vous tuer?
L.L. Je crois qu'on n'écrit pas sans haine de
soi, sans la volonté de
questionner au sens où le Moyen Age l'entend, le double qui est en soi,
celui
que l'on aurait voulu être, devenir, et que l'on porte comme un mort.
C'est ce
sentiment qui survit à l'horreur d'être né, le sentiment d'avoir perdu,
d'avoir
tué un frère jumeau et de n'en pas finir de régler ses comptes avec lui.
Quel est le double que vous avez tué ou dont
vous avez la nostalgie?
L.L. J'ai l'impression de porter en moi un
corps mort. C'est sûrement le
Vietnam que je porte comme un enfant mort.
Comment pouvez-vous concevoir votre pays,
votre terre, votre langue comme
un corps mort?
L.L. Tout a été tranché. Et l'écrivain
Conrad, ce renégat qui a trahi sa
langue, sa famille, son pays, est un modèle pour moi. Pour lui, revenir
chez
soi c'est un peu venir rendre des comptes. Je me sens comme une métèque
écrivant en français. Je dis métèque avec beaucoup d'orgueil. Je suis
une
étrangère au monde, au réel, à la vie, au pays dans lequel je vis, à
mon propre
pays.
Vous récusez tout sentiment d'appartenance?
L.L. Oui.
Même à une génération?
L.L. Plus encore, je lis très peu mes
contemporains.
Appartenir, c'est mourir?
L.L. Oui, en quelque sorte.
La seule patrie que vous vous reconnaissiez,
c'est la littérature?
L.L. Oui. Comme une demeure dont je ne finis
pas d'explorer les pièces
.
Quels liens entretenez-vous avec le français, votre langue d'adoption?
L.L. J'ai d'abord fait des essais de voix. Dans mes deux premiers
livres - que
j'ai rayés de ma bibliographie pour cette raison -, j'adopte un style
très
corseté, très appliqué. C'est une manière d'être à la hauteur des
indigènes.
Depuis, parce qu'elle n'est pas mienne, parce que je ne m'inscris dans
aucune
tradition, je peux me comporter devant cette langue comme un hérétique
face à
une idole, la ressusciter, l'inventer, être son pygmalion.
Résister est devenu chez vous une seconde
nature?
L.L. Je suis sur le qui-vive, je veux savoir
toujours vivre en exil. En ce
moment, je rêve de partir ailleurs, pour redoubler l'exil, ne plus
vivre dans
le pays dont je pratique la langue.
Où aimeriez-vous aller?
L.L. Au Portugal, peut-être. C'est un rêve
que je partage avec un ami cher.
Je crois qu'il faut toujours savoir perdre ses repères, se méfier des
assises.
Auriez-vous écrit si vous n'aviez pas quitté
votre pays natal à quatorze
ans?
L.L. Oui, mais d'autres livres. Ecrire, c'est
s'exiler. En écrivant, vous
n'avez plus de toit, juste le ciel comme abri et c'est cette nudité
devant les
choses que vous aimez. Un écrivain ne peut écrire qu'en se sentant un
enfant
trouvé, un bâtard. Etre le fils de personne, d'aucune patrie, c'est
pour moi la
seule attitude possible. Je crois que l'on ne reste en vie que si l'on
manifeste un désir de résistance à tout très ancré en soi. Une
résistance à
tout ce qui ne vous paraît pas relever de la beauté, de la vérité. Je
refuse de
faire cause commune. Comme Thomas Bernhard.
Exécrez-vous le Vietnam?
L.L. Je ne le connais pas assez pour
l'exécrer.
Voulez-vous le connaître?
L.L. Je vois le Vietnam comme une terre
vierge dont je connais les
souffrances et que j'espère savoir un jour chanter en la trahissant,
c'est-
à-dire en usant d'une autre langue.
Que lui devez-vous en termes d'inspiration?
L.L. Je lui dois l'inspiration de ce que l'on
peut avoir lorsque l'on a
oublié le chemin du retour.
Qu'éprouvez-vous aujourd'hui à l'égard de
votre père?
L.L. Une grande vénération. Ma mère était
très malade lorsque j'étais
petite, il s'est beaucoup occupé de moi. Je me souviens des dimanches à
Dalat
où nous vivions, au sud de Saigon... des pique-niques... des promenades
en
pédalo... Tout a basculé lorsque nous nous sommes installés à Saigon.
Je suis
passée du paradis enfantin à l'enfer. J'avais six ans, la ville était
une
fournaise et les rapports entre mes parents s'étaient profondément
dégradés. A
partir de ce moment a commencé la chute, l'impression d'être damnée.
C'est là
qu'a fermenté ma vision très noire de la vie, c'est là que j'ai vu la
folie, la
mort, là que j'ai découvert que les rapports conjugaux sont des
rapports de
guerre. Des quatre filles qu'eut mon père, j'étais celle qui le
vénérait le
plus fantasmatiquement. Alors qu'il fait plutôt figure de déchu,
d'homme
humilié dans la famille, pour moi c'est un héros.
N'avez-vous pas le sentiment que votre crise
exprimait le désir d'incarner
votre père, de vivre sa vie?
L.L. C'est ce que m'a expliqué un psychiatre.
Que mon obsession à l'époque
pour l'errance ou l'idée de m'enfermer dans un couvent était une façon
d'immortaliser mon père enfermé dans son pays comme dans une prison et
n'ayant
nulle part où aller s'il en sortait puisque ma mère ne voulait pas le
recevoir.
Aujourd'hui, je l'ai enterré.
Sera-t-il encore dans vos livres?
L.L. Calomnies évoque la recherche du père,
Les trois Parques le père dont
on voudrait se débarrasser, Voix la quête du père mythique qui hante
toutes les
filles avec quelque chose de très incestueux. Dans Lettre morte, il se
dédouble: il est le père et l'oncle fou, le père et l'amant, le père
déchu et
l'amant triomphant. Dans le livre que j'écris, il sera autrement.
Pourquoi ne l'avez-vous pas rejoint au
Vietnam?
L.L. On trahit toujours ceux qu'on aime.
Faute de les tuer. Mon père est
catholique et je connais mieux la Bible que les enseignements des
confucéens.
J'ai toujours été portée vers le catholicisme. Adolescente, j'aimais
lire les
vies des saints, puis Dostoïevski et Kierkegaard ont imprégné mon
univers, l'ont
nourri de culpabilité, de mortification. J'ai toujours éprouvé une très
grande
attirance pour les mystiques, leur parole faite à la fois de soumission
à Dieu
et de révolte absolue, leur attirance pour l'avilissement. J'aime
particulièrement sainte Thérèse d'Avila, son attitude, sa vie et son
Château
intérieur. Saint Jean de la Croix, lui, me fascine par son style.
Aujourd'hui
encore lorsque je me promène, j'entre toujours dans les églises. Et
puis,
j'écoute beaucoup de chants religieux, Buxtehude notamment.
Dans quelle mesure cette attirance pour les
mystiques nourrit-elle votre
travail?
L.L. Elle nourrit à la fois mon imaginaire et
mon style. L'anathème,
l'imprécation qui sont contenus dans Les trois Parques, c'est une façon
de prendre
Dieu pour cible. Avec Lettre morte, je voulais écrire un chant de
deuil, le
composer comme un requiem, cette incantation sévère. Alors
qu'auparavant la
vision mystique imprégnait mon style, dans ce livre-là c'est la forme
qui s'en
inspire.
Croyez-vous en Dieu ou est-ce un prétexte?
L.L. Un prétexte. Je ne crois pas en Dieu. Le
mysticisme est une façon de
reprendre, de retourner, d'extorquer quelque chose au sentiment de
culpabilité.
Que désirez-vous?
L.L. Rien. Toujours écrire sans doute,
trouver le dernier mot, le mot qui
manque, celui de notre amour, de notre orgueil, de notre effroi, du
non-sens de
la vie... On le trouve peut-être lorsqu'il est trop tard, que l'on
n'écrit
plus. Hölderlin l'a trouvé dans sa tour, Nerval au moment de se
pendre... C'est
pour cela que je suis fascinée par les derniers mots des moribonds.
Chez Henry
James, l'un des personnages s'exclame: «La voilà enfin cette fleur
distinguée.»
Mon père, lui, a demandé l'heure.
Comment aimeriez-vous mourir?
L.L. Dans une salle de cinéma, en regardant
Les contrebandiers de Moonfleet
de Fritz Lang. La salle de cinéma est l'endroit où je ressens le plus
fortement
la magie du paradis perdu.
http://www.lexpress.fr/culture/livre/linda-le_803102.html
|