Phỏng Vấn
|
“Vivre d'autres réalités”
“Sống những thực tại khác”
Mới
27 tuổi, Minh
Trần Huy đã là phụ tá tổng biên tập tạp chí Văn Học Pháp – Le Magazine littéraire.
Mê văn học từ khi còn nhỏ, khi học trung học, cô đã viết những bài văn
đầu tiên và có được vài giải thưởng truyện ngắn trước khi theo đuổi
ngành báo chí. Những người hy vọng ở tài năng mới này sẽ thích thú vì
cô vừa trở lại với những tình yêu đầu đời khi cho xuất bản «Cô Công Chúa và chàng chèo thuyền »
(Trương Chi Mỵ Nương: La Princesse
et le pêcheur), một quyển tiểu thuyết với hình ảnh của cô ở
trong đó: lạ lùng, nhạy cảm, thông minh...
Vóc dáng nhỏ, nụ cười trên môi, áo đầm xinh xinh, Minh Tran Huy tiếp
chúng tôi ở phòng khách, một góc trong thư viện đồ sộ của cô. Say sưa
kể, chi li phân tích, và e lệ đàm luận, xoay quanh nghề báo và nghề
văn. Đúng là một cuộc gặp gỡ với một trong những văn nhân đa tài, thiên
bẩm.
*
Cuốn tiểu thuyết đầu tay, rất riêng tư và viết rất tới, rất đạt. Cô lấy
đâu ra, ý tưởng «Cô
Công Chúa và chàng chèo thuyền» và,
nó tới với cô, từ lúc nào?
Thực
sự viết, thì mới một năm nay thôi, nhưng muốn truy tìm phôi thai,
thì phải lần tới tưổi đôi mươi đầu đời. Cuốn tiểu thuyết, nẩy mầm,
trong một lần gặp gỡ, nhân một chuyến du lịch nhằm trao đổi ngôn ngữ,
năm tôi 15 tuổi, với một chàng trai, một thuyền nhân. Anh làm tôi vấn
vương, nhưng sau cuộc gặp gỡ là hết, tôi mất anh ta, trong những hoàn
cảnh không đến nỗi bi đát như tôi diễn tả trong sách. Dấu ấn ở nơi tôi,
thì chỉ có vậy, cơ cấu thì đã có sẵn, nhưng những lớp lang của sự đọc,
và cái phông nền gia đình thì chưa đâu vào đâu cả. Phần lớn những tang
thương, dời đổi trong gia đình là thật. Ông và cố của tôi bị ám sát;
đối với tôi, biến cố này rất quan trọng, và phải đẩy nó trở lại đời
thực, dưới dạng thực. Ngược lại, tất cả những cảnh trí làm nên tình
tiết, mấu chốt của câu chuyện, đều không thực, cũng như câu chuyện giữa
hai nhân vật trẻ. Tất cả đều do trí tưởng tượng bịa đặt
ra, trừ một chuyện, chưa chắc đã xẩy ra, không hiểu có phải tại nó
không, đó là cuộc gặp gỡ với Haruki Murakami.
Có thể nói đây là câu
chuyện tự thuật?
Phân tâm học không cho phép đạt tới sự thực, nhưng nó cho một phiên bản
khả dĩ chịu đựng được, về cái có thể là sự thực, rằng, đó là một phương
tiện để chấp nhận nó. Tôi nghĩ đó cũng là cách của tôi để đưa ra một
phiên bản khả dĩ chấp nhận, về câu chuyện mà tôi đã có được với cậu
trai đó, mà, với tôi, nó móc nối tới những vấn nạn sâu thẳm hơn: liên
hệ với cội nguồn, với gia đình, và với hồi ức của tôi; mối tình hụt
hẫng đó, giữa hai nhân vật, làm bật ra, hay, qui chiếu về, một xứ sở
Việt Nam, mà một, đã mất, và một, không thể tìm lại được, vì trên thực
tế, theo như định nghĩa, nó có đâu mà đòi tìm lại được.
Nói rộng hơn, quyển tiểu thuyết là để vinh danh Murakami, và nhất là,
những gì người Nhật gọi là "mono no aware", “nỗi buồn cháy da, cháy
thịt của những sự vật”; (1) đó là cảm nhận xâm chiếm tâm hồn khi nhìn
lá thu rơi, hay khi người thân đi tới một chỗ quẹo rồi biến mất. Tôi
muốn câu chuyện «Cô Công Chúa và
chàng chèo thuyền» gợi lên một cảm nhận buồn man mác của những
gì đã có và bây giờ không còn.
Nữ nhân vật - người kể
chuyện, trong
cuốn tiểu thuyết, mê đọc sách, và ngưỡng mộ những nhà văn một cách sâu
đậm, có phải đây là trường hợp cô? Ngưỡng mộ như thế liệu có tí kẹt, có
ngăn cản việc viết?
Khi
tôi bắt đầu, đọc, tôi không hề nghĩ đến chuyện, viết. Tôi chỉ nghĩ
đến chuyện, sống những thực tại khác, khác với cái thực tại tôi có dưới
mắt, mà tôi nghĩ là, nó chưa đủ thoả mãn tôi. Rồi việc đọc đó trở thành
một đam mê thực sự, tôi đọc sách đến phát bịnh, phát khùng: từ chiều
tới tối, tới những giờ giấc bất khả, đọc trong khi ăn, đọc trong khi
đi, đứng… Sau đó, là ý nghĩ, trở thành nhà văn, nhưng giữa tri, và
hành, giữa ước muốn trở thành nhà văn, và biến nó thành cụ thể, tưởng
tượng ra mình trong vai nhà văn, đối mặt với một hệ quả như vậy.. là cả
một quãng đường dài, chứ không phải chỉ là một bước chân. Và đây là vấn
đề thuộc về tạng người, thuộc về tính khí. Tôi có những người bạn, đọc
kinh khủng, nhưng lại tự nhận, chẳng có cái gì, đặc biệt, để mà viết
ra. Còn tôi, từ lâu tôi đã thèm làm sao có thể xây dựng được một tác
phẩm, viết lại cho ngăn nắp những gì rối rắm, thô thiển, và nhạt nhẽo
trong cuộc sống. Tôi nghĩ ngưỡng mộ văn sĩ là động lực để viết, chứ nó
không ngăn mình viết. Trong khi khám phá ra được cái nhìn của họ về thế
giới, thì cũng là lúc, họ cho phép tôi xây dựng cái nhìn của tôi.
Ngoài Haruki Murakami,
những tác giả
nào ảnh hưởng đến cô?
Murakami
chiếm một chỗ quan trọng trong quyển sách này, vì với tôi, nói đến
Murakami là nói đến tuổi trẻ, đến cái đà không cưỡng lại được của tuổi
mới lớn, khi các cô các cậu đó nghĩ rằng, thế giới đang mở ra trước mặt
họ, và mọi chuyện đều ở trong tầm tay. Theo tôi, quyển “Bài Ca của sự bất khả” và “Phía nam biên giới, phía tây mặt trời”
là hai quyển sách tiêu biểu, hai ngọn hải đăng, của tuổi trẻ. Khi 20
tuổi, tôi thích Fitzgerald qua khía cạnh lãng mạn của ông, nhưng có ai,
ở vào cái tuổi 20 đó, mà không mê Fitzgerald! (Cười). Sau đó, tôi không
nghĩ mình có những ảnh hưởng nào nhất định, tôi đọc nhiều nhưng tôi
không có một đam mê đặc biệt với một tác giả nào. Đúng hơn là những câu
văn hay, những hình ảnh góp nhặt đây đó đánh động tôi và đi theo tôi.
Chẳng hạn với quyển “Cô Công Chúa và
chàng chèo thuyền”, lúc đó trong đầu tôi đang nghĩ về một quyển
tiểu thuyết ngắn “Sự im lặng của biển
cả” của Vercors, quyển này chẳng ăn nhập gì đến quyển tôi đang
viết. Bởi vì nó dùng ẩn dụ: bề mặt đại dương rất yên tĩnh, rất trong
suốt nhưng dưới đáy là cuộc chém giết của những thuỷ quái... Khi viết,
tôi giữ trong tôi, viễn ảnh này, và tôi muốn viết với một giọng văn rất
trong sạch, tránh mọi khía cạnh bệnh lý để nói lên, một cách tốt nhất,
thảm kịch, những điều xé lòng mà một số nhân vật phải chịu đựng.
Quyển sách được sáng tạo
dần dần, theo
nhịp viết hay nó đã có, tròn trịa, ở trong đầu cô?
Ngay
cả khi tròn trịa, như bạn nghĩ, thì sau đó, cũng chẳng như vậy
được: Cho dù bạn có, một ý nghĩ khá chính xác, về cấu trúc mà bạn muốn
sử dụng, cho dù bạn có tất cả những gì mà bạn muốn làm bật ra, thì rút
cục, cũng chẳng như bạn tính trước! Về phần tôi, tuy đã dàn dựng nhiều
chương sách, tôi nhận thấy, chẳng thể nào theo đúng chương trình đề ra.
Nhưng điều mà tôi quan tâm, thì đã hoàn tất, lúc này, hay lúc nọ, bằng
cách thêm thắt vô, chen vô. Sau cùng, có quá nhiều điều biến mất, so
với những gì xuất hiện. Tôi có quá nhiều xen, chạy ro ro ở trong đầu,
nhưng chúng hoàn chỉnh quá, tinh xảo quá. Chúng, đúng ra, là phải được
đề xuất, giả dụ, thay vì có sẵn ở trong đầu, quá tinh xảo, quá ngon
cơm. Từ đó, cái công đoạn có tên là “sabrage” [làm sạch, gỡ bỏ những
sợi lông bám trên một tấm thảm], là quan trọng. Nhưng, một cuốn sách,
đâu phải đầu hôm sớm mai mà có được, vả chăng, tôi lại có, cả một đống
những ấn bản cũ, những lúc bí, lôi ra, và chúng đỡ đần cho tôi rất
nhiều. Khởi đi khởi lạ, từ những địa bàn như thế, cứ thế xào đi xào
lại, từ cái có ngày nào, ra cái tôi bây giờ. Thì cũng có những lúc khập
khà khập khễnh, nồi này úp vung nọ, những cũng có những lúc thật là
thích thú, thật là tuyệt vời, phải thống nhất tất cả, làm thành một.
Cô là phụ tá tổng biên
tập tạp chí Văn Học, bằng cách nào, cô đi, từ báo qua văn?
Thì
phải loại không biết cơ man nào là thói quen. Dân làm báo thường
dùng một số mánh, cốt sao viết cho nhanh. Rõ ràng là, trong một cuốn
sách, luận lý tạm thời, và luận lý nền tảng, hai thứ luận lý này hoàn
toàn khác nhau. Phải thao luyện rất nhiều, giữa hai địa hạt, văn và
báo, chúng, cùng lúc, tuy gần gụi nhưng thật khác xa nhau, nhiều lúc
muốn khùng. Đây là công việc rèn luyện, mài dũa ngòi viết, nhưng, thay
vì sửa lỗi, thì sửa tật. Vì đã viết nhiều bản thảo trước đó, thành thử
vấn nạn này không phải là một thách đố đối với tôi. Đây là một vấn đề
về tương quan môi trường, theo tôi: không phải đọc cùng một cách, không
phải với những người thích bạn, cũng không phải với những người không
thích bạn.
Sự kiện là ký giả, có phải
là một lợi
thế, khi xuất bản quyển tiểu thuyết đầu tiên?
Hiện
nay, là ký giả không lợi cho tôi. Chẳng hạn năm nay, do luật đạo
đức nghề nghiệp, một vài tờ báo quyết định, không cổ động một quyển
sách nào của ký giả, gà nhà hay không gà nhà, để sự chọn lựa của họ ở
bên trên tất cả mọi nghi ngờ, nhưng tôi có cảm tưởng, không chừng, họ
đẩy sự việc tới cực điểm ngược. Nhưng chẳng sao, mà cũng ngược đời, tôi
nhận được sự hỗ trợ của những người tôi chẳng hề quen biết, hoặc ở các
môi trường không liên quan gì đến phê bình văn học – các tiệm sách, các
hiệp hội.
Cô nghĩ gì về mùa tựu
trường văn học năm nay?
Chung
chung mùa tựu trường văn học lúc nào cũng có những tác giả mình
thích thú gặp lại nhưng tôi chưa khám phá một tác phẩm nào lớn. Tôi
thấy quyển của Charif Majdalani, 'Caravansérail', viết hay và soạn thảo
cực kỳ công phu. Tôi cũng ngạc nhiên với ‘L'Année de la pensée magique'
của Joan Didion, một tác giả lớn chưa được biết nhiều, hoặc quyển ‘La
Perte en héritage’ của Kiran Desai. Nhưng tôi chưa thấy một quyển sách
nào gây biến cố, trừ quyển mà ai cũng đoán nó sẽ gây biến cố là quyển
Yasmina Reza viết về Nicolas Sarkozy, hay quyển của tác giả Eric
Reinhardt, các nhà phê bình nói rất nhiều – nhưng riêng tôi, tôi không
hoàn toàn thích nó.
Các dự trù của cô?
Tôi
đang viết chương đầu cho quyển thứ nhì. Đề tài hoàn toàn khác: câu
chuyện về bịp tình và nghệ thuật. Đương nhiên không phải tự thuật nhưng
nó lại dựa trên những sự kiện có thật: một câu chuyện làm trò cười
trong thế giới nhạc cổ điển năm 2007. Nhà xuất bản Actes Sud cũng đề
nghị tôi gom lại một tuyển tập các câu chuyện cổ tích Việt Nam, tôi sẽ
làm.
Minh Trần Huy
Phỏng vấn do Claire Simon thực hiện cho Evene.fr – 08-2007
Felix Trần dịch.
[Nguồn, ở cuối entry này]
(1)-Trong cùng lúc, những gì ông viết
ra mang dấu vết của “mono no
aware”, hay “nỗi buồn cháy da, cháy thịt của
những sự vật” , và đây là một trong nét tuyệt, tuyệt, của thi ca truyền
thống Nhật Bản...
Tôi
cho rằng,
chúng ta sống trong một thế giới, cái thế giới “này” (“ce” monde),
trong khi còn có những thế giới khác cận kề ngay bên cái thế giới “này”
đó. Nếu bạn thực tình mong muốn, bạn có thể chui qua tường, nhập vào
một vũ trụ khác. Một cách nào đó, có thể vượt cái thực, cõi thực này.
Đó là điều tôi cố gắng làm, ở trong những cuốn sách của tôi. Đây là một
quan niệm rất Đông phương, rất Á châu, theo như tôi hiểu được. Ở Nhật
Bản, ở Trung Quốc, người ta coi như có hai thế giới song song, và có
những chiếc cầu nhỏ cho phép, không khó khăn là mấy, qua lại giữa hai
bên. Ở Tây Phương, làm gì có một quan niệm như vậy, thế giới-này là thế
giới-này, thế giới-kia là thế giới-kia. Sự cách biệt thật là quyết
liệt, thật là khắt khe, tôi muốn nói giữa “này” với “kia” đó. Bức tường
quá cao, làm sao vượt, làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á Châu,
khác hẳn. Và “mono no aware” diễn tả, theo như
tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong Bài ca của sự bất khả, có sáu
nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất và qua thế giới bên kia - họ tự tử.
(1) Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng biết, hiểu ra là, cũng
nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một
hình thức của “mono no
aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt
đầu viết Bài ca của sự bất khả, tôi có ý tưởng theo đó, ba trong sáu
nhân vật sẽ biến mất, nhưng không biết là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi
chính mình, ai sống, ai chết.
Minh Trần Huy phỏng vấn Murakami
(1)
Thanh Tâm
Tuyền, chắc chắn chẳng hề biết, và, chưa từng đọc Murakami, khi viết
Một Chủ Nhật Khác, nhưng đã để nhân vật Kiệt của ông, đưa tiễn người
tình, Hiền, tới "chỗ đó", rồi lại trở về. Độc giả Một Chủ Nhật Khác, dù
tò mò cách mấy, cũng không hiểu được, và đều như Duy, bạn của Kiệt, đều
muốn hỏi Kiệt, Hìền đâu rồi.
Sau
này Duy hiểu
buổi tối ấy đang hồi nguy kịch của đôi tình nhân. Họ quyết định chia
tay vĩnh viễn. Họ đã không thể bình thường từ biệt nhau. Cũng không ai
đủ can đảm rời bỏ trước. Mọi quyết định đều gian nan. Duy giúp họ lìa
tách làm hai. Để họ một mình với quyết định đau đớn chưa rõ những ngày
cuối của cuộc tình ấy như thế nào. Họ có thể liều lĩnh nhắm mắt lao tới
như kẻ ngu ngốc, nhưng họ cũng có thể tháo lui vội vã như kẻ tội lỗi.
Cả hai đường đều tồi tệ, phủ nhận những ngày họ đã sống, phủ nhận điều
mà họ đã tin là tình yêu của họ qua bao năm tháng. Duy nghĩ thế...
Em
là đàn bà, em
hãy tưởng tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở
lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ
anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng
ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với
em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu….
Một Chủ Nhật Khác
*
“Vivre
d'autres
réalités”
INTERVIEW
DE MINH
TRAN HUY
A seulement 27 ans, Minh Tran Huy est rédactrice en chef adjointe au Magazine
littéraire. Férue de littérature depuis l'enfance, elle écrit ses
premiers textes au lycée et remporte quelques concours de nouvelles
avant de se consacrer au journalisme. Celle que tous qualifiaient de
jeune espoir peuvent se réjouir puisqu'elle revient à ses premières
amours en publiant 'La Princesse et le pêcheur', un roman à son image :
étonnant, sensible et intelligent...
|
Silhouette menue,
robe estivale et sourire aux lèvres, Minh Tran Huy nous accueille dans son salon, au
coin de son imposante bibliothèque. Elle raconte avec enthousiasme,
analyse avec subtilité et se livre avec pudeur dans un dialogue où
s'expriment tour à tour la journaliste et l'écrivain. Rencontre avec
une surdouée des lettres.
Ce premier roman est personnel et très abouti, d'où
vous est venue l'idée de 'La Princesse et le pêcheur' et depuis quand y
pensiez-vous ?
Si l'écriture proprement dite m'a pris un an, l'embryon du roman
remonte à mes 20 ans. L'idée vient d'une rencontre qui a effectivement
eu lieu quand j'avais 15 ans, lors d'un voyage linguistique, avec un
garçon qui était un boat people. Je tenais beaucoup à lui, et je l'ai
perdu, mais dans des circonstances beaucoup moins tragiques que celles
décrites dans le livre. J'ai donc commencé à écrire sur cette histoire
qui m'avait marquée, la structure était déjà là mais il y avait moins
de niveaux de lecture et un arrière-plan familial moins important. La
plupart des itinéraires familiaux sont également vrais. Mon grand-père
et mon arrière-grand-père ont vraiment été assassinés ; c'était
important pour moi que ça figure sous une forme réelle. En revanche,
aucune des scènes qui constituent l’intrigue, à savoir l’histoire entre
les deux jeunes gens, n’a existé. Elles sont toutes inventées, sauf la
plus improbable : ma rencontre avec Haruki Murakami.
Peut-on parler d'autobiographie ?
Pour moi ça a été une façon de faire le bilan de mon adolescence. Michel Schneider dit que la psychanalyse ne permet
pas d'atteindre la vérité, mais donne une version supportable de ce que
peut être le réel, que c'est un moyen de l'accepter. Je pense
que c'était aussi ma façon de donner une version acceptable de
l'histoire que j'ai eue avec ce garçon, et qui pour moi rejoignait des
problématiques plus profondes : le rapport aux origines, à la famille,
et à la mémoire ; l'amour manqué entre les deux héros renvoyant à ce
Vietnam que l'un a perdu et que l'autre ne peut, par définition, pas
retrouver, puisqu'elle n'y a jamais été. Plus largement, le
roman est un hommage à Murakami, et plus particulièrement à ce que les
Japonais appellent le "mono no aware", la "poignante mélancolie des
choses", et qui désigne le sentiment qui vous envahit lors de la chute
des feuilles en automne, ou de la disparition de l'être aimé au détour
d'un chemin... Je voulais que ‘La Princesse et le pêcheur’
donne à ressentir la nostalgie de ce qui a été et n'est plus.
La narratrice a un rapport presque boulimique à la
littérature et admire profondément les écrivains, est-ce également
votre cas ? Une telle admiration n'est-elle pas un frein à l'écriture ?
Quand je me suis mise à lire je ne pensais pas du tout à écrire. Je
pensais juste à vivre d'autres réalités que celle que j'avais sous les
yeux et que je jugeais peu satisfaisante. Puis c'est devenu
une vraie passion, je lisais de manière maladive : le soir jusqu'à des
heures impossibles, en mangeant, en marchant... Ensuite est venue
l'idée de devenir écrivain, mais entre en avoir le désir et le
concrétiser, s'imaginer auteur et se voir confronté à ce que cela
implique, il y a plus qu'un pas à franchir... C'est une question de
tempérament, j'ai des amis qui lisent énormément mais qui considèrent
qu’eux-mêmes n'ont rien à dire de particulier. Moi j'avais envie depuis
longtemps de voir si je pouvais construire une oeuvre, mettre au propre
des choses qui dans la vie sont brouillonnes et sans intérêt. Je
pense que l’admiration pour les écrivains a plutôt été le moteur de
l'écriture qu'un frein, finalement. En me faisant découvrir leur vision
du monde, ils m’ont permis de construire la mienne.
Quelles ont été vos influences littéraires, à part
Haruki Murakami ?
Murakami a une place importante dans ce livre parce qu'il est associé
pour moi à la jeunesse et à l'irrésistible élan qui vous porte quand
vous êtes adolescent, quand vous pensez que le monde vous est ouvert,
que tout est possible. 'La Ballade de l'impossible' et 'Au sud de la frontière à l'ouest du soleil' sont
pour moi deux livres phares par rapport à la jeunesse. Quand j'avais 20
ans j'aimais Fitzgerald pour son côté romantique mais tout le
monde aime Fitzgerald à 20 ans ! (rires) Après, je ne pense
pas avoir d'influence précise, j'ai beaucoup lu mais je n'ai pas de
passion particulière pour un auteur. Ce sont plutôt des phrases ou des
images picorées ici et là qui me marquent et m'accompagnent. Pour ‘La
Princesse et le pêcheur’, par exemple, j'avais en tête un petit livre
qui en apparence n'a rien à voir avec ce roman, ‘Le Silence de la mer’ de Vercors. Parce qu'il utilise cette métaphore : une
mer très calme en surface, très lisse, alors que se livrent dans les
profondeurs des combats meurtriers entre monstres marins... En
écrivant, j'avais cette vision à l'esprit, et je voulais une écriture
très tenue, évitant tout pathos, pour mieux faire ressortir les
tragédies et les déchirures que connaissent certains personnages.
Le livre s'est-il créé au fur et à mesure de
l'écriture, ou était-il déjà entier dans votre esprit ?
Même quand on a une idée assez précise de la structure qu'on veut
employer et de tout ce qu'on veut évoquer, ça ne se passe jamais comme
prévu ! Ayant planifié beaucoup de chapitres, je m'apercevais que je
n'arrivais jamais à suivre le plan que j'avais établi. Mais ce qui
m'intéressait finissait à un moment ou l'autre par s'intégrer.
Finalement, il y a presque plus de choses qui ont disparu que de choses
qui sont apparues. J'avais des tas de scènes qui marchaient très bien
dans ma tête, mais qui étaient trop fabriquées. Elles méritaient plutôt
d'être suggérées, d’où un travail de sabrage important. Mais comme
c'est un livre qui n'a pas surgi du jour au lendemain, j’avais de
vieilles versions qui m’offraient pas mal de possibilités. En repartant
sur ces bases, il y a eu une sorte de mélange de ce que j'étais
à l'époque et de ce que je suis aujourd'hui. Cela rendait les choses
parfois bancales, parfois intéressantes, il a fallu tout unifier.
Vous êtes rédactrice en chef adjointe au Magazine
littéraire, comment se fait le passage entre
journalisme et littérature ?
Ce dont on se rend compte, c'est qu'il faut se débarrasser de pas mal
de tics d'écriture. Quand on est journaliste, on prend parfois
l'habitude d'utiliser un certain nombre de tournures types pour aller
plus vite. Evidemment, dans le livre, la logique temporelle comme la
logique de fond sont très différentes. C’est pas mal de gymnastique de
naviguer entre ces deux activités à la fois proches et très
différentes, on se sent un peu schizophrène… C'est comme si on
faisait un travail de décoquillage de la plume sauf qu'on ne corrige
pas des fautes, mais des manies. Ayant écrit plusieurs
manuscrits avant, je pense que c’est une problématique qui s'est moins
posée à moi. Le problème se trouve plutôt dans le rapport qu'on a avec
ce milieu. Ce n'est pas lu de la même manière, ni par les gens qui vous
aiment bien, ni par ceux qui ne vous aiment pas du tout.
Le fait d'être journaliste est-il un atout
lorsqu'on publie son premier roman ?
Pour l'instant, le fait d'être journaliste m'a plutôt desservie. Par
exemple certains journaux ont décidé cette année, par déontologie, de
ne prendre aucun livre de journaliste. C'est pour que leur sélection
soit au-dessus de tout soupçon, même si j'ai le sentiment qu'ils
risquent de pousser dans l'excès inverse. Mais ce n'est pas dramatique,
et paradoxalement les soutiens viennent de gens que je ne connais pas
du tout, ou qui ne sont pas liés au milieu de la critique littéraire -
les libraires, les associations.
Quel regard portez-vous sur cette rentrée
littéraire ?
Il y a des auteurs qu'on retrouve généralement avec plaisir de rentrée
en rentrée, mais je n'ai pas fait de grandes découvertes encore. J'ai
trouvé des livres intéressants comme celui de Charif Majdalani, 'Caravansérail', bien écrit et extrêmement
élaboré. J'ai été impressionnée également par 'L'Année de la pensée magique' de Joan Didion, un grand écrivain trop peu connu ici,
ou ‘La Perte en héritage’ de Kiran Desai. Mais je n'ai pas vu de livre
événement, à part ceux qui sont prévisibles, comme le livre de Yasmina Reza sur Nicolas Sarkozy, ou le livre d'Eric Reinhardt, dont on parle beaucoup entre
critiques - mais personnellement, je ne l'ai pas pleinement apprécié.
Quels sont vos projets ?
Je travaille sur mon prochain roman, dont j'ai déjà écrit le premier
chapitre. Le sujet est totalement différent : c'est une histoire
d’imposture amoureuse et artistique. Ce sera bien sûr moins évidemment
autobiographique, mais quand même basé sur des faits réels : une
affaire qui a défrayé le milieu de la musique classique en 2007. Actes
Sud m’a aussi proposé d’écrire un recueil de contes vietnamiens, ce que
je vais faire.
Propos
recueillis par Claire Simon pour Evene.fr - Août 2007
Minh Huy Tran đoạt giải thưởng Gironde
Ngoài
Haruki Murakami, những
tác giả nào ảnh hưởng đến cô?
Murakami
chiếm một chỗ quan
trọng trong quyển sách này, vì với tôi, nói đến Murakami là nói đến
tuổi trẻ,
đến cái đà không cưỡng lại được của tuổi mới lớn, khi các cô các cậu đó
nghĩ
rằng, thế giới đang mở ra trước mặt họ, và mọi chuyện đều ở trong tầm
tay. Theo
tôi, quyển “Bài Ca của sự bất khả” và “Phía nam biên giới, phía tây mặt
trời”
là hai quyển sách tiêu biểu, hai ngọn hải đăng, của tuổi trẻ. Khi 20
tuổi, tôi
thích Fitzgerald qua khía cạnh lãng mạn của ông, nhưng có ai, ở vào cái
tuổi 20
đó, mà không mê Fitzgerald! (Cười). Sau đó, tôi không nghĩ mình có
những ảnh
hưởng nào nhất định, tôi đọc nhiều nhưng tôi không có một đam mê đặc
biệt với
một tác giả nào. Đúng hơn là những câu văn hay, những hình ảnh góp nhặt
đây đó
đánh động tôi và đi theo tôi. Chẳng hạn với quyển “Cô Công Chúa và
chàng chèo
thuyền”, lúc đó trong đầu tôi đang nghĩ về một quyển tiểu thuyết ngắn
“Sự im
lặng của biển cả” của Vercors, quyển này chẳng ăn nhập gì đến quyển tôi
đang
viết. Bởi vì nó dùng ẩn dụ: bề mặt đại dương rất yên tĩnh, rất trong
suốt nhưng
dưới đáy là cuộc chém giết của những thuỷ quái... Khi viết, tôi giữ
trong tôi,
viễn ảnh này, và tôi muốn viết với một giọng văn rất trong sạch, tránh
mọi khía
cạnh bệnh lý để nói lên, một cách tốt nhất, thảm kịch, những điều xé
lòng mà
một số nhân vật phải chịu đựng.
*
Tôi cho
rằng, chúng ta sống
trong một thế giới, cái thế giới “này” (“ce” monde), trong khi còn có
những thế
giới khác cận kề ngay bên cái thế giới “này” đó. Nếu bạn thực tình mong
muốn,
bạn có thể chui qua tường, nhập vào một vũ trụ khác. Một cách nào đó,
có thể
vượt cái thực, cõi thực này. Đó là điều tôi cố gắng làm, ở trong những
cuốn
sách của tôi. Đây là một quan niệm rất Đông phương, rất Á châu, theo
như tôi
hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc, người ta coi như có hai thế giới
song
song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép, không khó khăn là mấy, qua
lại giữa
hai bên. Ở Tây Phương, làm gì có một quan niệm như vậy, thế giới-này là
thế
giới-này, thế giới-kia là thế giới-kia. Sự cách biệt thật là quyết
liệt, thật
là khắt khe, tôi muốn nói giữa “này” với “kia” đó. Bức tường quá cao,
làm sao
vượt, làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á Châu, khác hẳn. Và “mono
no
aware” diễn tả, theo như tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong Bài
ca của sự
bất khả, có sáu nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất và qua thế giới bên
kia - họ
tự tử. (1)
Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng
biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô thường, tạm bợ
mà
thôi. Đó là một hình thức của “mono no aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt
đầu
viết Bài ca của sự bất khả, tôi có ý tưởng theo đó, ba trong sáu nhân
vật sẽ
biến mất, nhưng không biết là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi chính mình,
ai
sống, ai chết.
Murakami trả lời Le Magazine
Littéraire
Minh Trần Huy phỏng vấn Murakami
*
(1)
Thanh Tâm Tuyền, chắc
chắn chẳng hề biết, và, chưa từng đọc Murakami, khi viết Một Chủ Nhật
Khác,
nhưng đã để nhân vật Kiệt của ông, đưa tiễn người tình, Hiền, tới "chỗ
đó", rồi lại trở về. Độc giả Một Chủ Nhật Khác, dù tò mò cách mấy, cũng
không hiểu được, và đều như Duy, bạn của Kiệt, đều muốn hỏi Kiệt, Hìền
đâu rồi.
*
Sau này Duy hiểu buổi tối ấy
đang hồi nguy kịch của đôi tình nhân. Họ quyết định chia tay vĩnh viễn.
Họ đã
không thể bình thường từ biệt nhau. Cũng không ai đủ can đảm rời bỏ
trước. Mọi
quyết định đều gian nan. Duy giúp họ lìa tách làm hai. Để họ một mình
với quyết
định đau đớn chưa rõ những ngày cuối của cuộc tình ấy như thế nào. Họ
có thể
liều lĩnh nhắm mắt lao tới như kẻ ngu ngốc, nhưng họ cũng có thể tháo
lui vội
vã như kẻ tội lỗi. Cả hai đường đều tồi tệ, phủ nhận những ngày họ đã
sống, phủ
nhận điều mà họ đã tin là tình yêu của họ qua bao năm tháng. Duy nghĩ
thế...
Em là
đàn bà, em hãy tưởng
tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không
bao
giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu
không
anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một
mình… Anh
chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh
hy vọng
em hiểu….
Một Chủ Nhật Khác
|
|