Malraux: Thiên
tài của sự lòe bịp.
Đó là nhan đề bài viết của Didier Sénécal trên tờ Đọc (Lire), số tháng
Năm
2001, về cuốn tiểu sử Malraux, mới ra lò, của Olivier Todd ("Malraux:
một
cuộc đời"; 690 trang; nhà xuất bản Gallimard, Paris.)
Sự thực, tất cả sự thực, chỉ sự thực: tôn trọng công thức này, Olivier
Todd đã
biến mình thành một nhà khảo cổ. Ông dẹp bỏ huyền thoại, đào sâu những
tầng
nửa-dối trá (demi-mensonges), hoàn toàn bịa đặt, thuần chỉ là ghi chú
tài liệu,
được tích luỹ theo năm tháng, của Malraux và những tiểu sử gia khác
viết về
Malraux. Ông đối chiếu đủ các nguồn thông tin, chưa từng in ấn, hồ sơ
CIA, Quai d’Orsay. Kết quả thật đáng
kể. Và cũng đáng nể: ông
không hề "làm thịt" Malraux, cho dù, theo như tên bài viết của Didier
Sénécal, đây chỉ là một thứ thiên tài của sự lòe bịp. Ông thừa nhận
những tài năng
sáng chói của Malraux.
Khởi từ một chàng thanh niên hai mươi tuổi, và một lời tuyên bố nẩy
lửa,
"Tôi sẽ tạc pho tượng của chính tôi". Để bắt đầu [tạc pho tượng của
chính tôi], chàng bèn "chôm" mấy pho tượng nhỏ tại một ngôi đền ở
Cambodge. Mấy tay tổ trong nghề buôn chữ, Gaston Gallimard, Paulhan…
ngửi thấy
mùi tiền qua thiên tài lòe bịp này, bèn giúp đỡ Malraux tự đánh bóng
hình ảnh
của chính mình. Sau thành công của [cuốn tiểu thuyết] Người Chinh Phục,
tới vinh
quang của Phận Người. Đâu cần biết thiên tài văn chương được giải
Goncourt này
hiểu biết Trung Hoa và cuộc Cách Mạng ở đó tới mức nào! Ba năm sau,
cuộc chiến
Tây Ban Nha cho Malraux cơ hội bằng vàng để ném vào đó tất cả nghị lực
của mình.
Todd coi thời gian 1936-38 là đỉnh cao trong cuộc đời Malraux: ông đã
đóng một
vai trò không thể chối cãi được trong những chiến dịch hành quân, chứng
tỏ lòng
can đảm, tình chiến hữu, và viết Hy Vọng, cuốn tiểu thuyết khá nhất của
ông.
Hào quang tỏa sáng tới thế cũng là quá xá rồi, vậy thì tại sao ông lại
làm hỏng
những trang sách này, bằng một vết thương dởm vì trúng đạn, và phải nằm
dưỡng
thương tại bệnh viện? Y hệt như Hemingway, địch thủ của ông, cả hai
cùng nổi
tiếng vì thêu dêät những huyền thoại về họ, và thường là liên can tới
súng đạn;
cả hai đều rút những cuốn tiểu thuyết ra từ cuộc đời của mình, và sống
[cuộc
đời của họ] ở trong những cuốn tiểu thuyết đó.
Thế cũng chưa đủ tệ. Tài liệu cho thấy, Malraux gia nhập lực lượng
Kháng Chiến
vào cuối tháng Ba năm 1944, sau khi hai anh/em của ông bị bắt. Chỉ vài
tháng
sau đó, không biết anh binh nhì xoay sở ra sao mà được gắn lon trung
tá! Ông
trung tá này xun xoe quanh những chiến tướng thứ thiệt, và thành công
trong
việc mập mờ đánh lận con đen, biến mình thành một thứ gan dạ có thừa!
Ngụy tạo
hồ sơ, biến thời gian gia nhập lực lượng trở thành tháng Chạp 1940,
cộng thêm
nhiều tài liệu ngụy tạo khác nữa, cuối cùng được trao tặng huy chương
Người Bạn
Giải Phóng, một trong những mề đay cao quí nhất của Pháp và Đồng Minh.
Trong
khi đó, hai anh/em của ông đã chiến đấu và chết, như là những người
lính thực
thụ, hoàn toàn trong vô danh…
Vào năm 1945, người bạn đường của những người cộng sản "cải giáo",
chuyển
qua phò De Gaulle, và hết sức "ngoan đạo", cho tới ngày chết. Thật dễ
dàng hiểu được chuyện ông thờ phụng một trong những vị anh hùng của
nước Pháp, và
của thời đại chúng ta; ngược lại, người ta tự hỏi vị đại tướng nghĩ gì
về
"đệ tử" của mình. Todd đưa ra nhiều câu trả lời: đối với De Gaulle,
Malraux được coi như một đảm bảo của tả phái; cùng với Bernanos và
Mauriac lại
là một đảm bảo văn chương; nhiều người nhìn Malraux như là "nữ diễn
viên" của Đại tướng (la danseuse du Général).
Malraux là một trong những khuôn mặt của thế kỷ. Thành thử có những cái
nhìn
khác hẳn Todd, về ông. Những cuốn tiểu thuyết của ông đã đem những giấc
mộng
lớn đến cho nhiều thế hệ những người trẻ tuổi đam mê công lý và phiêu
lưu.
Những bài diễn văn của ông, chứa đầy điện, cứ thế truyền qua người
nghe/người
đọc.
Khi khép lại cuốn tiểu sử của Todd, người ta còn giữ lại, ít ra là hai
lời phẩm
bình về Malraux, một của bạn thân của ông là Raymond Aron: "Một phần ba
thiên tài, một phần ba dởm, phần ba còn lại: không thể hiểu được
(incompréhensible)." Một của nhân viên Quai
d’Orsay,
khi thầm thì với bạn bè, trước chuyến đi Ấn Độ của Malraux: "Cầu cho
ông
ta đừng táy máy gì ở đó!"
***
Trên tờ Điểm sách London, số đề ngày 9 tháng Tám 2001, lại là một bài
điểm khác
cuốn tiểu sử Malraux của Todd. Tác giả bài điểm, John Sturrock, biên
tập viên
(consulting editor) báo trên. Nhan đề bài viết: Người từ không đâu (The
Man
from Nowhere), với tiểu đề, ở bìa báo: Mai táng Malraux (Burying
Malraux).
Tại lễ mai táng Malraux vào tháng 11 năm 1976, có hai vòng hoa được
chuyển
(delivered) tới nghĩa địa, một của Đảng Cộng sản Pháp, một tổ chức mà
Malraux
chưa từng tham dự; vòng hoa kia là từ Lasserre, chủ một nhà hàng ba sao
ở gần
Grand Palais. Đây là nơi Malraux thường lui tới dùng bữa trưa – và
‘đành’ móc
bóp trả tiền nếu không có ai đi cùng. Malraux còn được hưởng vinh dự,
là có tên
trong tờ menu (thực đơn) của nhà hàng này – món "bồ câu Malraux" –
ngay từ khi còn sống. Vinh dự này chỉ dành cho nhà văn, mà phải là
"những
con người hành động".
Bài viết trên tờ Điểm sách London cho biết rõ thêm về những ngụy tạo hồ
sơ cá
nhân tham dự kháng chiến của Malraux – một tay kháng chiến thứ thiệt, a
résistant of stature, đã từng bị bắt, bị tra tấn, bị bịt mắt trước đội
hành
quyết… rồi tìm cách thoát được… - hai người anh em của Malraux chỉ là
những anh
em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; và có lẽ do xấu hổ vì những
trò anh
hùng dởm kể trên, Malraux đã thực sự tổ chức một toán kháng chiến có
tên là
Alsace-Lorraine Brigade (Đội quân vùng Alsace-Lorraine). Cho dù trang
bị thô
sơ, họ đã chiến đấu thật can trường, chịu tổn thất nặng nề, bên cạnh
những toán
quân chính quyï của tướng De Lattre de Tassigny ở vùng phía đông nước
Pháp vào
mùa đông cuối cùng của cuộc chiến. Bài điểm cũng cho biết thêm chi tiết
về
những hoạt động của Malraux, tại Đông dương, ngoài cái chuyện ‘tháo gỡ’
mấy bức
tượng nho nhỏ tại một ngôi đền từ thế kỷ thứ mười tại Cambodge, bị bắt,
bị tống
giam và bị toà án thuộc địa kêu án ba năm tù, nhưng do bạn bè ở Pháp
can thiệp,
án giảm còn một năm, và là tù treo. Chỉ hai tháng, sau khi được thả,
trở về
Paris, Malraux cùng Clara trở lại Sài Gòn, tính xuất bản một tờ nhật
báo, với
mục đích làm cho nước Pháp và nước An Nam nhích lại gần nhau (a ‘daily
paper of
franco-annamite rapprochement’), lấy tên là "Đông dương", sau đổi
thành "Đông dương bị xiềng", cho có vẻ ‘dấn thân’ (engagé, chữ của
tác giả bài viết). Dự định nhật báo, nhưng chỉ là bán nguyệt san. Theo
tác giả
bài viết, Malraux tự chứng tỏ, ông là một quan sát viên, phân tích gia
sắc bén
về chế độ thực dân thuộc địa. Tờ báo của Malraux trình bầy, ghi nhận
những điều
bất công mà chế độ thuộc địa đối xử với dân bản xứ, cùng là hạ tầng cơ
cấu xã
hội nghèo nàn, điều kiện sinh sống tệ hại… Không theo một ý thức hệ
nào, sự quan
tâm của Malraux hoàn toàn là do cảm tình của ông đối với người dân, và
cuộc sống
ở đây. Ông là một người chống chế độ thực dân thuộc địa, nhưng theo
kiểu của
ông: sứ mệnh khai hóa của nước Pháp đã không được thực hiện tốt, nhưng
đúng là
một thất bại, nếu bỏ chạy. Như trong Phản Hồi ký, ông đã từng viết:
Người Pháp
ra đi, nhưng nước Pháp ở lại [Đông dương; Việt Nam
nói riêng].
Đây có lẽ là một trong những lý do khiến một số nhà văn Việt Nam tại miền Nam
trước 1975, đã từng say mê
Malraux.