VHNT Số 558
September 19, 2003
mùa lá chin
1. Đọc
và Sợ
Tôi có cảm giác Nguyễn Huy
Thiệp đã đứng lại rồi...
Nguyên Ngọc
TCS: The Romantic Son[g]
Trên báo Văn số mới nhất
[Tháng Sáu & Bẩy], mục Sổ Tay, Nguyễn Xuân Hoàng viết về những ngày
đầu nơm
nớp làm quen văn học giải phóng và văn học miền bắc:
"Chúng
tôi đọc trong nỗi
lo sợ, thơ Tố Hữu, truyện Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng...."
"Chúng
tôi đọc trong nỗi
lo sợ...", "Chúng tôi" đã quá, "lo sợ", lại càng quá!
Bởi vì
ít ra là cá nhân tôi,
thành thực mà nói, tò mò đọc thì đúng hơn, chứ không sợ.
Không
phải là tôi "can
đảm" hơn ông bạn của tôi, mà vì, tôi hiểu rõ, cùng với chiến thắng của
những người CS, là một sự thực rõ như ban ngày, là: "Chúng tôi" sẽ
chẳng bao giờ có cơ hội cầm cây viết trở lại nữa. Có, nỗi lo sợ, trước
nhà nước
mới, nhưng không có nỗi lo sợ, trước những ông nhà văn của họ.
Đâu có
phải đợi đến lúc những
người miền bắc vào tới tận cửa ngõ Sài Gòn, một số người viết miền nam
mới nhận
ra một trong những vũ khí quan trọng làm nên chiến thắng miền nam là
văn chương
và đội ngũ những người: vừa cầm súng vừa cầm viết là tốt nhất, nếu cầm
viết
không thôi, thì phải coi đó là cây súng.
Không
dễ gì mà làm một người
CS, và càng không dễ, làm một nhà văn CS.
Thanh
Tâm Tuyền, trong khi
nhìn những đoàn quân chính quy miền bắc tiến vào Sài Gòn, đã "vui
mừng" thốt lên, "Thế là mình khỏi viết văn rồi"! Khi ông nói câu
đó, có thằng em, là tôi, đứng kế bên!
Khi nói
câu đó, có thể ông đã
quá chán văn chương, nhưng ông biết chắc chắn một điều, chán hay không
chán,
ông cũng chẳng còn cơ hội cầm cây viết trở lại.
Thực sự
không phải ông nói
câu đó ngay những ngày đầu, mà vài ngày sau đó. Nhưng tôi tin rằng, ông
chỉ
diễn lại cái cảm tưởng những ngày vừa mới đổi đời...
Để tôi
kể một vài thí dụ, để
minh chứng câu viết ở trên:
Không
dễ gì, làm một tay Cộng
Sản.
Và lại
càng không dễ, làm một
nhà văn Cộng Sản.
Lần trở
lại Hà Nội, tôi gặp
lại một ông cậu. Chi tiết về cuộc gặp gỡ, tôi đã kể sơ sơ, trong bài
viết
"Trở lại nơi một thời vang bóng". Ngoài ông ra, tôi còn ba ông cậu
cùng tuổi, con của bà ngoại, thường gọi là bà Ba, vì ông ngoại tôi có
tới ba
bà. Không phải cùng một lúc, nhưng số ông "sát thê", mất bà trước,
ông mới kiếm bà sau.
Ông cậu
Toàn là con bà Hai.
Bà cụ tôi, con bà Cả. Khi tôi còn nhỏ, ông thương tôi lắm, và tôi cứ
nghĩ ông
với mẹ tôi là chị em ruột. Ba ông em của ông, cùng lớp tuổi với tôi,
thành thử
cả bốn cùng học một lớp. Cùng đi thi tiểu học một năm, thằng cháu đậu,
ba ông
cậu trượt vỏ chuối cả ba. Tôi còn nhớ, bà Ba, khi xem bảng xong, mắng
mấy ông
con, "Nó ăn mắm ăn muối, ăn rau ăn cỏ, mà thi đỗ, còn ba đứa mày ăn cá
ăn
thịt, vậy mà trượt cả ba." Mắng xong, bà còn thưởng cho thằng cháu một
cốc
nước giải khát! Không hiểu làm sao, tôi nhớ tới tận bây giờ. Có lẽ vì
bà chưa
bao giờ khen tôi, mà lần đó lại khen, trước mặt bao nhiêu người xa lạ!
Ông cậu
tôi nhớ lại những
ngày tháng đấu tố. Ông đi theo kháng chiến từ những ngày đầu, và sau
này, khi
về Hà Nội, là đệ tử của Nguyễn Khắc Viện, trông coi tờ Le Courrier du
Vietnam.
Ông
nói: Cậu biết trước là
ông ngoại mày sắp bị bắt, mà không làm sao báo tin về nhà được. May là
bà Ba
đem được tụi thằng Cầu thằng Tiệp về Hà Nội. Vì là thủ đô, nhà nước
cũng như
địa phương không dám làm dữ, thành thử thoát.
Trong
ba ông cậu cùng học,
ông thứ nhất, ông Cầu thương tôi lắm, không thua gì Cậu Toàn, tức ông
anh cùng
bố khác mẹ. Ông thứ hai, ông Tiệp, học không thua tôi mấy, nhưng không
hiểu
sao, vẫn trượt kỳ thi tiểu học vừa kể. Có lẽ vì ông... thông minh quá!
Ấy là
tôi nói đùa. Nhưng sự
thực, ông Tiệp rất thông minh, theo cái kiểu giỏi xoay sở. Cậu Toàn tôi
kể,
"Nó không nói với cậu, bởi vì nói, cậu đã cản. Lần đó, nó làm đơn xin
vào
Đảng, khai là con bần cố nông, giấu biệt chuyện ông bố bị bắt vì là địa
chủ.
Tụi nó truy ra, trước mắt đuổi ra khỏi cơ quan. Lúc đó, nó mới chạy tới
cậu.Tới
gặp tay thủ trưởng, hóa ra cùng đơn vị ngày trước. Ông ta bảo, nếu cậu
nói
trước, thì còn gỡ được. Bây giờ chỉ còn có mỗi một cách: Đưa ông em ra
"tuyến đầu" một thời gian là ba năm, nếu còn sống, thì cho về lại cơ
quan!
Bây giờ
xin kể chuyện, không
dễ gì làm một nhà văn CS. Thí dụ, trường hợp Nguyễn Khải.
Nguyễn
Khải, trong một loạt
bài viết có tính tự thuật, đã kể lại cái thuở mới viết của ông. Ngay cả
khi về
già nhìn lại, ông vẫn không thể tưởng tượng ra được, một con người như
ông lại
trở thành một nhà văn, mà lại nhà văn xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều bài
viết,
phỏng vấn, ông cũng nói thẳng ra lòng biết ơn của ông, với Đảng. Qua
hồi ký cho
biết, ông vốn là con một ông quan, nhưng không được bố nhìn nhận, vì
không
thuộc dòng chính. Ông bố vào nam năm 1954. Tới 1975, ông gặp lại bố và
gia đình
bà vợ lớn của bố tại Sài Gòn. Chi tiết về cuộc gặp gỡ đã được tiểu
thuyết hóa
thành Gặp Gỡ Cuối Năm. Trong hồi ký Thượng Đế Thì Cười, ông kể thêm một
số chi
tiết cho thấy, việc hai bố con gặp lại, là do ông bố thấy ông con bây
giờ có
danh tiếng, có chức tước, nên mới tìm gặp. Có một chi tiết rất lạ, rất
thú vị,
là ông bố nói với ông con, ông vẫn còn giữ bằng khoán căn nhà ở Hà
Nội....
[Tôi
không hiểu Nguyễn Khải
có tính sử dụng chi tiết trên, để đưa vào giả tưởng, như phim Mùa Ổi
của Đặng
Nhật Minh chẳng hạn, hay đưa vào... đời thực, nghĩa là sử dụng bằng
khoán, và
gốc con quan, để đòi lại căn nhà cho gia đình của ông...]
Những
nhà văn thuộc diện ba
đời bần cố nông, trở thành nhà văn, biết ơn thì cũng biết ơn, nhưng
không thể
so với Nguyễn Khải được, như trên cho thấy.
Tôi có
đọc được ở đâu đó, một
câu chuyện ngụ ngôn, về một cái trứng chim, rớt khỏi tổ, và được một
giống gà,
hay vịt gì đó, ấp, rồi nuôi. Con chim, lẽ tất nhiên, rất biết ơn con
vật mà nó
đinh ninh là bố mẹ ruột đó. Nhìn thấy những con chim bay trên trời, nó
cứ nghĩ
là cái thân phận "bay" kia không thuộc về mình! Bố mẹ nuôi, vì không
biết bay, nên không làm sao biết cái cử chỉ dạy con cái bay của loài
chim, khi
thấy đủ lông đủ cánh, là a lê hấp, đạp cho nó một cái, văng ra khỏi tổ,
và thế
là nó biết bay!
Tôi
nghĩ, chủ nghĩa CS đối
với người dân miền bắc, nó cũng y hệt như bố mẹ nuôi của con chim khốn
nạn kia.
Con chim khốn nạn chỉ một lòng một dạ biết ơn Đảng [do giải phóng miền
bắc khỏi
đế quốc Phong Kiến, đế quốc thực dân Pháp và sau đó, Mỹ?], còn Đảng, do
ngu
dốt, hoặc do di căn của tinh thần... gia trưởng, nên không chịu đạp cho
nó một
cái, cho nó bật ra khỏi cái ổ, là Đảng Cộng Sản hay là cái nước Việt
Nam, tức
Cái Tổ Quốc Chẳng Bao Giờ Biết... Ăn Năn,
để
mà bay...
Bạn có
thể cho rằng tôi
quá... đểu, nhưng nói về cái lòng biết ơn của những đảng viên CS, đối
với Đảng
của họ, thì có những chuyện còn cười ra nước mắt được. Vào những năm
đầu của
thời kỳ cởi trói, đã có những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết,
thí dụ như
của Hoàng Lại Giang, bị mấy đồng chí thủ trưởng vu cho đủ thứ tội, chỉ
dám than
khóc Oan Quá Đảng Ơi, chứ không dám thoi cho mấy tay thủ trưởng vài
cái....
[Đề tài
phác thảo: Không phải
tự nhiên, khi vừa mới giải phóng Trần Bạch Đằng đã lên lớp cái thái độ
an phận
thủ thường, chỉ muốn làm một anh phó thường dân của nhà văn miền nam.
Là một
nhà văn CS, ông hiểu rấr rõ, mấy thằng nhà văn miền nam khác hẳn ông,
về bản
chất: Không làm sao nhét, cái gọi là ý thức giai cấp, nhất là thứ ý
thức giai
cấp vô sản, vào đầu một nhà văn ngụy.
Mô
phỏng câu: Không dễ làm
một người CS, càng không dễ làm nhà văn CS:
Không
dễ, cái việc cải tạo
một tên ngụy, lại càng không dễ cái việc cải tạo [đúng ra là tẩy não]
một nhà
văn ngụy. Đó cũng là lý do Thanh Tâm Tuyền "mừng rỡ" không còn
"được" viết văn nữa.
Và giải
thích lý do, án học
tập cải tạo là không có thời hạn, là mút mùa lệ thủy....]
Thành
thử cái gọi là cơ sở
văn hóa mà Nguyên Ngọc nói tới đó, cần phải bàn rộng thêm ra].
[Đề tài
phác thảo: Tôi nghĩ,
cái mà miền bắc thiếu nhất, chính là cái mà họ tưởng rằng chủ nghĩa CS
sẽ đem
lại cho họ, trong khi chính cái đó, ở trong họ, nhưng họ lại không thấy.
Đây là
điều mà Marx chỉ trích
tôn giáo [thuốc phiện của quần chúng], và cũng là điều Dos chỉ trích
con người:
không phải mày phải vươn cao bằng Thượng Đế nhưng phải kéo thằng chả
xuống cho
bằng mày!]
NHT
khựng lại, vì cái gọi là
ý thức tự vấn của ông bị khựng lại. NN coi đây là do thiếu cơ sở văn
hóa, nhưng
theo tôi, đây là hiện tượng không sao hòa giải được với... Thiên Tài
Của Nơi
Chốn, hay Thần Đất: Nói rõ hơn: ông không hòa giải được với miền nam,
hoặc miền
nam khác hẳn ông. Trước 1975 đã khác, sau 1975 lại càng khác. Tôi đã
viết điều
này trong bài "Mỗi tường hợp mỗi khác", nhưng chưa rõ, cần phải viết
rộng ra. Gide đã từng chê trong tác phẩm của Malraux không có con nít,
không có
tiếng cười, toàn là người hùng. Tác phẩm của NHT, ngược hẳn với tất cả
những
người cùng thời của ông, không có người hùng. Đúng ra là ông phải nhận
ra cái
yếu tố tuyệt vời đó, để mà nhập vào một miền đất từ khi khởi thủy của
nó, đã
không đề cao người hùng ý thức hệ, mà chỉ có những anh chị dám chết cho
một
nghĩa khí, cho một tình bạn. Đây là yếu tố giải thích tại sao truyện
Tầu rất
hợp với miền nam. Ở một nhà văn bình dân của miền đất này, Hồ Biểu
Chánh,
truyện của ông đầy nhân nghĩa, chứ không đầy ý thức hệ.
Đây
cũng là điều mà Đặng Tiến
nhìn ra, ở Trịnh Công Sơn, khi ông cho rằng họ Trịnh là sản phẩm của
miền nam.
Miền Nam
chứ không phải Việt Nam Cộng Hòa, như Đặng Tiến viết. Muốn chứng minh,
cứ tưởng
tượng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ miền bắc, là thấy ngay cái sự bất
khả của
nó! Võ Phiến, bằng trực giác của một nhà văn, có thể đã nhìn ra điều
này, khi
ông tưởng tượng cái 'hoạt cảnh' "cười bò ra được, cười hô hố..." về
những nhà văn miền nam được thả ra miền bắc như những 'biệt kích văn
hoá',
tương tự như những nhà văn miền bắc, thoắt ở trong nam làm nhà văn giải
phóng,
với một bút hiệu mới toanh, thoắt lại trở lại miền bắc với tên thật
hoặc bút
hiệu đã từng được biết tới.... [Xin xem Văn Học Tổng Quan của tác giả].
[1]
[Liệu
có thể giải thích hiện
tượng NHT bằng những nhận định của Walter Benjamin, trong Những Luận Đề:
Bằng
một biện chứng tinh tế
về ký ức và về điều đã nhìn thấy [le "déjà vu"], Benjamin tìm thấy
trong đứa trẻ, là mình ngày nào, không phải một quá khứ xong xuôi, một
thời đã
mất (un "temps perdu"), nhưng mà là một hứa hẹn mà cuộc đời không giữ
được, một tương lai chưa được thực hiện. Đứa trẻ nghĩ rằng, nó thoáng
nhìn thấy
những sự vật mà nó nhặt nhạnh, ở trong những từ mà nó đã làm biến dạng,
trong
những hành động mà nó khám phá ra, là một thai đố, một bí ẩn mà người
lớn đã bỏ
đó vì không tìm ra lời giải, một hy vọng về hạnh phúc mà người lớn hài
lòng
bằng cách quên đi. Quá khứ với Benjamin là tương lai yểu tử. Và trong
Những
Luận Đề về triết học của lịch sử, Benjamin đã đưa ra một công thức có
thể coi
như là nhiệm vụ của cái mà ông gọi là "duy vật lịch sử": Nó [duy vật
lịch sử] phải tìm thấy cái quá khứ chẳng hề hết thống khổ, những ước
vọng đã bị
quên di, những hy vọng về hạnh phúc bị thất vọng của những kẻ thua
thiệt, bị
đánh bại, của lịch sử..."].
[Cái mà
NHT diễn tả, chính là
cái tương lai_yểu tử của một miền đất, mà để cho nó sống lại được, nó
phải tìm
lại được, cứ gọi đại bằng cái tên, "duy vật lịch sử", của những người
CS Đệ Tứ của một miền nam, thí dụ như của những Hồ Hữu Tường, hoặc cái
đau khổ
nhục nhã của một miền đất bị thất trận....]
[Par
une dialectique subtile
de la mémoire et du « déjà-vu » Benjamin retrouve dans I 'enfant qu' il
a été,
non pas un passé révolu qui serait un « temps perdu », mais une
promesse que la
vie n 'a pas tenue, un avenir qui n 'a pas été réalisé. L' enfant
croyait
entrevoir dans les choses qu'il collectionnait, dans les mots qu'il
déformait,
dans les activités qu'il découvrait, une énigme que I'adulte a laissée
sans
solution, un espoir de bonheur que l'adulte s'est contente d'oublier.
Le passé
pour Benjamin est un avenir mort_né. Or, dans les Thèses sur la
philosophie de
l'histoire, Benjamin formule dans des termes semblables la tache de ce
qu'il
appelle le "matérialisme historique » : celui-ci doit retrouver le
passé
qui reste en souffrance, les aspirations oubliées, les espoirs de
bonheur décus
des vaincus de I'histoire. L'histoire, pour Benjamin, est une seule et
unique
catastrophe qui ne cesse d'amonceler des ruines : ces ruines, ce sont
les
éternels vaincus, les humiliés et les offenses de la faim et de la
misère, les
espérances brisées, les promesses oubliées...].
Jean
LACOSTE,
[Dịch
và giới thiệu Đường Một
Chiều, tác phẩm Walter Benjamin, qua tiếng Pháp, nhà xb Les Lettres
Nouvelles /
Maurice Nadeau, tủ sách 10/18]
*******
[1]
Nhân chuyện "cười
bò, cười hô hố...", và chuyện quá khứ, tuổi trẻ, như tương lai chết
yểu,
xin kể thêm một "bi thoại": trường hợp nhà văn người Pháp Robert
Brasillach, và cuốn [Thời] Tiền Chiến của chúng ta [Notre Avant -
Guerre], mới
được dịch sang tiếng Anh (nhà xb Lampeter: Edwin Mellen, 429 trang, giá
79.95
Anh Kim. Theo bài viết trên TLS số đề ngày 4 tháng Bẩy, 2003.
Vào
ngày 12 tháng Chạp 1941,
nhà văn Pháp Robert Brasillach viết vào trong nhật ký, rằng với ông,
[Thánh]
Joan of Arc tượng trưng cho "Tuổi Trẻ Hoài Hoài". Bốn năm sau đó, ông
bị xử tử vì tội phản quốc và hợp tác với kẻ địch. Cuốn sách kể trên của
ông, đã
từng được xb thời kỳ nước Pháp vừa bị chiếm đóng bởi Nazi, nay được
chuyển qua
một bản tiếng Anh tuyệt vời, do dịch giả Peter Tame, và đây đúng là một
bản bi
ca, một khúc kinh cầu cho cả hai: một sự ngây thơ vô tội đã mất, và một
ngợi ca
tuổi trẻ vĩnh hằng, và cái mùi vị, uống "môi em ngọt nơi con đường Duy
Tân
khung trời Đại học"... [nguyên văn:... a celebration of eternal youth,
redolent of 'the honeyed taste of the lime-trees wafting across Paris"]... Giống
nnhư một nhà thơ Lãng Mạn, ông sinh ra là để chết trẻ, tuy nhiên, không
phải
bịnh lao đã giết ông, mà là một viên đạn.
*********
TCS:
Theo tôi nhạc TCS có tới
hai "đỉnh cao" của nó; đỉnh cao thứ nhất, nó tiên đoán cái không khi
Mậu Thân, khi bắt đầu bằng những câu hát cho thấy sự bình an của hang ổ
Mỹ Ngụy
chỉ là giả tạo: Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe. Đỉnh cao thứ
hai của
nó: Người chết hai lần Một lần cho cuộc chiến, một lần cho biển cả.
It
sings simply, terribly, at
the limits of the possible.
Roland
Barthes: The Romantic
Son[g].
Here we
must recall that the
classification of human voices... is never innocent.
Roland
Barthes The Romantic
Son[g].
Hãy thử
tưởng tượng tiếng
nhạc TCS cất lên ở miền bắc? Cái Ác Sẽ Dịu Đi? Cuộc chiến sẽ thay đổi,
phần
nào?
Cái Ác
Sẽ Dịu Đi?: Đây chỉ là
một câu hỏi gọi ý của người viết, sau khi đọc vài viết của Nguyễn Văn
Thọ, một
bộ đội, tình cờ nghe nhạc TCS trên đài phát thanh ngụy Sài Gòn, và bài
TCS, tại
sao của Lê Minh Hà.
Liệu có
thể giải thích vụ cải
tạo mút mùa, là do tâm lý Cá Mè Một Lứa đưa tới sự ghen tức: Tại sao
chúng mày
[miền nam] dám... "sung sướng" hơn... chúng ông?
Jennifer
Tran giới thiệu
2.
Phỏng vấn Ilya Prigorine
Trong
bài Đối Thoại của Lê
Đạt, mới đăng trên Talawas, có nhắc tới Prigorin. Như một món quà đáp
ứng, xin
có thêm một chút tư liệu về ông này.
Prigorine
được Guy Sorman coi
là một trong "Những tư tưởng gia thứ thiệt của thời đại chúng ta",
Les vrais penseurs de notre temps, [nhà xb Fayard, tủ sách Bỏ Túi]. Đây
là nhan
đề cuốn sách gồm những bài phỏng vấn của ông.
Sorman
kể lại, khi còn là
sinh viên ở Paris,
đã từng chiêm ngưỡng cặp tình nhân và cũng là cặp bài trùng tư tưởng,
hai đỉnh
cao của triết học hiện sinh, là Sartre và Simone de Beauvoir. Chiêm
ngưỡng chỉ
là chiêm ngưỡng mà thôi, ông thú nhận, và ân hận, vì đã không dám giáp
mặt để
làm một cuộc phỏng vấn. Thành thử với ông, 'Những tư tưởng gia..' là
một trong
những giấc mơ thời niên thiếu đã được thực hiện. Một thứ thư viện sống,
như
trong bài tựa của cuốn sách của tác giả cho biết.
Ông
cũng giải thích, theo
ông, thế nào là một tư tưởng gia thứ thiệt.
Theo
ông đây là người mà một
khi người đó xuất hiện, người ta không thể suy nghĩ như là trước nữa,
trong cái
ngành nghề riêng biệt của tư tưởng gia đó.
Ông lấy
thí dụ: Lévi-Strauss.
Sau khi ông này xuất hiện, người ta không thể nào suy nghĩ về môn nhân
học
(anthropologie) như trước nữa. Hay là Noam Chomky, với môn ngôn ngữ
học. Đây là
những nhà tư tưởng "cắt đứt truyền thống" [les hommes de ruptures:
những con người của sự đứt đoạn], để lên đường, nhưng lên đường và đi
tới nơi
tới chốn hay không là còn tùy. Bởi vì chưa chắc mấy ông nội này tất cả
đều có
lý, khi cắt đứt [truyền thống], nhưng rõ ràng là tư tưởng của họ mang
tính cách
mạng. Những con người của cắt đứt này còn là những con người dám vượt
bờ ngăn.
Đa số họ là "những nhà xây cất hệ thống" [les constructeurs de
système], chữ này, Sorman cho biết, ông mượn của sử gia người Anh,
Isaiah Berlin.
So với thế kỷ
trước, chúng ta nghèo hơn, về mấy ông xây dựng ý thức hệ, nhưng lại
khấm khá
hơn, nếu nói về những nhà xây dựng những hệ thống khoa học.
"Một
nghệ sĩ thứ thiệt
là kẻ đối thoại với tác phẩm của mình, kẻ bịp bợm, lo mơn trớn đám
đông",
câu nói của nhà sử học về nghệ thuật Ernst Gombrich cũng là một châm
ngôn mà
Sorman dựa vào đó lọc ra những nhà tư tuởng thứ thiệt, bởi vì ông tin
rằng, câu
nói trên đúng, với bất cứ một ngành ngề, một môn khoa học nào. Thành
thử, trong
những người mà ông phỏng vấn, có người được biết đến, hoặc không, nhưng
không
hề có những con người nổi tiếng (célèbres).
Ông thú
nhận, trong khi mời
chào những khách hàng để đưa vào "bảng phong thần", có ông "nói
thẳng" vào mặt ông, "Tớ đếch có ham!", thí dụ như triết gia Đức
Jurgen Habermas, một trong những trụ cột của trường phái Frankfurt. Bởi
vì tôi
[Sorman] không làm sao hiểu nổi những tác phẩm của ông, và tiếng tăm
của ông
thật là đáng kể, tôi nghĩ, một cuộc nói chuyện với ông sẽ soi sáng cho
tôi
nhiều vấn đề. Nhưng Habermas không bao giờ nói chuyện với những ai
không chia
sẻ những quan điểm chính trị của ông. Một người nữa, là Ivan Illich,
sáng lập
viên thần học về giải phóng [fondateur de la théologie de la
libérarion] của Mỹ
châu La tinh, kẻ thù của tiến bộ, của trường học, và của y học, một nhà
tư
tưởng ngược ngạo (paradoxal), nổi tiếng hai mươi năm trước đây [cuốn
sách của
Sorman xuất bản năm 1989], tôi nghĩ, có thể bây giờ là lúc kéo ông ta
ra khỏi
lãng quên, nhưng ông lắc đầu, "Đừng, đừng!", ông giải thích thêm,
"Những tư tưởng của tôi quá cơ bản để mà phổ biến" [Mes idées sont
trop fondamentales pour être divulguées].
Ilya
Prigorine được Nobel hóa
học năm 1977, vì đã "đem lại sức sống cho khoa học, nhờ những lý thuyết
mầu mỡ nhằm nghiên cứu nhiều vấn đề, từ lưu thông xe cộ, những xã hội
của những
loài côn trùng, tới sự phát triển những tế bào ung thư...", qua lời
khen
tặng của hội đồng Nobel khi trao giải.
Nhà bác
học Bỉ sinh tại Moscow
năm 1917. Gia đình
ông di sang Berlin
vào năm 1922. Biến cố Nazi khiến họ phải chạy qua Buxelles. Mê đủ thứ,
âm nhạc,
văn chương, triết, thế rồi, bị "chấn động" [frappé] bởi quan niệm về
thời gian của triết gia Pháp Bergson, ông quay qua khoa học. Ngay từ
năm 1939,
nghiên cứu của ông xoáy vào định luật thứ hai của môn thermodynamique
[nhiệt-động lực học], theo đó, sự mất trật tự [le désordre] tăng lên
trong một
hệ thống khép kín, với bất cứ loại năng lượng nào, cho tới lúc năng
lượng biến
mất... Từ định luật này, có thể suy ra rằng, vũ trụ có khuynh hướng
tiến tới
một sự cân bằng "thê thảm" [mortel: chết người], khi mà tất cả năng
lượng bị nướng hết [gaspillé: phí phạm]. Đây là [hiện tượng] "mũi tên
của
thời gian" [la flèche du temps]. Prigorine nghiên cứu những điều kiện
thật
cách xa cân bằng nói trên, và vào năm 1946, đã có ý nghĩ, rằng, những
hiệu quả
của thời gian có thể đẻ ra những cơ cấu mới.
Năm
1954, ông cho xuất bản
cuốn Dẫn nhập vào môn nhiệt động lực học của những tiến trình không thể
nghịch
đảo [des processus irréversibles]. Những cân bằng nhiệt động lực mà ông
gọi là
"mù" [aveugle] thì thật hiếm trong vũ trụ. Và những hệ thống mất cân
bằng,
thí dụ như những thành phố, hay là những tế bào, có thể sống sót trong
những
môi trường kém tổ chức [moins organisé]. Prigorine chứng minh, trong
những điều
kiện cách xa [éloigné] của diểm cân bằng, những biến động
[fluctuations] có thể
tự ổn định. Những cơ cấu mà ông coi là vung vãi, hoang phí [srtuctures
dissipatives], chẳng hạn như Cuộc Sống, đích thị nó, là một thí dụ, có
thể kéo
dài, bằng cách chôm chĩa năng lượng cần thiết cho môi trưởng hỗn mang
của nó,
rồi lại hoang phí tiếp ra bên ngoài [... peuvent ainsi durer, captant
l'énergie
nécessaire de leur environnement chaotique, puis la dissipant à nouveau
à
l'extérieur].
Nhóm
nghiên cứu của ông ở
Bruxelles, gồm sáu chục nhà khoa học, từ nhiều môn khác nhau, hiện đang
thử
nghiệm quan niệm về cơ cấu hoang phí trong nhiều bộ môn: xã hội học,
sinh
học....
Những
tác phẩm của ông gồm
có:
Cơ cấu,
sự ổn định và những
biến động, Structure, stabilité et fluctuations, nhà xb Masson, 1971.
Vật lý,
thời gian và sự trở
thành, Physique, temps et devenir, Masson, 1982.
Liên
Minh Mới: Hóa thân của
Khoa học, La Nouvelle Alliance: Métamorphose de la Science (cùng với
Isabelle
Stengers), Gallimard, 1986.
Giữa
Thời Gian và Thiên Thu
(với Isabelle Stengers), Fayard, 1988.
Trật tự
hay Hỗn mang:
Prigorine vs René Thom
Quan
niệm của chúng ta về thế
giới bị ảnh hưởng bởi khoa học vật lý. Một khi chúng ta cho rằng vũ trụ
giống
như một cái đồng hồ tuân theo những qui luật bất biến, như vậy chúng ta
là
những đứa trẻ của Newton
và của môn cơ học của ông. Và chúng ta thật dễ dàng cho rằng những môn
khác như
chính trị, kinh tế... chúng cũng tuân theo những định luật bất biến.
Một cái
nhìn mang tính cơ học
như thế về vũ trụ là không có tính khoa học, theo Ilya Prigorine. Đây
chỉ những
lý thuyết nẩy sinh từ thế kỷ 17 và đã bị vượt qua, và bất hạnh thay,
vẫn được
đem ra giảng dạy tại trường lớp. Phải thay thế nó bằng môn vật lý học
đương
thời, được thành lập trên cơ sở của lý thuyết về xác xuất (la
probabilité).
Điều mà chúng ta tưởng như là một trật tự đã an bài, và bất biến, thật
ra chỉ
là hỗn mang, bất định (indéterminé): Chẳng hề có đồng hồ, người làm ra
đồng hồ,
chẳng hề có thần thánh, trần tục, thế giới là một hỗn mang, không thể
tiên
đoán, mang tính đột xuất. Như mọi môn khoa học nhân văn, những môn vật
lý học,
chúng chỉ là tổng số những ngẫu nhiên, bất ngờ!
Đâu
phải như vậy, nhà toán
học người Pháp René Thom đáp lại. Hỗn mang ngự trị khoa học hiện đại
chỉ là tạm
thời. Đừng bao giờ từ bỏ việc tìm kiếm những định luật bất biến của vũ
trụ. Thế
giới có trật tự, thông minh, theo nghĩa có thể hiểu được nó. Thảm họa
của khoa
học hiện đại là do nó từ bỏ việc tìm hiểu vụ trụ, thế giới, khoa học
hiện đại
chỉ là một nghĩa địa của những sự kiện, một sự tích tụ những thông tin
trên
những máy tính, chẳng có một lý thuyết dẫn giải chúng. Khoa học hết suy
tư,
chính vì thế mà nó đang bị trục trặc, Thom kết luận.
Có một
điều giống nhau, là cả
hai đều tỏ ra thù nghịch với tính tản mạn của tri thức, và đều tin
rằng, khoa
học nhân văn và khoa học chính xác bị kết án phải giầu sang lên mãi
mãi, nếu
không muốn cùng theo nhau chìm xuồng.
Theo
Ilya Prigorin, chúng ta
đừng tin rằng những lý thuyết khoa học là những định luật được giấu
diếm đâu
đó, để chờ những nhà tìm kiếm tình cờ khám phá ra được. Vẫn theo ông,
sáng tạo
khoa học thì cũng hiện hữu y chang (au même titre) sáng tạo nghệ thuật.
Lovelock có lý, khi cho rằng những nhà bác học, vật lý, hóa học, họ là
những
tác giả, đúng như ý nghĩa của từ này, khi dùng để chỉ những nhà văn.
Được
thế giới biết đến qua
những nghiên cứu về những cơ cấu không-cân bằng (structures
non-équilibres),
đồng tác giả với Isabelle Stengers, cuốn sách gây chấn động vì tính
ngược ngạo
của nó, Liên Minh Mới, Ilya Prigorine gốc Bỉ, di dân từ Nga, năm 1921,
khi mới
4 tuổi. Học Bruxelles. Những gốc rễ như vậy, cùng cái tên của ông,
khiến cho
báo chí, vào lúc ông được Nobel hóa học vào năm 1977, đã coi ông là dân
Nga.
Cực kỳ thông minh, nhìn biết liền, đúng như cảm tưởng của tôi [Sorman],
về
"tư tưởng gia thứ thiệt", khác biệt hẳn với thứ dởm, ở cái vẻ khiêm
tốn và giản dị của họ.
Khám
phá lớn lao, là để dành
cho thiên tài.
[Il n'
y a pas de grandes
découvertes sans un auteur de génie]
Đúng là
trong những thời kỳ
bình thường, nhất là với những môn học đã đạt tới sự trưởng thành, bước
tiến
của khoa học gần như "vô ngã" (impersonnelle), mang tính năng nhặt
chặt bị [cumulatif: tích lũy], và thêm nhà nghiên cứu này, hay bớt đi
nhà
nghiên cứu nọ, chẳng làm thay đổi thành quả. Nhưng với những khám phá
mang tính
cách mạng, luôn xuất hiện thiên tài, không chỉ một, mà là "quần hùng tụ
hội", "Hoa Sơn luận kiếm" ["constellations de génie"]:
Đây là trường hợp xẩy ra ở đầu thế kỷ 17, thiên tài xuất hiện như "lá
mùa
thu": Copernic, Kepler, Galilée. Gần đây thôi, là Einstein, Broglie,
Heisenberg và Schrodinger. Thiếu Einstein, làm sao chúng ta có lý
thuyết tương
đối? Bộ dễ kiếm ra một Einstein thứ nhì? Từ đó suy ra: Tiến bộ khoa học
không
thể nào là thành quả của một định mệnh thuyết mang tính lịch sử. Cứ giả
sử nhân
loại một ngày đẹp trời nào đó, tiến tới chủ nghĩa CS, theo nghĩa, không
còn
người bóc lột người, do quá thừa mứa cái ăn cái mặc cái chơi, như vậy
cũng
không thể có cái chuyện ai cũng như ai, rằng, anh "mê gái" cũng nhiều
như... tui được! Những lý thuyết vốn chỉ là những giả thuyết tạm thời,
những
công thức, kết luận mang tính cá nhân, qua thử thách của thời gian,
những lý
thuyết thí dụ như của Copernic, Newton, hay Einstein, ngày càng trở nên
"xác định" [définitives] hơn. Chân lý khoa học, như vậy, không mang
tính toàn thể. Thí dụ như môn cơ học cổ điển. Nó vẫn còn có giá trị vào
thời
buổi bây giờ, nhưng chỉ trong miền (domaine) của những vật thể nặng nề
(objets
lourds), thí dụ như là những hành tinh! Ngược lại, khi phải diễn tả sự
tiến hóa
của những vật thể "nhẹ" của thế giới tiềm-nguyên tử (subatomique), Newton chịu
thua! Phải
đưa vào đó môn cơ học lượng tử, một sáng tạo của thế kỷ 20. Khoa học là
một
chuỗi những giả dụ có thể bị phản bác, và giả dụ như có một giả dụ vượt
lên
khỏi mọi phản bác, một "chân lý" như vậy sẽ thuộc vào miền của ma
thuật, huyền thuật, chứ không phải của khoa học.
Khoa
học đẻ ra từ Tây phương.
[La
Science ne pouvait naitre
qu' en Occident]
Nếu
chúng ta chấp nhận, cùng
với Prigorine, rằng, bác học là những người đối thoại với Thiên nhiên,
như vậy
tại sao, có những thời kỳ, những nền văn minh, thiên tài xuất hiện khá
xôm tụ,
cùng với họ, là những khám phá lớn lao, so với những thời kỳ khác,
những nền
văn minh khác? Tại sao, nền khoa học được thành lập bởi Descartes và
Galilée,
xuất hiện ở Tây phương mà không ở nơi khác? Câu trả lời, theo
Prigorine, không
nằm ở sự thông minh của những dân tộc hay những cá nhân, mà chỉ kiếm
thấy ở
trong những hoàn cảnh lịch sử hay văn hóa.
Khoa
học xuất hiện cùng với
[en fonction de] ý nghĩ, tư tưởng con người về vũ trụ. Nếu một dân tộc
tin rằng
có một đấng Sáng Tạo là cội nguồn của thế giới, và đấng Sáng Tạo đó sẽ
quyết
định tương lai của họ, từ một niềm tin như vậy sẽ là những luật lệ, và
cùng
những luật lệ, là một tương lai được phân định (discernables). Vào thế
kỷ 17
những định luật về Thiên Nhiên qui chiếu về một Nhà Lập Pháp tối
thượng. Phần
việc của những nhà bác học, là giải mãi (décoder) những luật thiêng, và
những
nhà bác học như thế có thiên hướng trở thành những người biết hết hiểu
hết. Sự
xuất hiện của một nền khoa học Tây Phương vào thế kỷ 17 là một hiện
tượng cộng
hưởng [résonance] với thần học của thời kỳ đó.
Đó là
cái mẫu mã khởi đầu của
khoa học Tây Phương được nhập thân bởi hai nhà bác học của họ, là Newton và
Leibnitz. Quan
niệm cổ điển về khoa học như thế, coi Thượng Đế là một đảm bảo cho
những luật
lệ thiêng liêng, vĩnh cửu. Người đại diện cuối cùng của nền khoa học cổ
điển
nói trên, là nhà bác học Einstein, theo Prigorine. Công thức nổi tiếng
của
Einstein, "Thượng Đế không chơi xúc xắc" [Thượng Đế không đổ xí
ngầu], khẳng định một sự thực thiêng liêng về Vũ Trụ và những luật lệ
độc lập
đối với cuộc sống ngẫu nhiên, tùy tiện của con người.
Nhưng
một niềm tin về một
Thượng Đế vạn năng và rất ư là thuần lý (rationnel), như là một điều
kiện cần
thiết cho sự xuất hiện của khoa học, chưa đủ. Cần phải có một ông Trời
mạnh,
theo Prigorine, chống lại một ông vua "yếu", chống lại cái "trò chơi"
(jeu) chính trị, và xã hội từ đó nẩy sinh nỗi âu lo về tinh thần, và
đây là
nguồn cơn đưa đến những cuộc tranh luận thuờng trực ở thời Trung Cổ tại
Âu
Châu, giữa những giáo hoàng và những vua chúa, chính từ đó mà tư tưởng
độc lập
đã nẩy sinh. Một trong những "trò chơi" trí tuệ đáng kể đã xẩy ra vào
thế kỷ 19 tại Vienne, nhờ nó mà những cấu tạo lý thuyết tuyệt vời nhất
của thời
đại chúng ta đã nảy nở, phát triển, nhất là môn cơ học lượng tử và
thuyết tương
đối.
Một bên
là sơ đồ Âu Châu như
trên, một bên là Trung Hoa: Tại sao khoa học hiện đại không nẩy sinh từ
Trung
Hoa? Theo Prigorine, câu trả lời vẫn là về một trật tự văn hóa. Quyền
lực vua
chúa trấn áp, triệt tiêu mọi tư tưởng đổi mới, một khi nó ló mòi làm
loạn,
nghĩa là làm xáo trộn trật tự xã hội. Ngoài ra còn là vấn đề này: những
quan
niệm thần học của Trung Hoa phù hợp với một viễn ảnh toàn cầu, toàn
tiến
(holiste), của Vũ Trụ. Một quan niệm như thế sẽ tỏ ra thờ ơ trước một
nghiên
cứu những định luật cơ học. Ngược hẳn với Âu Châu, Trung Hoa mạnh về
khả năng,
quyền năng (pouvoir fort), nhưng yếu về thiên tính (divinité faible),
chính vì
vậy mà họ đã có những khám phá cơ bản thí dụ như la bàn, thuốc nổ, bánh
lái
(gouvernail), nhưng chúng không được đưa vào thực hành, thành thử không
gây
những đột phá quan trọng thay đổi hẳn bộ mặt xã hội.
"Bạn
thấy đấy,"
Prigorine bảo tôi, "Những nhà bác học không phải là những con người
không
chút dây mơ rễ má (déincarné), mà là một phần tử của bộ lạc mà người đó
sống.
Văn hóa môi trường hướng dẫn những nghiên cứu tìm tòi của nhà bác học,
giống
như mùi vị của tiền bạc và quyền lực." Những mũi nhọn chĩa vào môn sinh
học, thí dụ vậy, là hậu quả của nỗi lo sợ về bệnh ung thư, hay nhắm vào
môn vũ
trụ học, là do nỗi lo âu, hoặc nghi ngờ, có hay không, một đấng Sáng
Tạo. Đây
là môi trường lịch sử và văn hóa nẩy sinh nền khoa học cổ điển của
chúng ta,
nhưng một hình ảnh như vậy về khoa học đã trở nên lổi thời, không chỉ
lỗi thời,
mà còn sai lạc (fausse).
Vũ Trụ
không còn là đồng hồ,
mà là hỗn mang.
Trong
kiểu mẫu cổ điển của
khoa học vẫn tiếp tục được giảng dậy ở lớp học, những định luật của Vũ
Trụ thì
đơn giản, đối xứng, tất định, và không thể đảo ngược được, và cái đồng
hồ có
thể coi như một biểu tượng của nó, với sự chuyển động bất biến, và có
thể thấy
trước được. Trong cái bản vẽ (schéma) như thế đó, vật chất tuân theo
những định
luật, nhưng con người, ngược lại, thì tự do. Đây là thế luỡng nguyên
(position
dualiste) của Descates, và nó đã đánh dấu, chỉ danh triết học Tây
Phương, là
như thế đó. Từ đó đẻ ra sự phân chia văn hóa của chúng ta [Tây Phương],
giữa,
một bên là khoa học nhân văn [thí dụ như lịch sử, hay tâm lý học], và
một bên
là những môn khoa học chính xác. Với môn nhân văn, thời gian và biến cố
giữ một
vai trò thiết yếu. Với khoa học chính xác, những định luật của chúng
thì vô
thời [intemporelles].
Vào
những năm đầu của thập
niên 1920, thế giới khoa học xẩy ra một cuộc cách mạng bản vẽ trên, với
sự xuất
hiện của môn cơ học lượng tử. Người ta hiểu ra rằng, ở mức độ của những
điện
tử, khoa vật lý cổ điển chẳng có một chút giá trị, và chúng ta bước vào
một thế
giới khác, thế giới của những điều bất trắc, không thể tính trước được.
Rằng
cái cấu trúc của vật chất không còn có thể định nghĩa bằng những định
luật xác
định, mà bằng những kiểu mẫu của xác xuất (modèles de probabilité).
Thoạt đầu,
những nhà bác học giải thích, những biến động (perturbations) ở trong
Vũ Trụ là
do sự đo đạc của con người mà ra. Người ta tin rằng, quan sát viên, tức
con
người, gây ra sự bất ổn định. Nhưng tới cuối thế kỷ 20, Prigorin khẳng
định,
chúng ta biết rằng vật chất thì không bền (instable), và Vũ Trụ, mà
chúng ta
nghĩ rằng bất biến, chính nó cũng có một lịch sử. Thế giới vật lý của
chúng ta
không phải là một cái đồng hồ mà là một hỗn mang không thể nào tiên
đoán trước
được. Tất cả những lý thuyết theo kiểu xâu chuỗi bắt buộc, nguyên nhân
như thế
thì đưa đến hậu quả như thế này, chúng lần lượt được thay thế bằng
những bài
tính về xác xuất. Lẽ dĩ nhiên, người ta luôn luôn có thể biết trước, từ
những
bản vẽ cổ điển theo kiểu Newton, vị trí của trái đất ở một thời điểm 5
ngàn năm
sau, nhưng Prigorin nhấn mạnh, những chuyển động tuần hoàn, ổn định như
thế đó,
là ngoại lệ: phần lớn những hệ thống động lực thực sự luôn ở trong
trạng thái
không ổn định. Một thí dụ thật đơn giản, những cũng thật ấn tượng mà
Prigorin
đưa ra, là [môn] khí tượng (météo).
"Hiệu
ứng bướm"
khiến con người khó tiên đoán về Trái Đất.
Làm sao
con người có thể tiên
đoán, suốt cả một thế kỷ, đường đi nước bước [le passage] của một ngôi
sao
chổi, vậy mà không làm sao tiên đoán, thời tiết ngày này tuần sau, sẽ
ra sao?
Môn khí tượng, theo Prigorin, chỉ tiên đoán [giả thuyết] khí hậu thời
tiết
không quá con số 4 ngày. "Dư luận" cho rằng, nếu trang bị cho những
nhà khí tượng những máy móc tân kỳ, hiện đại hơn, họ có thể tăng con số
4 nói
trên thành 8, hoặc 30, tức là một tháng. Sai! Prigorin trả lời. Thời
gian là
không thể tiên đoán, theo như định nghĩa về nó. Nó là kết quả của một
tổng số
những bất trắc: Đây là một hệ thống động lực không ổn định. Nói như
vậy, có
nghĩa, rằng một sự thay đổi nhỏ bé (moindre variation) ở một nơi chốn
nào đó,
có thể gây ra [entrainer] những hiệu quả đáng kể. Người ta gọi đây là
"hiệu ứng bướm": một tiếng đập cánh của một con bướm tại Bắc Kinh có
thể gây ra một luồng hơi nhẹ (un souffre léger), và cái làn hơi nhẹ nhè
nhẹ
này, cứ thế cứ thế [de proche en proche] đẻ ra [donnera naissance] một
trận
bão, ở California.
Một thí
dụ cơ bản nữa, về hệ
thống của Prigorin, là: đồng tiền. Khi chúng ta chơi trò sấp hay ngửa,
bằng
thống kê học, người ta tính đuợc, tới một lúc nào đó, đồng tiền
"thích" phô ra, chỉ một mặt, hoặc hay sấp, hoặc hay ngửa [hình như
mấy ông hay chơi sóc dĩa quá rành chuyện này, mà họ gọi là hiện tượng
"rền", nếu tôi không lầm?] Hãy tưởng tuợng chúng ta có trong tay một
cái máy điện toán, và tính được tất cả những giai đoạn, rền sấp hoặc
rền ngửa
đó, như vậy chắc chắn chúng ta sẽ tiên đoán được, bỏ qua trường hợp
tiền múa
chúa cười của Trạng Quỳnh (?) khi đánh bạc với bà Chúa Liễu (?), chuyến
này, là
chẵn hay là lẻ. Hoàn toàn sai!, Prigorin trả lời. Không làm sao tính
nổi, bởi
vì đồng tiền bắt buộc sẽ trải qua những vùng bất trắc, những bước ngoặt
[của
lịch sử], những "bifurcations" [chỗ rẽ]. Trong một hệ thống động lực
không bền, một điều kiện tiên khởi [condition initiale], đưa tới một
kết quả "sấp",
thì cũng thật là gần gụi với một điều kiện tiên khởi đưa tới một kết
quả
"ngửa".
Từ
những"giai
thoại" như thế đó - Progorin tránh không đưa ra những giai thoại quá
rắc
rối, cho thấy: một cái nhìn mang tính định mệnh [một định mệnh thuyết
về cuộc
đời], kể như hoàn toàn sụp đổ. Nói ngắn gọn, cái gọi là ngẫu nhiên,
tình cờ
tham gia hết mình vào trong thực tại vật lý. Vật chất, y chang Cuộc
Đời, có
tính đột nhiên, bất thuờng, đỏng đảnh, như là một biến cố [Làm sao anh
biết,
lần đó về HN, là gặp Em, thí dụ vậy?]. Ngược hẳn với niềm tin của
Einstein,
Prigorine cho r?ng, Thượng Đế chơi xí ngầu, và chơi rất cừ, [nếu không
làm sao
có chuyện Anh gặp Em, ở quán gì gần bờ hồ, nhỉ.....]
Jennifer
Tran
3. Kẻ
Mơ Ngày
[Phỏng
vấn nhà văn Nhật Bản
Huraki Murakami]
Lời
giới thiệu:
Trong
"Chuyện Nghề"
(The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề
văn, nghề thơ, là một
nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi
điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa
"bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần
sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình
yêu, anh
ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo
một nghĩa nào đó, nhà
văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta
bắt đầu
viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà
văn trở
thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một
cuộc
sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại
khác -
thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".
Một
cuộc sống kép, sống hết
mình trong thực tại này, và cùng lúc, trong một thực tại khác... Một kẻ
mơ
ngày.... Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng, viết, là
một cách
mơ mộng, nhưng mà trong tình trạng tỉnh thức, "écrire, c'est comme
rêver
éveillé"
Sinh
tại Kobé năm 1949,
Murakami học về bi kịch Hy Lạp tại Đại học Wasada trước khi làm công
việc trông
coi một quán nhạc jazz tại Tokyo từ 1974 tới 1981. Cuốn tiểu thuyết đầu
tay của
ông Hãy Nghe Gió Hát được giải thưởng Gunzo. Cuốn sách kéo theo Tam
Khúc Chuột
(La trilogie du rat), cuốn chót, La Course au mouton sauvage [Rượt theo
cừu
hoang], bản tiếng Pháp do Seuil xuất bản (1990), và sau đó, Tận Thế [La
fin des
temps, 1992), một cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng khác thường đã
đem đến cho
tác giả giải thưởng nổi tiếng Tanizaki. Sau đó, vẫn do nhà xb Seuil, là
cuốn La
Ballade de l'impossible (Khúc dạo của sự bất khả), một thành công lớn
tại quê
hương của ông.....
Tác
phẩm của ông quyến rũ,
tinh tế, không ngừng gây kinh ngạc, sững sờ, dễ nhập vô nhưng cũng thật
khó nắm
bắt.
Tin Văn
đã từng giới thiệu
ông, khi cuốn Ký Sự về Chim Lên Dây Thiều ra mắt giới độc giả Anh ngữ.
Sau đây
là bài phỏng vấn đặc
biệt do Tran Minh Huy thực hiện, cho tờ Văn Học Pháp, Magazine
Littéraire, số
tháng Sáu 2003, số đặc biệt về nhà thơ, nhà phê bình, nhà dịch thuật
Pháp, Yves
Bonnefoy. Tin Văn sẽ có bài về ông.
[Tên
những tác phẩm của
Murakami, là theo bản dịch tiếng Pháp]
"Vâng,
cái đó có sự
quyến rũ, đọc nó thích lắm đấy", Fitzgerald nói về những gì ông viết.
Người
ta có thể nói cùng một điều như vậy, về những tác phẩm của người đã
từng dịch
Êm Đềm Như Đêm [Tender is the Night, Tendre est la nuit], và Tan Vỡ
[The
Crack-Up, La Fêlure] của ông, qua tiếng Nhật.
Đó là
Haruki Murakami.
Một âm
nhạc đặc biệt, một cái
đẹp khó định nghĩa, một quyến rũ luôn cưỡng lại mọi nghiên cứu, tìm
hiểu, những
cuốn sách Murakami thấm đậm những chất như vậy. Ông là một nhà văn
"thần
tượng" không dễ xếp loại, một pháo đài không dễ xâm nhập. Ít khi chịu
phỏng vấn, tuy nhiên, ông đã bằng lòng làm một cuộc phỏng vấn đặc biệt,
với tạp
chí Văn Học Pháp. Trong khi nói chuyện, ông thú thực, không khoái trò
phỏng vấn
(cái thứ bài tập này, ce genre d'exercice), chẳng "tin" (foi) phê
bình, chẳng "cậy" (confiance) độc giả. Diễn tả chính xác những gì
mình nghĩ, bằng một thứ tiếng Anh thật chuẩn, bởi vì, ngoài Fitzgerald,
ông còn
dịch Raymond Chandler [một tác giả những truyện trinh thám nổi tiếng
người Mỹ],
John Irving và Raymond Carver, tại quê hương của ông. Một người mê tiểu
thuyết
viết bằng tiếng Anh, ông là một trong những người tiên phong du nhập
văn hóa
pop vào văn chương Nhật, ngược lại truyền thống, vốn chuộng một cái đẹp
mang
tính qui ước.
Viết
tiểu thuyết, truyện
ngắn, đã từ lâu, ông là một ngôi sao rock văn học tại xứ sở của ông.
Cuốn tiểu
thuyết Bài Hát Của Sự Bất Khả (Ballade de l'Impossible) đã bán ra hai
triệu ấn
bản. Đây là một thứ ký sự mang tính hoài nhớ về cuộc đời của sáu sinh
viên Nhật
thập niên 60-70. Không chỉ nổi tiếng ở Nhật, những đại học danh tiếng
của Mỹ
như Harvard, Princeton đã từng mời
ông ghé
thăm. Ở Nga xô, ông được so sánh với.... Dostoevsky. Một bậc thầy, của
những
tình thế nhạy cảm, một thi sĩ, ca nhân, của những tình huống bất khả
(Phía nam
biên giới, phía tây mặt trời, Au sud de la frontière, à l'ouest du
soleil,
Những người tình của Spoutnik, Les Amants du Spoutnik, Bài ca của sự
bất khả,
La Ballade de l'Impossible) một người viết ngụ ngôn hoang đường, kỳ
quái (Tận
thế, La Fin des temps), và những truyện giả-trinh thám, lồng vào trong
đó một
sự tìm kiếm mang tính khai phá (Rượt theo cừu hoang, La Course au
mouton
sauvage, Ký sự về chim lên dây thiều, Chronique de l'oiseau à ressort).
Đã từng
chọn Hoa Kỳ để sống thay vì Nhật bản, cuộc động đất tại Kobé và vụ tấn
công
bằng hơi độc sarin của giáo phái Aum tại đường xe điện ngầm tại Tokyo
khiến ông
trở lại quê hương, viết "Sau cuộc động đất" và Dưới Hầm
(Underground), những suy tư khi phải đối diện với điều mà ông gọi là
"căn
phần" của lịch sử Nhật Bản, và có thể của mọi lịch sử: bạo lực.
Từ tám
năm nay, ông chọn Tokyo
làm nơi sống. Có vẻ
như ông tìm lại được sự bình an, sau lưu vong.
-Những
cuốn tiểu thuyết của
ông có rất nhiều những điển cố văn hóa pop Tây phương: những dấu vết,
ký hiệu,
nhạc Beatles, phim ảnh Hollywood,
nhạc Jazz... Liệu có thể coi đây là "cắt đứt truyền thống để lên
đường", giã biệt những cổ thụ của văn chương truyền thống Nhật, thí dụ,
Mishima, Kawabata, Tanizaki?
Khi còn
trẻ, tôi nghe nhạc
Beatles, les Doors, và đọc những cuốn sách Mỹ, những cuốn "mysteries"
[một loại trinh thám của những tác giả thí dụ như Ellery Queen], khoa
học giả
tưởng, coi Laura của Otto Preminger... Tôi tắm đẫm trong âm nhạc, tiểu
thuyết,
phim ảnh và thứ văn hóa pop đó. Tôi có ý muốn đọc những cuốn sách viết
về những
gì mà tôi đã từng yêu và tiếp tục yêu cho đến bây giờ. Đây là một phần
thiết
yếu trong thế giới của tôi, và tôi muốn viết về điều này. Theo kiểu
hoài niệm,
tưởng nhớ. Tôi thật khác biệt với Mishima hay Kawabata, về rất nhiều bộ
môn.
Đặc biệt là về văn phong, nhưng không chỉ có thế. Văn xuôi của họ gắn
bó với một
cái đẹp mang tính hình thức, nó có vẻ mơ mơ hồ hồ (ambigu), rất ư kiểu
cách,
tràn trề cảm xúc, trong khi cá nhân tôi, chỉ muốn viết tự nhiên, giản
dị. Uyển
chuyển, nhẹ nhõm, và trần trụi. Tôi tiếp tục làm việc theo kiểu này. Đó
là điều
làm tôi tách hẳn ra khỏi những nhà văn Nhật Bản có tính truyền thống.
"Dù
có rũ bụi, tôi cũng chẳng dám làm quen," có thể nói như vậy, bởi vì tôi
chẳng nợ nần gì, "cho dù chỉ một giọt mực" của truyền thống Nhật.
-Có thể
ông không nợ họ,
nhưng lại nợ những tác giả khác, như Fitztgerald, Carver, Raymond
Chandler,
John Irving, mà ông đã dịch qua tiếng Nhật?
Lẽ tất
nhiên. Hẳn nhiên là
như vậy. Chính những bản văn mà tôi dịch đó, đã hướng dẫn tôi, là những
người
thầy, người chỉ bảo tôi. Cái hành động dịch thuật đó, nó ảnh hưởng đậm
đà và
thật là tuyệt vời vào cái hành động viết, một cách nào đó, nó là một:
Khi tôi
viết một cuốn tiểu thuyết hay một truyện ngắn, tôi có nguyên bản, nằm ở
trong
tôi, và tôi tìm cách dịch nó ra thành ngôn ngữ, thành văn xuôi, nghĩa
là thành
một cái gì mà người khác, kể cả tôi, đọc được. Tiếng Nhật hoàn toàn
khác hẳn
tiếng Tây Phương như Pháp, Anh, hay Đức. Khi dịch ra tiếng Nhật, người
ta phải
tái tạo (reconstruire), có thể nói, kể từ con số không, về ý nghĩa cũng
như câu
kệ của bản văn ngoại đó. Một sự tạo thành như thế đó, là hoàn toàn
riêng hẳn
ra, nếu phải so với nguyên bản. Dịch thuật do đó giữ, và tiếp tục giữ
một chỗ
rất quan trọng, rất cơ bản, trong cách viết và suy nghĩ của tôi.
-Gì thì
gì, những điển cố văn
hóa pop như vậy làm cho tác phẩm của ông dễ tới với công chúng thế giới?
Tôi
không nghĩ, mình là thứ
tác giả được năm châu bốn bể tìm đọc. Được mọi người nói tới một tí ti
thôi, dù
chưa đọc sách của mình, vậy cũng thú vị lắm rồi. Phần khác, cứ kể như
là thuộc
về huyền thoại rất đẹp của Đông Phương, về điều mà chúng tôi nói, mắt
xanh nào
có mấy người, đâu là tri âm tri kỷ. Tôi lấy thí dụ, khi tôi viết rằng,
nhân vật
trong cuốn tiểu thuyết của tôi nghe Radiohead hay Prince, bạn và tôi
biết ngay,
tụi mình đang nói gì, và thế là có một liên hệ, một tình cảm... giữa
tôi và
bạn. Đây là điều rất quan trọng. Khi tôi cho nhân vật của tôi bước vào
một tiệm
Burger King hay MacDo, bạn có thể tưởng tượng ra cảnh đó. Theo một
nghĩa nào
đó, những dấu vết, những bảng hiệu (logos) như vậy, là một hình thức
biểu tượng
về điều mà chúng ta cùng chia sẻ, những ngày này.
-Nhưng
điều đó cũng đâu có
làm cho nhân vật của ông bớt "hung hăng" chống lại, từ chối hệ thống.
Họ đâu có kính trọng cái thứ luật làm đến ói máu, và cái kiểu sản xuất
hàng hóa
như ngựa phi, vốn được coi là "đạo hạnh" của Nhật Bản?
Thời
gian 1968-69, tôi là một
sinh viên, đó là thời kỳ chống lại văn hóa, và chuộng chủ nghĩa lý
tưởng. Người
ta mê cách mạng, mê lật đổ trật tự đã an bài. Rồi những ngày tháng như
thế đó
cũng phải qua đi. Tôi ra trường với mảnh bằng đại học. Nhưng tôi chẳng
muốn
chui vào một văn phòng, một xã hội nào. Tôi chỉ muốn là chính tôi. Một
mình và
độc lập. Đâu có dễ, muốn cái chuyện như thế, ở một xã hội như Nhật Bản,
vốn
được thành lập từ những ý niệm bộ lạc, tập thể, nhưng cuối cùng tôi
cũng làm
được cái điều mình muốn làm đó. Tôi chẳng thuộc vào một câu lạc bộ, một
trường
phái nào. Hai mươi năm vừa rồi, tôi viết, vậy mà chẳng có lấy một mống
đồng
nghiệp, văn hữu, bạn văn. Khi bắt đầu viết tiểu thuyết, lẽ tự nhiên,
tôi chỉ
muốn miêu tả những nhân vật, như là những cá nhân, cố làm bật ra, bằng
cách nào
những con người như thế có thể sống như những cá thể ở bên lề, của lề
luật xã
hội.
-Những
cuốn sách của ông
giống như những ngụ ngôn, [những đường cong paraboles], cho thấy cách,
mà những
con người, những cá thể mà ông vừa nói tới đó, thoát ra khỏi sự phóng
thể, tha
hóa, mất bản chất cá thể của họ...
Tôi
cũng nghĩ như vậy, một
cách nào đó. Nhưng trong vòng ba mươi năm qua, xã hội Nhật bản đã thay
đổi. Nó
trở nên vững chãi, không còn chao đảo. Nghĩa là không còn giống như
trên nữa.
Vào những năm cuối cuộc đệ nhị thế chiến, chúng tôi đã cần cù làm việc
để tái
thiết xứ sở. Chúng tôi nghĩ, công việc đem lại giầu có, và giầu có mang
lại
hạnh phúc. Nghe có vẻ quá ngây thơ, nhưng xã hội của chúng tôi đã sống
với một
xác tín như vậy từ không biết bao nhiêu đời rồi. Chính vì lý do đó mà
ông bà
tôi, rồi tới cha mẹ tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ làm, làm, và làm, để có
được sự
thoải mái về kinh tế cho gia đình chúng tôi vào thập niên 1980, thời kỳ
có tên
là "kinh tế man rợ" (l'économie barbare). Chúng tôi trở nên giầu có.
Nhưng khốn thay, càng không thấy hạnh phúc! Chúng tôi cảm thấy mất mát,
thua
thiệt, và chúng tôi phải coi lại cái công thức "có tiền mua tiên cũng
được". Có thể, "Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng",
"Hãy hạnh phúc em ơi, hãy hạnh phúc", là nỗi băn khoăn của chúng tôi,
tiếp theo đó. Rồi tới thời kỳ suy thoái kinh tế, kéo dài 10 năm. Theo
tôi nghĩ,
một cách nào đó, đây chính là một cứu nguy cho chúng tôi, bởi vì, bây
giờ,
chúng tôi có thể suy nghĩ, và tìm ra một con đường khác cho đất nước
của mình.
-Văn
học Nhật đương đại cũng
có cùng những lo âu, bận bịu đó. Thí dụ trong những tác phẩm của Ryu
Murakami
hay Banana Yoshimoto...
Ryu
Murakami là một trong
những người bạn thật hiếm hoi của tôi, chúng tôi rất hiểu nhau, và tôi
rất
ngưỡng mộ một vài cuốn của anh. Còn Banana Yoshimoto, tôi đặc biệt yêu
cuốn Giã
biệt Tsuguni. Nhưng tôi thú nhận, ngoài ba chuyện dịch thuật và tác
phẩm của
chính mình, tôi chẳng có thì giờ đọc đồng nghiệp Nhật bản. Một điều
chắc chắn,
là, trong vòng hai mươi năm nay, văn học Nhật Bản hoàn toàn hóa thân,
Một cuộc
thay đổi không những toàn diện, mà còn tới tận gốc rễ của nó. Đứng vùng
lên
gông xích (les carcans) ta đập tan, cả về hình thức lẫn nội dung.
-Ông
thích chơi với những sơ
đồ, bản vẽ (schémas) của "chuyện tình" (Bài hát của sự bất khả), của
tiểu thuyết đen, và của SF (Science-fiction, khoa học giả tưởng), lâu
lâu ông
pha trộn chúng với nhau (Những người tình của Spoutnik, Ký sự chim lên
dây
thiều). Tại sao?
Cái này
là do cách đọc của
tôi, thật bất thường và thật hỗn độn. Mười tám tuổi, tôi đọc tiểu
thuyết cổ
điển Âu Châu, thế kỷ 19, chủ yếu là Tolstoy, Dostoevsky, Chekhov,
Balzac,
Flaubert, Dickens. Họ là những người hùng của tôi. Tôi chúi đầu chúi
cổ, dành
hết thì giờ cho họ. Nói về mặt văn chương, chẳng làm sao mà viết hơn
họ. Sau
đó, tôi chuyển qua tiếng Anh, và đọc những tác phẩm viết bằng tiếng
Anh.Tôi
khám phá ra thế giới tiểu thuyết đen, và khoa học giả tưởng, Raymond
Chandler,
Kurt Vonnegut, và Richard Brautigan. Cả Scott Fitzgerald nữa. Tôi đọc
tất cả
bằng tiếng Anh. Thật là một kinh nghiệm hoàn toàn mới mẻ, và nó làm tôi
thay
đổi rất nhiều. Đến nỗi cái nền tảng văn hóa của tôi bị pha trộn, có thể
nói, là
một món "nộm" giữa văn học cổ điển và một thứ văn học dính dáng tới
văn hóa pop. Lập tức, tôi tóm lấy cách sử dụng những bản vẽ, những cấu
trúc của
"chuyện tình" (love story), của tiểu thuyết trinh thám (policier),
khoa học giả tưởng, và nuôi chúng bằng những những thức ăn riêng. Một
thứ
"bài tập" giải cấu trúc, nếu bạn muốn. Nói rõ hơn, bình (le contenant)
cũ, và là đồ vay mượn, nhưng rượu (le contenu), mới.
-Ông
còn chơi đùa với thể
loại polar (điệp viên, trinh thám..): người kể chuyện luôn luôn là một
người
đụng đầu với một bí mật, nhưng khi khám phá ra những dấu vết, những dấu
vết này
không đưa tới việc giải đáp bí mật, mà là giải đáp phần chưa biết, của
chính
người đó.
Trong
những cuốn sách của
tôi, nhân vật chính trong phần lớn các trường hợp, là một kẻ đi tìm một
cái gì
đó, quan trọng đối với anh ta. Thí dụ, người kể chuyện ở trong "La
Course
au mouton sauvage" đi tìm con vật nằm ở trong tên truyện, còn anh chàng
ở
trong Tận Thế (La fin des temps) lần mò dấu vết của nhà bác học mà anh
ta đã
làm việc chung, còn ở trong Ký sự về chim lên dây thiều, một người đi
tìm hôn
thê... Tất cả trải qua những tình huống lạ lùng, kỳ cục, những cuộc
phiêu lưu
cũng cứ thế thay đổi, sau cùng họ tìm được những gì họ mong muốn. Nhưng
thời
gian, cuộc hành trình, những tình huống xẩy ra như thế đó, khiến cho
vật mà họ
tìm kiếm đó mất đi ý nghĩa: cái việc tới được mục đích, có được kết quả
không
còn ý nghĩa nữa. Câu chuyện cũng không vì vậy mà trở nên bi quan. Bởi
vì ý
nghĩa đích thực của câu chuyện nằm ở trong tiến trình tìm kiếm, ở
chuyển động
theo đuổi. Nhân vật khác đi, không còn như lúc khởi đầu câu chuyện, và
đó mới
là điều đáng nói.
-Một
kiểu dẫn dụ
(initiation)?
Vâng.
Và những cuộc phiêu lưu
mà nhân vật trải qua, cùng lúc, cũng là của tôi - như là một nhà văn.
Khi viết,
tôi cảm nhận điều nhân vật tôi cảm nhận, tôi trải qua cùng những trăn
trở,
những thử thách. Nói một cách khác, con-người-là-tôi khi viết xong cuốn
sách,
khác với con-người-là-tôi khi khởi sự viết. Chuyện viết (lỴ écriture)
một cuốn
tiểu thuyết thực là quan trọng đối với tôi; không giản dị chỉ là
"viết"; không phải là một công việc giống như những công việc khác.
Như bạn "gợi ý" vừa rồi, đây là một công việc mang tính dẫn dụ, mời
gọi. Tôi nở phổng ra với nhân vật của tôi, cùng những trắc trở.
-Ông
tuyên b?, trong khi vi?t
nh?ng câu chuy?n c?a ông, là ông tìm c6au chuy?n c?a chính mình, ông
dào sâu b?
ngoài d? t?i du?c tâm h?n sâu th?m?
-Vâng,
trong khi vi?t, tôi
dào sâu m?t vùng d?t g?m có nhi?u t?ng. Tôi cứ thế đào, sâu hơn, sâu
hơn nữa.
Một số người nói, đây là một việc rất ư cá nhân (une entreprise trop
individuelle). Tôi không nghĩ như vậy. Nếu tôi tới được cõi thâm sâu
đó, là tôi
có thể sờ vào được một tiềm-tầng (un substrate), có tính chung, nhờ nó
mà tôi
có thể cảm thông với những độc giả của tôi, và như vậy một mối liên hệ
đã được
thành lập. Nhưng nếu tôi không đi khá xa, không đào khá sâu, sẽ chẳng
có gì xẩy
ra.
-Ở
trong những cuốn sách của
ông, luôn luôn xẩy ra [tình trạng] vượt bờ biên giữa tâm hồn và thể
xác, sống
và chết, thực tại và một chiều khác (thế giới song song, tiềm thức,
v..v...).
Một số loài vật, như con cừu trong La course au mouton sauvage, và
Nhảy, Nhảy,
Nhảy, Danse, danse, danse, hay con kỳ lân trong Tận Thế ... chúng có
thể vượt
biên giới. Chúng ở đâu ra vậy?
Tôi xin
trả lời bằng một hình
ảnh. Hãy cứ coi con người như một cái nhà. Tầng chệt là tầng bạn ăn ở
nấu
nướng, coi ti-vi với gia đình. Tầng một, có phòng ngủ của bạn. Bạn đọc
sách,
ngủ ở đó. Rồi bạn có tầng hầm, một nơi chốn không lộ liễu so với những
phòng
khác. Bạn dùng vào việc chứa đồ đạc, hay làm mấy trò chơi. Nhưng ở tầng
hầm đó,
có một khoảng giấu kín, không thể vô, nếu không biết cánh cửa bí mật
của nó. Và
nếu nhờ một cơ may, bạn có thể mở được cánh cửa này, bước vô một khoảng
không
gian tối, bạn không biết trong có gì, bạn cũng không biết hình dáng ra
sao, lớn
hay nhỏ. Một khi bước vào một khoảng không gian tối tăm như vậy, thường
là bạn
hoảng, nhưng cũng có khi, bạn cảm thấy thật là thoải mái. Bạn có thể
nhìn thấy
rất nhiều sự vật lạ lùng, những dấu hiệu, những hình ảnh, những biểu
tượng siêu
hình chúng cứ thế diễn ra trước bạn, Như trong một cơn mơ. Một thứ vũ
trụ vô
thức. Nhưng một chốc một lát là bạn phải trở lại với thế giới thực. Thế
là bạn
đi ra, đóng cửa lại, và đi lên nhà. Khi tôi viết, là tôi ở trong cái
căn phòng
tối tăm và bí mật đó, và tôi nhìn thấy rất nhiều điều kỳ cục. Người ta
nói, đó
là cái biểu tượng, siêu hình, ẩn dụ, hay siêu thực. Nhưng với tôi,
trong khoảng
không gian như thế đó, [tôi cảm thấy] thật là tự nhiên, và những cái
điều kỳ cục
như thế đó giúp tôi viết ra những câu chuyện của tôi. Viết, đối với một
tác
giả, thì giống như là mơ mà tỉnh (rêver éveillé). Một kinh nghiệm không
giống
ai (hors-normes), và thật khó dùng luận lý để giải thích.
-Sex
hình như cũng là một cây
cầu để nhập vào cái chiều, cái thế giới khác đó... Có phải vì vậy mà có
những
xen làm tình ở trong Bài hát của sự bất khả, Ký sự chim lên dây thiều,
Những
người tình của Spoutnik... ?
Thì
đúng như vậy đó. Sex là
một chiếc chìa khóa. Những giấc mơ và sex là rất quan trọng để nhập vô
chính
bạn, để khai phá cái phần chưa từng được biết tới của bạn. Người ta
nói, có quá
nhiều xen làm tình ở trong những cuốn sách của tôi. Trong Ký sự chim
lên dây
thiều, bạo động tình dục tràn lan, tôi bị chỉ trích vì điều đó, nhưng
tôi cho
rằng thiếu những xen đoạn như vậy là không được, chúng rất cần thiết vì
giúp
người đọc mở cánh cửa giấu kín mà tôi nói ở trên. Tôi muốn lay động tâm
trí họ,
mở cho họ một phần bí mật của chính họ. Một điều gì xẩy ra giữa tôi và
độc giả
là như vậy đó.
-Ông có
gắng tra hỏi, ngay cả
những gì được coi là những xác tín thông thường, những giá trị và có
thể nói,
luôn cả cái gọi là thực tại thường nhật?
Chúng
ta tin rằng chúng ta
sống trong một vũ trụ thánh thiện. Tôi cố gắng làm xáo trộn quan niệm
đó, cái
viễn ảnh "thánh" đó, của thế giới. Đâu phải một lần, mà nhiều lần,
chúng ta sống trong hỗn mang, trong khùng điên, trong ác mộng. Tôi muốn
nhận
độc giả của tôi vào trong một thế giới siêu thực, một thế giới của bạo
động,
xao xuyến, âu lo, hoang mang, ảo giác...
-Trong
cùng lúc, những gì ông
viết ra mang dấu vết của "mono no aware", hay "nỗi buồn cháy da,
cháy thịt của những sự vật" (poignante mélancolie), và đây là một trong
nét tuyệt, tuyệt, của thi ca truyền thống Nhật Bản...
Tôi cho
rằng, chúng ta sống
trong một thế giới, cái thế giới "này" ("ce" monde), trong
khi còn có những thế giới khác cận kề ngay bên cái thế giới "này" đó.
Nếu bạn thực tình mong muốn, bạn có thể chui qua tường, nhập vào một vũ
trụ
khác. Một cách nào đó, có thể vượt cái thực, cõi thực này. Đó là điều
tôi cố
gắng làm, ở trong những cuốn sách của tôi. Đây là một quan niệm rất
Đông
phương, rất Á châu, theo như tôi hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc,
người ta
coi như có hai thế giới song song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép,
không khó
khăn là mấy, qua lại giữa hai bên. Ở Tây Phương, làm gì có một quan
niệm như
vậy, thế giới-này là thế giới-này, thế giới-kia là thế giới-kia. Sự
cách biệt
thật là quyết liệt, thật là khắt khe, tôi muốn nói giữa "này" với
"kia" đó. Bức tường quá cao, làm sao vượt, làm sao trèo qua? Nhưng
trong văn hóa Á Châu, khác hẳn. Và "mono no aware" diễn tả, theo như
tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong Bài ca của sự bất khả, có sáu
nhân
vật. Ba sống sót, ba biến mất và qua thế giới bên kia - họ tự tử. Ba kẻ
còn lại
trong thế giới này, sau cùng biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm
(instable), vô thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một hình thức của "mono no
aware". Điều lạ, là, khi tôi bắt đầu viết Bài ca của sự bất khả, tôi có
ý
tưởng theo đó, ba trong sáu nhân vật sẽ biến mất, nhưng không biết là
ai. Trong
khi viết tôi tự hỏi chính mình, ai sống, ai chết.
-Ông
không hề biết chuyện gì
xẩy ra, trước khi viết?
Không
bao giờ biết trước. Tôi
viết theo kiểu tự phát. Nếu biết trước kết cuộc, viết làm chi cho mệt.
Tôi chỉ thèm
biết chuyện gì sẽ diễn ra tiếp theo, những biến động nào sẽ xẩy ra. Có
vài
cuốn, biến động cứ thế mà nảy nở trên từng trang sách, và đây là loại
mà tôi
thích viết.
- Phía
nam biên giới, phía
tây mặt trời: Một tiếng vọng của Bài hát của sự bất khả...?
Trong
hai trường hợp, tôi
muốn nói về điều mà người ta cảm thấy, khi một người thân yêu mất đi,
biến mất.
Một con người có hy vọng, có thiện chí, thèm được yêu thương, nhưng
người này
tự mình đi vào con đường lầm lạc. Tôi biết rất nhiều người đáng quí,
đáng trân
trọng, và chỉ qua một khúc quẹo, là họ... hỏng. Tôi luôn luôn nhớ họ.
Tôi luôn
luôn muốn viết về họ. Đó là điều độc nhất tôi có thể làm cho họ, là:
viết về
họ. Cho họ. Về hy vọng bỏ đi, về thiếu vắng mục đích, không còn một bấu
víu,
một nương tựa. Chính tình cảm này được sử dụng như sợi dây dẫn đạo.
Tình cảm là
thiết yếu trong một câu chuyện. Bạn có thể viết một câu chuyện thật
tốt, được
sắp đặt thật khéo léo, nhưng nếu thiếu tình cảm cưu mang, nuôi nấng câu
chuyện,
là vứt đi.
-Trận
động đất tại Kobé, cuộc
tấn công bằng hơi độc tại đường xe điện ngầm ở Tokyo, là nguồn cơn đưa đến "tình
cảm" của ông: trở lại Nhật Bản?
Vâng.
Vào lúc viết xong Ký sự
về chim lên dây thiều, tôi tính nghỉ xả hơi ít lâu. Viết nó mất ba năm,
từ 1991
tới 1993, đây là cuốn sách dầy và đầy tham vọng của tôi. Chưa được một
năm, hai
biến cố kể trên liên tiếp xẩy ra trong thời gian chưa đầy hai tháng.
Tôi bị cú
sốc nặng. Tôi rời Nhật Bản từ nhiều năm trước, vì thấy nó làm tôi bực
bội,
phiền nhiễu, khiến tôi không có được đủ sự thanh thản, để viết. Cứ kể
như tôi
là một tên lưu vong, khi nhìn thấy những hình ảnh trên ở trên màn
truyền hình,
ở Mỹ. Thế là trong tôi nảy ra ý nghĩ, mình phải trở về, và làm "một cái
gì
đó" cho xứ sở, những độc giả, đồng bào của mình. Trở về lại quê hương,
gặp
gỡ, tiếp xúc, nói chuyện với những nạn nhân của vụ tấn công bằng hơi
độc sarin.
Chừng chục, chục người. Nghe những câu chuyện mà họ chỉ kể giữa hai cá
nhân,
mặt nhìn mặt, theo kiểu tâm sự giữa hai kẻ thật thân thiết, và cũng
thật tin
cậy. Tôi quá xúc động, không chỉ một lần mà nhiều lần, không chỉ một
cách mà là
nhiều cách. Đây là những con người bình thường, họ làm việc thật cực
nhọc, ngày
ngày xúm xít, chật cứng ở trong những toa xe điện ngầm từ nhà tới chỗ
làm... Và
khi nghe kể những câu chuyện của họ, tôi thật cảm động. Như vậy đó, họ
thuộc
vào cái xã hội mà tôi phỉ nhổ, khinh khi. Tính đồng phục, đồng dạng,
người ta sao
mình vậy, làm đến ói máu, làm tới chết... Tôi luôn luôn ghê tởm, chán
ghét,
khinh khi cái kiểu sống như thế đó. Nhưng những câu chuyện của tất cả
những
người này thì thật là cảm động, và tôi nghĩ rằng, chúng đã thay đổi
tôi: như là
một con người, và như là một nhà văn. Sau đó, tôi có ý định sẽ viết về
trận
động đất. Tôi gốc gác ở Kobé. Đấy là thành phố quê hương của tôi. Căn
nhà của
cha mẹ tôi bị tiêu hủy bởi trận động đất. Tôi không muốn viết một cuốn
sách
người thực việc thực (non-ficrion), mà là một tập truyện ngắn. Sau khi
nghe
những nạn nhân vụ hơi độc, tôi đã thu thập được biết bao là câu chuyện,
biết
bao là giọng nói ở trong tôi, cho nên thật dễ dàng viết Sau trận động
đất, một
tập truyện ngắn không nhắm thẳng vào chính tai họa, mà là những hậu quả
của nó,
tiếng vọng của thảm họa đó lên cuộc sống của một số nhân vật khác nhau.
Viết
những câu chuyện đó là một kinh nghiệm có tính nền tảng đối với tôi, có
thể
nói, đây là một bổn phận, và một sự cần thiết.
-Khi
ông ở Nhật Bản, có vẻ
như ông "tránh né" văn hóa pop, những cuộc du lịch Âu Châu, và Mỹ.
Một lần tại Hoa Kỳ ông có nói tới nhu cầu "về nguồn"...
Đây
không phải là vấn đề liên
quan tới căn cước (identité) của một cá nhân, nhưng mà là một trách
nhiệm, như
là một tiểu thuyết gia và như một người. Như là một nhà văn, tôi cảm
thấy cần
phải làm một điều gì đó.
-Có
phải âu lo về một trách
nhiệm như thế đó mà ông đã đề cập tới những tội ác và những điều ghê
gớm, tởm
lợm của Cuộc Đệ Nhị Chiến tại Trung Hoa trong Ký sự về chim lên dây
thiều?
Tôi
sinh năm 1949, sau cuộc
chiến. Một số người nói: "Chúng tôi không có trách nhiệm về nó. Chúng
tôi
sinh ra sau cuộc chiến." Đây không phải là quan điểm của tôi. Bởi vì
Lịch
Sử là một ký ức mang tính tập thể. Chúng tôi cảm thấy trách nhiệm về
thế hệ những
ông bố của chúng tôi, bởi vì chúng tôi chia sẻ cái ký ức, về những gì
mà những
ông bố của chúng tôi đã làm. Chúng tôi trách nhiệm về những gì mà bố
mình đã
làm trong cuộc chiến. Chính vì lý do đó mà tôi đã viết về tất cả những
điều ghê
gớm tởm lợm đó. Chúng tôi phải suy nghĩ nghĩ lại về chúng, khư khư giữ
chúng ở
trong chúng tôi.
-Và bây
giờ, sống tại Nhật
Bản, ông có nghĩ sẽ có ngày, lại ra đi?
Trong
nhiều năm tôi luôn sống
ở bên ngoài Nhật Bản, tại Ý, tại Hy Lạp, và nhất là tại Hoa Kỳ, bởi vì
tôi được
rất nhiều đại học ở đó mời tới [nhất là Harvard và Princeton]. Nhưng
nói thực,
tôi chẳng cảm thấy rất ư là thoải mái với những đại học. Họ có những
nhóm riêng
của họ, những ngôi sao, cũng riêng của họ. Tôi không cảm thấy dễ chịu
với họ.
Vào lúc này, thế là, tôi bèn ở Nhật Bản. Tôi trở nên vững vàng, mạnh
dạn hơn
trước đây, và tôi tính giữ cho mình cái thế giới riêng của tôi, cho dù
sống ở
Tokyo. Tôi tạo lập một cung cách của tôi, một lối sống của tôi. Thành
thử, đối
với tôi, nơi sống thoải mái, dễ dàng, hóa ra lại là Tokyo, so với những
nơi
khác, mặc dù tôi vẫn tiếp tục đi du lịch.
-Trong
những cuốn sách của
ông có một mô típ trở đi trở lại: những con mèo. Trong Chạy theo cừu
hoang,
nhân vật kể chuyện chấp nhận cuộc điều tra, với điều kiện người ta phải
lo lắng
cho con mèo của mình, nhân vật chính trong Ký sự chim dây thiều mất con
mèo
trước khi mất bà vợ, hai nhân vật chính trong Biên giới phía nam, mặt
trời phía
tây cùng có một tình yêu chung, với những con mèo...
Như
Hajime [người kể chuyện
trong Mặt trời phía nam...], tôi là đứa con một [độc nhất], trong gia
đình. Tôi
sống một mình với cha mẹ, tôi có thế giới của riêng tôi, ở trong nhà.
Ba
"nhân vật" [éléments: phần tử] thiết yếu tạo nên cái thế giới của
riêng tôi đó là âm nhạc, những cuốn sách và những con mèo. Đó là những
cây cột
trụ chống trời của cái thế giới của tôi. Tôi mê [adorer] chúng, và tôi
tiếp tục
mê chúng. Tôi luôn có một thứ tình cảm trìu mến đặc biệt dành cho những
con
mèo. Tôi không nuôi chúng, bởi vì bà xã và tôi luôn đi du lịch thành
thử không có
ai lo cho chúng. Nhưng mỗi lần ở một công viên, hay trên đường phố,
tình cờ
nhìn thấy một chú mèo, là tôi tới gần con vật. Chúng thì êm ả, trầm
lặng, kỳ
bí. Chắc là do đó mà tôi hay viết về chúng.
-Tất cả
những cuốn sách của
ông vay mượn rất nhiều từ con người, cuộc sống riêng tư của ông: những
thú
thưởng ngoạn, những sở thích, những sự vật mà ông yêu mến. Có phải vì
thế mà
ông hay sử dụng ngôi thứ nhất, nhân vật xưng tôi?
Vâng.
Nhưng tôi đã thay đổi
văn phong của mình. Trong những năm đầu, tôi viết tất cả những cuốn
sách của
tôi bằng ngôn thứ nhất, tôi còn không thể đặt tên cho những nhân vật
của
mình....Chuyện này kéo dài sáu năm. Rồi thì tôi... phát triển, nẩy nở
ra; Trong
Sau trận động đất, lần đầu tiên, không một truyện nào trong đó có nhân
vật chính
ở ngôi thứ nhất. Và rồi tới cuốn Kafka on the shore [Kafka ở bờ biển,
bản tiếng
Pháp sẽ do nhà xb Belfond phát hành vào năm 2005], tức cuốn mới nhất
của tôi,
cả nửa cuốn được kể bằng nhân vật ngôi thứ ba [anh ta, cô ta, nó...].
Độc giả
sẽ gặp một ông già hơi mất trí... ông già có thể nói chuyện với mấy con
mèo
[Cười].
-Ông có
thể nói sơ qua vế tác
phẩm này...
Đây là
câu chuyện một đứa trẻ
mười lăm tuổi , và dúng là m?t thách đố, đối với tôi. Phần lớn những
nhân vật
của tôi đều ở quãng tuổi từ hai chục tới ba chục. Tôi nghĩ, bây giờ
sao? Chẳng
lẽ cứ thế mãi? Năm chục hay tuổi thiếu niên, vừa mới lớn? Tôi chọn khả
năng
sau. Thật tuyệt vời khi viết về một cậu nhỏ. Tôi có thể trở lại với
những ngày
mà chính tôi là một đứa trẻ mười lăm tuổi. Tôi có một kỷ niệm thật sống
động,
thật tươi mát về cậu nhỏ là tôi đó, và tôi có thể nhìn thế giới qua cặp
mắt của
một thiếu niên. Đây chính là phép lạ tuyệt vời: là một nhà văn. Nếu bạn
thực sự
muốn là "một ai đó", thế là bạn trở thành "người ấy"! Tuyệt
vời hơn nữa là, nếu tôi thực sự sống kinh nghiệm là một đứa trẻ mười
lăm tuổi,
độc giả của tôi cũng thực sự sống nó, chia sẻ nó với tôi. Đây là món
quà đẹp
nhất mà một cuốn tiểu thuyết, hoặc một truyện ngắn đem tới cho bạn.
Chính điều
này giúp tôi sống. Cuộc sống của chúng thực là lẻ loi, cách biệt, nhưng
với
những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, chúng ta không cô độc nữa. Chúng
ta có thể
giao cảm với nhau, từ trái tim tới trái tim, từ tinh thần tới tinh
thần. Không
phải luôn luôn, nhưng chuyện như thế có thể xẩy ra, và đây là một quyền
năng số
một, độc nhất vô nhị [unique].
-Điều
ông vừa nói làm nhớ tới
Những người tình Spoutnik, khi một trong những nhân vật giải thích,
rằng
"spoutnik" có nghĩa là "bạn đường" (companon de voyage), Le
Spoutnik bị kết án phải quay vòng quanh trái đất và không bao giờ được
tới
gần...
Con
người luôn cận kề bên
nhau, vậy mà vẫn luôn luôn có khoảng cách giữa họ, cho dù chúng ta có
thể hiểu
nhau. Gặp gỡ nhau làm chi, rồi xa nhau tức thì, rồi làm sao quên được
lần gặp
gỡ đó, những kỷ niệm quí báu về nó. Như hai cái spoutnik đi theo quĩ
đạo của
chúng ở trong không gian. Chúng ta thoáng thấy nhau, gặp gặp nhau, rồi
chia
tay, với kỷ niệm cùng chia sẻ, nó làm cho chúng ta ấm áp, tin tưởng
thêm lên.
Đó là điều đáng kể. Những câu chuyện hay, những cuốn sách tốt, chúng có
đó là
vì như vậy. Sau cuốn Kafka trên bờ biển, tôi mở một trang web trên
internet, và
nhận được 6.000 emails, tôi đọc hết tất cả, và tôi gửi trả 1000. Tôi
làm việc
mọi ngày để trả lời. Thật là hấp dẫn, và mệt, tất nhiên, nhưng cũng
thật quan
trọng, bởi vì tôi muốn trao đổi ý kiến trực tiếp với những độc giả của
mình. Và
cũng thật là kỳ (fanfastique). Tôi có thể có một ý nghĩ về họ, họ là
những ai,
họ nghĩ gì. Tôi không đọc những nhà phê bình, tôi không tin tưởng họ,
nhưng tôi
tin tưởng những độc giả của tôi. Kafka trên bờ biển bán được 300 ngàn
ấn bản,
nhưng ở Nhật Bản, con số không có nghĩa gì cả. Điều đáng nói, là biết
được có
cái gì ở đằng sau những con số như thế. Trang web đó thật là quan
trọng, thiết
yếu đối với tôi. Tôi như được độc giả nâng đỡ. Một số người chỉ trích
sách của
tôi, họ nói chúng làm họ thất vọng, nhưng quan trọng chi chuyện đó. Tôi
biết,
làm sao làm hài lòng tất cả mọi người, nhưng điều tuyệt vời, là bạn có
thể với
tay tới tất cả, sờ được tay họ. Internet quả là một phương tiện thông
tin đại
chúng (media) lý tưởng cho tôi. Đúng là một thứ dân chủ trực tiếp, như
vào thời
kỳ Hy Lạp cổ đại. Người ta có thể nói chuyện trực tiếp, mặt nhìn mặt,
ngay lập
tức, và chẳng khó khăn gì hết. Ngay cả cái đó cũng đòi hỏi thì giờ, đến
nỗi sau
cùng, tôi phải đóng trang web.
-Những
người tình của
spoutnik có vẻ như là cuộc gặp gỡ của hai ảnh huởng chính ở trong ông,
chuyện
tình và chiều kỳ quái (la dimension fantastique)?
Tôi đã
không suy nghĩ theo
những từ như thế. Tôi muốn viết một tam giác tình bằng cách thay đổi
(détourner) cái khung cổ điển, nói rõ ra là cái tam giác tình ở trong
cuốn sách
của tôi gồm có một liên hệ đồng tính nữ (relation lesbienne). Người kể
chuyện là
điểm yếu của chuyện. Anh ta kể câu chuyện của hai người đàn bà, và hài
lòng
nhìn chuyện xẩy ra như thế đó. Tôi chẳng biết gì về những người đồng
tính nữ,
mà chỉ dùng trí tưởng tượng của mình. Tôi có cảm tưởng, rằng mình biết
chuyện
gì xẩy ra giữa hai người đàn bà. "Những người tình spoutnik kể về những
mối tình chết yểu, bị kết án ngay từ khởi đầu. Đây là câu chuyện mà tôi
thích
nhất, tôi cũng chẳng hiểu tại sao..
-Và bây
giờ, ông đang làm về
một cái gì thế?
Chẳng
làm về một cái gì. Tôi
làm chuyện ngưng, nghỉ. Hôm qua, tôi gặp Kazuo Ishiguro [nhà văn gốc
Nhật, ở
Anh, viết văn bằng tiếng Anh, được giải thưởng The Booker với cuốn Tàn
Ngày,
The remains of the day]. Ông ta bảo tôi, ông ta mất ba năm mới viết
xong một
cuốn sách, và sau đó dành ra một năm để làm những "tua" (tours) trình
diễn, giới thiệu sách, gặp gỡ báo chí, đi ra nước ngoài - đây là cái
điều mà
tuần này tôi làm. Mùa thu này, tôi ngồi vào bàn. Viết đòi hỏi rất nhiều
sức lực
và nghị lực. Để làm việc, tôi dậy vào lúc bốn giờ sáng, và viết tới
chín giờ.
Tôi tập trung hết mực vào việc làm, và hoàn toàn kiệt lực sau năm giờ
đồng hồ.
Thời gian còn lại, tôi chơi thể thao hết mình, bơi lội, chạy... Đây là
nhịp
thường ngày, một kỷ luật mà tôi nghiêm khắc đặt ra cho chính mình. Để
viết,
người ta nghĩ ra những luật lệ cho chính mình, và phải tôn trọng chúng.
Cuối
cuốn sách, tôi trống trơn, cạn láng, chẳng còn gì hết.
-Liền
sau đây, ông đi Luân
Đôn, gặp gỡ báo chí?
Vâng,
mệt thật đấy, nhưng một
cách nào đó... Tôi vốn không ưa những cuộc phỏng vấn, tôi cảm thấy
khớp, không
thoải mái, Nghề của tôi là viết, không nói. Đôi khi thật không dễ, cái
chuyện
giải thích những tình cảm của mình, viết như thế nào, muốn viết cái gì,
tại sao
làm, cái chuyện viết đó. Bằng trực giác, tôi biết, nhưng bảo giải
thích, hoặc khi
tìm cách giải thích, thế là tôi nói ẩu, nghĩa là nói những điều mà
người ta
không thể nói.
Jennifer
Tran chuyển ngữ
4.
Akhmatova, và...
Khi
chẳng cần chi,
Tôi
bước đi như một đứa trẻ,
Dựa vào
bóng, như một người
bạn,
mà tôi
khao khát.
Gió
thổi từ lùm cây, mỗi lúc
một mạnh,
Và bàn
chân tôi mấp mé mộ
phần...
When
nothing is needed, I
walk like a child,
My
shadow serves as a friend
I crave.
The
wind breezes out of a
grove gone wild,
And my
foot is on the edge of
the grave.
1964
Anna
Akhmatova, Poems.
[Lyn
Coffin tuyển và dịch qua
tiếng Anh.
Joseph
Brodsky giới thiệu,
nhà xb
W.W. NORTON, NY]
Ở đâu
có bi kịch, ở đó có thi
sĩ....
Tin tôi
đi, không phải rắn
cắn,
Nhưng
mà là hồn vọng này,
Đã hút
máu trong tôi.
Trong
cánh đồng trắng kia,
tôi trở thành cô gái trầm lặng,
Với
giọng của một con chim,
tôi than khóc tình tôi.
[Believe
me, not the
serpent's sharp sting,
But
longing has drunk my
blood.
In the
white fields I became
quiet girl,
With
the voice of a bird I
cry out for love]
Akhmatova
... But
in the world there is
no power more threatening and terrible
Than
the prophetic word of
the poet.
[...
Nhưng trên đời, tiếng
thơ tiên tri của nhà thơ mới đáng sợ, mới khủng khiếp cỡ nào.]
Akhmatova
Khi
biết cô gái rượu của mình
tính in thơ trên một tờ báo ở St. Petersburg [ở Hà Nội], ông bố bèn
bảo, rằng
bố cũng không cấm cản một việc làm như vậy - làm thơ, và rồi in thơ -
nhưng
theo bố, đừng đem xấu xa đến cho dòng họ nhà mình, con nên tìm một bút
hiệu.
Và thế
là "Anna
Akhamatova" đi vào văn học Nga, thay vì "Anna Gorenko".
Chuyện
chọn một bút hiệu như
thế, thì cũng chẳng có chi là chắc chắn, nếu nói về chọn cho mình một
nghề -
nghề làm thơ - hay về chuyện cái thông minh, thiên phú, thiên tài trời
cho bây
giờ mới nở ra; nó cũng chẳng xác nhận, rằng, chỉ du di một tí, về căn
cước, tên
gọi của mình, là có ngay một nhà văn, nhà thơ. Đây chỉ là giữ sao cho
được cái
vẻ bên ngoài " Gorenko là một trong những cái tên như thế đó: một thế
gia
vọng tộc. Và cái nghề viết văn làm thơ vốn chỉ được thiên hạ nhìn, với
chút dè
bỉu: ôi dào, cái cô Anna Gorenko ấy, tưởng làm vương làm tướng gì, tại
làm sao
đổ đốn ra như vậy: viết văn, làm thơ? Chẳng lẽ không có cách nào tốt
hơn để
chọn cho mình một cái tên? Kẹt quá thì kiếm một thằng bác sĩ, kỹ sư,
đàn bà làm
quan tắt là chuyện thường, mà!
Tuy
nhiên, đòi hỏi của ông bố
như vẫn có một cái gì hơi bị quá đáng. Nói cho cùng, Gorenko đâu thuộc
dòng dõi
những ông hoàng. Nhưng, gia đình Gorenko sống ở Tzarskoe Selo - Tzar's
Village
- nơi nghỉ mát của hoàng tộc, và một địa linh như thế làm sao mà không
nẩy ra
nhân kiệt, làm sao mà không ảnh hưởng tới những đấng con trai trong gia
đình?
Tuy nhiên, với cô gái mười bẩy tuổi của ông, trong một khu vuờn tại nơi
chốn
phải nói là tuyệt vời vô cùng này, một thế kỷ trước đây, đóa hoa thiên
tài
Puskin đã "nở ra một cách thật là cẩu thả" (carelessly blossomed).
[Điều này quả là có một ý nghĩa đáng kể, đối với riêng cô, nếu không,
cô đâu
dám liều mình... làm thơ, và bây giờ... in thơ, mà lại đặt tên tập thơ
của mình
là.... Nằm Nghiêng?]
Nhưng,
[từ Khắc Hiếu đến Tản
Đà, từ Đứa Bé Lưu Lạc (Lạc Nhi) tới Cuốn Sách Huyền, có những nhà văn
nhà thơ
không chỉ bịa đặt những bút hiệu, những nhân vật có những cái tên mà
chỉ mình
mới biết hết những bí mật, những âm hưởng khi nghe đọc lên... mà còn
bịa đặt
luôn cả những ông tổ ông cố chẳng hề có, cho dòng họ nhà mình...], chỉ
nội bút
hiệu, Akhmatova, tự nó đã có vẻ, nếu không nói huyền thư, huyền hoặc,
huyền
thoại, thì cũng liên quan, về phía bên ngoại, tới những ông hoàng Đông
Phương,
những "tất liệt:" (khan), và người ta phải mò tới "the last khan
of Golden Horde": tới Achmat-khan, một hậu duệ của Chengiz-khan. (1)
"Mình
là một
Chengizite", Akhmatova nói, chẳng thèm giấu diếm, ít nhiều kiêu ngạo, ở
trong đó...
["Mình
là dòng Núi Tản
Sông Đà nhà thơ nữ của chúng ta nói, chẳng thèm giấu... Liệu có phải
nhắc tới
nàng công chúa, con vua Hùng thứ mười tám, để làm rõ ra cái nét kiêu
ngạo,
nhưng đâu phải riêng nữ sĩ, mà cả nước đã từng hãnh diện vì nguồn gốc
Con Rồng
Cháu Tiên của "chúng mình" rồi...]
Và với
một cái tai Nga -xô
[một cái tai Xứ Đoài Mây Trắng], "Akhamatova" rõ ràng là nghe ra cái
giọng Đông Phương Huyền Hoặc - Tartar to be precise, Brodsky - [với nữ
thi sĩ
của chúng ta, thì lại là Tây Phương huyền hoặc, Tây Phương ở đây là tên
một
ngôi chùa ở Xứ Đoài]....
[Với
một người cùng quê hương
xứ Đoài, cô khiêm tốn, thành thực hơn, và cũng cởi mở hơn, nói: Mình
dân Kẻ
Nủa]....
Tác giả
Nằm Nghiêng đã từng
thở than, tôi chẳng hề muốn lưu vong trên đất mẹ...
Còn với
Akhamota, việc chọn
cho mình một cái tên như thế, hóa ra là có tính tiên tri, Brodsky viết
như vậy.
Chưa kể điều này: Bàn tay em "năm" ngón, Ru mãi ngàn "năm":
"năm" chữ "a" mở ra tên thi sĩ [Anna Akhmatova] hớp hồn
người nghe [Brodsky viết: có một hiệu quả thôi miên], và đẩy cái tên
này lên
trên đầu của cái bảng mẫu tự thi ca Nga. Theo một nghĩa nào đó, đây là
một khởi
đầu thành công, cho một nghiệp thơ, của một thi sĩ.
Làm sao
bạn có thể quên nổi
một cái tên như thế, hay một cuốn sách huyền hoặc, một ngọn đỉnh trời,
một ngọn
sông Đà, với câu thơ, bài hát:
Chiều
nay sương khói lên
khơi,
Thùy
dương rũ bến tơi bời
Làn mây
hồng pha dáng trời
Sóng Đà
Giang thuyền qua xứ
người
...
Chiều
nay trên bến muôn
phương,
Có
thuyền viễn xứ nhổ neo lên
đường...
Thơ
Huyền Kiêu, Phạm Duy phổ
nhạc. Tôi có một kỷ niệm tuyệt vời với bài Thuyền Viễn Xứ này. Ở trong
trại cải
tạo.
[Cho
phép người viết lạc đề
một chút, ở đây, nhân nói chuyện bút hiệu. Cái tên Thanh Tâm Tuyền, là
từ Tâm,
và Thanh Tuyền. Theo như người viết được biết, qua bà cụ thân sinh ra
thi sĩ,
khi cô Thanh Thuyền này lên xe hoa, thi sĩ 'đau quá', "quằn quại suốt
đêm,
gãi sồn sột"... bà cụ thương tình, khuyên, ôi dào, thiếu gì, con... còn
cả
lố.. ở ngoài đời đấy!....]
Anna
Akhmatova thuộc về những
nhà thơ không cần phả hệ, mà cũng không cần một sự "phát triển" rõ
rệt. Bà là một thứ thi sĩ giản dị có đó [She is the kind of poet that
simply
'happens']. Được trang bị chẳng thiếu một thứ chi, bà mang thơ tới giữa
đời:
Đây này, thơ mình như thế này này:... [with an already established
diction and
his/her own unique sensibility. Brodsky].
Và bà
chẳng hề giống ai.
Còn
điều này nữa: Trong bao
nhiêu kẻ bắt chước bà, chẳng hề có kẻ nào có một tí Akhamatova ở trong
những
dòng thơ 'mô phỏng' của họ đó, và tiếu lâm thay, họ lại cứ hao hao
giống nhau,
nghĩa là hao hao dở ẹch như nhau!
[Hình
như trước đây, chưa hề
có ai dám đặt tên cho tập thơ của mình, lúc đầu là "Giấc Mơ Của
Lưỡi", sau đổi là "Nằm Nghiêng"].
(1):
Golden Horde: Từ tiếng
Nga Zolotaya Orda, dùng để chỉ Ulus Juchi, phần đất phía tây của Đế
Quốc Mông
Cổ, nổi lên từ giữa thế kỷ 13 tới 14. Đã từng chinh phục Nga xô. Vào
thế kỷ 14,
đế quốc Golden Horde đã coi Hồi giáo như là tông giáo chính thức của
nó, vì vậy
mà Nga xô đã chịu ảnh hưởng của cả hai, Hồi giáo và văn hóa Á Châu.
[Theo bách
khoa Britannica và Columbia]
Lưu
vong trên đất mẹ... She
[Akhmatova] không ruồng bỏ Cách Mạng. Một dáng đứng thách đố, khinh khi
cũng
không. "Tôi không hiểu những từ đao to búa lớn", bà nói. Một thi sĩ,
sinh ra là dân chủ, không phải chỉ nhờ tính may rủi do vị trí của nhà
thơ mà có
được, nhưng bởi vì 'đâu cần nhà thơ có' [he caters to the intire
nation], và
nhà thơ sử dụng ngôn ngữ của cái xứ sở cần tới nhà thơ [its nation]. Ở
đâu có
bi kịch, ở đó có thi sĩ. Brodsky viết: Akhamotova, thơ của bà luôn luôn
quyện
vào với tiếng bản địa, thổ ngữ, với tục ngữ, ca dao, chính vì vậy mà bà
có thể
đồng nhất với mọi người, dễ dàng hơn, so với những thi sĩ khác chỉ "lo
làm
thơ", hoặc nhắm những yêu cầu khác: Bà nhận ra nỗi đau [của cái quốc
gia
mà bà sử dụng ngôn ngữ của nó]:
CINQUE
Đúng
như vậy, tôi luôn luôn
thù ghét nó
Khi mọi
người thương hại tôi.
Nhưng
nếu bạn cảm thấy thương
hại, mủi lòng: Hãy nói ra đi -
Mặt
trời mới, trong thân thể
tôi.
Chính
vì vậy mà bình minh ở
khắp nơi.
Tôi có
thể tạo phép lạ, ở đây
hoặc ở đó,
Đó là
lý do tại sao!
1945-1946
Akhmatova
[Cinque:
Năm, như trong lá
bài số năm, hoặc năm điểm của con xúc xắc].
*****
Volkov:
Thật mong manh, cái
gọi là ký ức của con người.... Tôi muốn, nhân dịp này, khêu gợi chút
mong manh,
trước khi chìm vào quên lãng: Chút ký ức của ông về Akhmatova...
Brodsky:
Rất hân hạnh. Và
thích thú. Đó là một phần đời của tôi, và nói về đời mình, thì đúng là
chơi cái
trò của một con mèo, muốn tóm được, chính cái đuôi của nó. Khó vô cùng,
khó
không thể chịu nổi. Nhưng cứ nói, như thế này: Mỗi lần gặp Akhmatova là
một
kinh nghiệm đặc biệt đối với tôi: Một khi mà bạn cảm thấy, về mặt thể
chất,
mình kém xa, so với người đó. Người đó hơn hẳn bạn. Chỉ nội giọng nói
của người
đó, là đã thay đổi, chuyển hóa bạn.
Và
Akhmatova chuyển hóa bạn
thành Homo sapiens, chỉ bằng giọng nói, hoặc lúc lắc cái đầu của bà...
Có lẽ
bởi vì tôi còn trẻ, khi đó...
[Có lẽ
bởi vì tôi đã già, khi
đó. Khi trở lại Hà Nội]
Jennifer
Tran
Thuyền
Viễn Xứ
Chiều
nay sương khói lên khơi
Thùy
dương rũ bến tơi bời
Làn mây
hồng pha dáng trời
Sóng Đà
giang thuyền qua xứ
người
Thuyền
ơi viễn xứ xa xưa
Một lần
qua rạt bến lau thưa
Hò ơi,
giọng hát thiên thu
Suối
nguồn xa vắng chiều mưa
ngàn về
Nhìn
đường về cố lý, cố lý xa
xôi
Đời
nhịp sầu lỡ bước, bước
hoang mang rồi
Quay
lại hướng làng, Đà
giang, lệ ướt nồng
Mẹ già
ngồi im bóng mái tuyết
suơng
Mong
con bạc lòng
Chiều
nay gửi tới quê xưa
Biết là
bao thương nhớ cho
vừa
Trời
cao chìm rơi xuống đời
Biết là
bao sầu trên xứ người
Mịt mờ
sương khói lên hương
Lũ thùy
dương rũ bóng ven
sông
Chiều
nay trên bến muôn
phương
Có
thuyền viễn xứ nhổ neo lên
đường
Thơ
Huyền Kiêu
Phạm
Duy phổ nhạc
Biết là
bao thương nhớ cho
vừa..
Biết là
bao sầu trên xứ
người...
JT
5.
Felix Culpa: Đọc Nắng Hồng
Phương Nam
Tiểu
thuyết của Nguyễn Chí
Kham
NQT:
Trước tiên, người viết
cần xác định, đây không phải là một bài điểm sách, theo đúng nghĩa của
nó. Chỉ
là tản mạn xung quanh một vụ nắng, và một vụ mùa. Về những điều bật ra,
khi
đọc, có khi chẳng liên quan gì tới cuốn sách.
Sau đây
là một vài gợi ý.
- NHPN
viết về một thời kỳ
sau 1975. Nhân vật chính từ giã cuộc đời thường để vào cuộc đời tù. Độc
giả, từ
những dòng tóm tắt như thế, tự nhiên là sẽ có ý nghĩ, chắc là "căng"
lắm đấy. Nhưng không phải như vậy. Cuộc giã từ, đổi đời thường lấy đời
tù diễn
ra rất ư là "êm ả", trong khi thực tế không phải như vậy. Ngay cả khi
cho rằng, bởi vì đây chỉ là một cuộc du ngoạn diễn ra chừng 10 ngày,
theo như
thông báo của nhà nước mới, nó cũng không thể êm ả như vậy. Tại sao tác
giả lại
chọn một cách viết như thế?
- Cách
viết giả tưởng, và
lịch sử vốn đi kèm với nó, đặc biệt, lịch sử Lò Thiêu, Trại Tù của một
số tác
giả như Kertesz, Sebald... liệu có thể áp dụng để giải thích NHPN?
- NHPN:
Chỉ là Trăng Ơi Thơ
Ấu Mãi, tập truyện đầu tay của NCK, nối dài, trải rộng ra?
- NHPN:
một great design? Một
cách nhìn khác về Trại Tù? Và như một geat design, cho dù thất bại, vẫn
đáng
một ngọn đèn cầy (Brodsky viết về Akhmatova)?
- Trừ
những bài ca phản chiến
theo đúng nghĩa của nó, và bây giờ trở thành "void", những bản nhạc
tình ca của TCS cứ sống hoài, tuy được viết ra từ những ngày phản chiến
đó.
Liệu NHPN là một lập lại kinh nghiệm trên?
Từ
những gợi ý trên, đưa đến
nhận định chìa khóa, về cuộc chiến VN, nhìn từ phương nam: một cuộc
chiến không
thể có anh hùng miền nam?
***
Ông
viết, "Một cuốn sách
phải quậy nát bấy, những vết thương... Một cuốn sách phải là một hiểm
nguy.
Những cuốn sách của ông, chúng nguy hiểm theo nghĩa nào?"
"Thì
đúng như vậy. Hãy
nghe này:... khi cuốn Précis của tôi ra lò, một tay phê bình của tờ Thế
Giới
(Le Monde) gởi cho tôi một lá thư, với lời trách móc: 'Ông không nghĩ
đến hậu
quả, nếu cuốn sách lọt vào tay mấy người trẻ tuổi?'. Thật là phi lý!
Sách phục
vụ lớp trẻ? Phục vụ như thế nào? Dạy dỗ chúng? Giúp chúng học? Nếu như
vậy,
chúng chỉ cần tới trường, tới lớp."
"Không,
tôi cho rằng
cuốn sách đúng là một vết thương. Nó phải thay đổi cuộc đời của người
đọc, cách
này hoặc cách khác.... Một bà viết về tôi, mới đây (1), trên tờ Le
Quotidien de
Paris: 'Cioran viết điều mà người ta phải nói thầm, khi nhắc lại'. Tôi
không
viết, theo nghĩa 'làm ra một cuốn sách', để cho người ta đọc. Không,
tôi viết
để hất đi một gánh nặng cho tôi. Nhưng rồi sau đó, khi nghĩ về 'nhiệm
vụ của
những cuốn sách của tôi' (la fonction de mes livres), tôi nói với mình,
chúng
phải như một vết thương. Một cuốn sách, mà người đọc 'vũ như cẩn' sau
khi đọc
nó, là một cuốn sách vứt đi."
Cioran
Kafka
cũng từng nói như vậy:
Ông viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ
nên
đoc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta
đọc
không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú
vào sọ,
thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn
Trời, chúng
ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng
ta hạnh
phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập
chúng ta
giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một
người thật
thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm
thấy như bị
tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như
tự tử.
Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong
chúng ta.
Tôi tin như vậy."
(Alberto
Manguel trích dẫn,
trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
**********
Người
viết quen Nguyễn Chí
Kham từ những ngày ở Quán Chùa. Khi còn tờ Nghệ Thuật, và Sài Gòn còn
tương đối
thanh bình. Thập niên 1960. Đọc bài văn đầu tiên của anh, trong mục
Những Người
Viết Mới, trên Nghệ Thuật do Viên Linh làm tổng thư ký.
Ngồi
Quán Chùa, anh cho biết,
đó không phải là bản văn đầu tay. Anh đã từng viết trước đó. Đã có
nhiều truyện
ngắn đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Đã lãnh tiền nhuận bút nhiều
lần. Những
truyện ngắn đó, tuy không tệ, vì được chọn đăng, nhưng anh muốn, một
cách viết
khác. Đoản văn trong mục Những Người Viết Mới là thử nghiệm đầu tiên,
cho một
thứ văn học, khác. Tôi nói, tôi thường đọc Tiểu Thuyết Thứ Năm, và biết
những
truyện ngắn ở đó như thế nào. Và một khởi đầu như vậy, dù muốn hay
không muốn,
nó cũng bám chặt lấy anh. Đọc Nắng Hồng Phương Nam là
thấy ngay điều đó. Câu
chuyện có thể dài hơn nữa, dầy hơn nữa. Nhưng không phải như vậy. Tôi
nhớ, Faulkner
đã từng nói, trong một truyện ngắn, cái lấy ra khỏi quan trọng hơn là
cái giữ
lại. [ Barthes: Sự đánh giá của chúng ta chỉ trông cậy vào thực tập, và
thực
tập này là của việc viết. Một bên, là cái có thể viết, và một bên là
cái không
còn có thể viết: Cái gì nằm trong thực tập viết, cái gì đã bị bỏ đi, đã
rời
khỏi nó. Bản văn nào tôi bằng lòng viết (lại viết), mong viết, thèm
viết....?:
Our evaluation can be linked to a pratice, and this pratice is that of
writing... (S/Z, trang 4, bản tiếng Anh của nhà xb Hill and Wang, New
York].
Tôi nghĩ, định luật này phải áp dụng cho cả truyện dài. Khởi đầu dễ dãi
quá làm
hỏng những trang viết tiếp theo. Theo nghĩa này, người ta cho rằng câu
mở đầu
là rất quan trọng. Bạn cứ viết được câu mở, là có thể kéo dài nó. Cũng
vẫn theo
nghĩa này, Walter Benjamin cho rằng những mẩu đoạn mà một nhà văn lớn
hì hục
với chúng, nặng ký hơn so với những tác phẩm đã hoàn tất. Trường hợp
này đã
từng xẩy ra trong văn học. Trên tờ Người Nữu Ước, đã lâu lắm, nhắc tới
một nhà
văn Mỹ rất nổi tiếng, thuộc loại best-sellers, tôi không còn nhớ tên
(tác giả
một cuốn sách đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người Lữ Hành Kỳ
Dị), ông
này đúng ra có thể viết những tác phẩm "vượt thời gian", nhưng lại
bằng lòng làm một tác giả best-seller. Tờ báo kết luận, ông ta đã "bán
rẻ" tài năng của mình.
Trong
NHPN có những câu văn
thuộc loại bán rẻ, bên cạnh những câu văn thuộc loại bán đắt. Thí dụ
như, ngay
ở đoạn đầu...
Câu mở
đầu là rất quan trọng,
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, tôi đã từng trải qua một kinh nghiệm như
thế.
Chấp nhận thành công dễ dãi kéo theo những tác phẩm dễ dãi. Có thể có
người
nghĩ khác, nhưng với tôi, đây là một " kỷ luật", đối với ai đó tính
lựa chọn cuộc đời "trăm năm rách nát với văn chương". (Nguyễn Du).
Beckett còn khó hơn nữa: Hãy thua. Thua nữa. Thua cho bảnh.
*****
Theo
tác giả một cuốn sách
viết về Chekhov, William Faulkner đã lấy Chekhov làm thí dụ, 'Trong một
truyện
ngắn, bạn càng nói nhanh, càng giản tiện về một điều, một chuyện, và
nếu được,
thì đây là thứ số một, như Chekhov, khi ông sử dụng mỗi lần hai hay ba
ngàn từ.
Nếu không được thứ số một, ông phải dùng tới tám chục ngàn từ'. Về
truyện dài,
ông nói, "Trong một cuốn tiểu thuyết, bạn có thể cẩu thả, nhưng trong
truyện ngắn, không thể cẩu thả. Tôi nói tới những truyện ngắn của
Chekhov.
Chính vì vậy mà tôi coi tiểu thuyết là thứ hạng nhì.... trong truyện
ngắn bạn
phải hết sức chính xác."
Chekhov
vốn không viết được
truyện dài, và để giải thích cho sự không thể viết: "Chỉ những nhà văn
thuộc nòi phong nhã [issu de la noblesse] mới biết viết tiểu thuyết.
Còn chúng
ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt quá sức chúng ta."
[Roger
Grenier, Hãy nhìn
tuyết rơi (những ấn tượng về Chekhov), nhà xb Gallimard, tủ sách Folio,
1992]
***
Khi
người ta viết [được], thì
hà cớ chi mình [còn cố mà]... viết?
Tôi có
đọc được ở đâu đó,
trong cái cõi văn Việt, một ông nhà văn có tuổi, trong thư gửi một
người bạn
trẻ lăm le viết, rằng, hồi còn nhỏ, ông ta mê đọc lắm, có đồng nào, là
cúng cho
tiệm cho mướn truyện, đồng đó. Rồi tới một lúc, ông tự hỏi tại sao
người ta
viết được, mà mình lại chịu... thua, [chịu bỏ tiền ra mướn truyện]?
Thế là
ông viết, và trở thành
nhà văn.
Tôi
nghĩ, ông ta dù thế nào
đi chăng nữa, cũng có chút thành thực, khi nhìn lại cái thuở tập tành
viết của
mình. Rằng cái chuyện viết nó cũng chẳng ghê gớm gì lắm đâu. Sartre
cũng đã
từng khuyên y chang như vậy, khi nói: Muốn biến một câu chuyện trở
thành một
cuộc phiêu lưu, thì cứ việc ngồi vào bàn, và viết.
Giống
như một anh chàng lần
đầu mê gái, ẩn tàng trong công việc ngồi vào bàn, và viết, là một chân
lý của
văn chương, khi dám liều mình làm quen với... mớ chữ!
Nhưng
giả sử có người hỏi
tiếp: Nếu người ta viết được mà tôi cứ cố tình chịu... thua, vưỡn cố
tình không
chịu... viết, thì sao?
Nói rõ
hơn, cái việc tớ ngồi
vào bàn và viết đó, nó không liên quan gì đến người khác. Người khác
viết được
hay không, tớ đếch cần. Điều [tớ] cần, là [tớ] viết!
Hoặc
nói bảnh hơn, riết róng
hơn: Chỉ khi nào tớ thấy rằng, người khác viết không được, nên tớ mới
đành
phải... viết:
Vả
chăng, những kẻ thật biết
viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn? (Lý Trác Ngô. Tựa Tây
Sương Ký)
Người
khác viết được, tớ chỉ
cần đọc, chẳng cần viết làm gì cho nó mệt... c[ử] [ả] mình!
Đây là
ý nghĩa câu của
Barthes: Khi nhà văn xuất hiện, là mở trong hắn ta/ chị ta, một vụ án
văn
chương. Và cái gọi là văn chương tiền phong, trước hết, và trên hết, là
một yêu
cầu tự thân, và chỉ chỉ liên can tới, chỉ một nguời. Thí dụ như Nguyễn
Du, chẳng
hạn. Khi Truyện Kiều xuất hiện, người ta biết được một điều: văn chương
chỉ có
mỗi một nhiệm vụ, là ca tụng cái đẹp, thí dụ như thân thể một người đàn
bà,
nhất là khi người đó đang... tắm:
"Rõ
ràng trong ngọc
trắng ngà,
"Sờ sờ
trước mắt một tòa
thiên nhiên!"
Coetzee
lại giải thích khác,
khi đi tìm ngưyên nhân của cái việc viết dở như hạch ở một số tác giả...
Bởi vì,
cũng chính Sartre, đã
để cho nhân vật của mình, là anh chàng Roquentin,
Trong
khi mơ màng nghe một
nàng Kiều đen hát, qua dĩa nhạc Jazz, tại xen cuối ở Điểm Hẹn
(Rendez-vous des
Cheminots) trong Buồn Nôn:
Some of
these days, You'll
miss me honey."
[Một
ngày nào em sẽ nhớ
anh...]
Và mơ
tưởng viết về một cuộc
"phiêu lưu": "Nó phải đẹp và cứng như thép"....
[Il
faudrait qu'elle soit
belle et dure comme de l'acier]
[Phiêu
Lưu_Viết_ Dục Vọng
Cương Cứng Mong Được Trường Tồn_Le Dur Désir De Durer_ Belle et Dure
Comme De
L'Acier]
Buồn
Nôn thoạt đầu có tên
Buồn Phiền: La Mélancolie. Cái tít này, Sartre mượn của Durer, một họa
sĩ Đức
(được nhắc tới trong Les Mots).
Thân
Phận Tình Yêu của Bảo
Ninh, sau đổi là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Liệu
Nắng Hồng Phương Nam,
một cái tên vô thưởng vô phạt, huề vốn như thế, là nhằm trung tính hóa
(neutraliser), những cái tên như Bếp Lửa, Nỗi Buồn, Dựa Lưng Nỗi Chết,
Mùa Hè
Đỏ Lửa, và sau này, Đáy Địa Ngục, Đại Học Máu....?
Cũng
vẫn Sartre, trong bài
viết về Francois Mauriac, sau in lại trong Nhận Định I (Văn Chương Là
Gì?), cho
rằng, "Sách nói cho cùng chỉ là mớ giấy lộn, nhưng coi chừng, nó còn là
một con đại bàng đang chuyển động" (nguyên văn: một cái dáng lớn đang
chuyển động, une grande forme en mouvement). Con đại bàng đang xỏa hết
hai cánh
rộng của nó đó, là: Sự Đọc. La Lecture..... "Một cuốn tiểu thuyết lớn
phồng ra bằng thời gian của những độc giả của nó (un roman... se
gonfle, et se
nourrit avec le temps de ses lecteurs)."
******
Trong
bài trả lời phỏng vấn
của Thanh Tâm Tuyền (La Part d' Exil; trong lời giới thiệu, Lê Hữu Khóa
đã coi
ông là một tác giả đáng gờm nhất, le plus redoutable, đối với giới phê
bình
Việt Nam, do tính sáng tạo đa dạng, do lý thuyết văn chương tổng hợp),
ông
viết: Sau khi được giải phóng - après ma libération, tức là sau khi ra
khỏi
trại tù, chứ không phải sau 1975 (người viết bài này thêm vô) - trên
con đường
trở về, việc đầu tiên mà tôi làm, là cúi gập mình ghi chép những bài
thơ đã
được ký ức lưu giữ suốt thời gian bị giam giữ... Tôi là một kẻ sống
sót, nhưng
tôi không muốn là nhà văn nữa, như tôi từng mong muốn. Khi ở trong trại
tù, tôi
đã viết trong ký ức: Viết, phải làm sao, đối với tôi, như chẳng có gì
xẩy ra,
chẳng có gì thay đổi. Và bây giờ, tôi tự bảo mình: Một việc như thế,
khi nào
tôi có thể?: Lại-viết (re-écrire)......
Liệu có
thể đọc NHPN: như
chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi?
*****
Ở cuối
cuốn tiểu thuyết của
Cees Nooteboom, In the Dutch Mountains, người kể chuyện-tiểu thuyết gia
nhập
vào câu chuyện gẫu, về sự thực và giả tưởng, với những cái bóng của
Plato,
Milan Kundera, và Hans Christian Andersen....
"Tại
sao", nhân vật
Nooteboom hỏi," tôi lại ham muốn không thể cưỡng lại được, cái việc giả
tưởng hóa, nghĩa là kể ra những điều dối trá?"...
"Đó là
do bất
hạnh", Andersen trả lời, "Nhưng bạn bất hạnh chưa đủ, cho nên bạn
chẳng làm sao mà viết ra nổi".
[Coetzee,
trong bài viết về
Cees Nooteboom: Tiểu thuyết gia và Du lịch gia]
Coetzee
cho rằng, chưa từng
có một tác giả nào nhận xét cay đắng như vậy, về chính những gì mà ng
ười đó
viết ra, và ông giải thích thêm, nỗi bất hạnh của Noteboom, là do ông
ta quá
thông minh, quá rắc rối nhiêu khê, quá kẻ tỉnh (urban), cho nên không
thể nào
trao "hết" trứng cho ác (dấn thân hết mình vào chuyện viết, nghĩa là
ảo tưởng hóa cuộc đời), và lại còn ít nhức nhối về cái số mệnh (nghiệp)
viết
(cuộc đời trăm năm rách nát vì văn chương), thành thử không làm sao có
thể biến
nó thành số mệnh (nghiệp) của chính nó.
Theo
Coetzee, chẩn đoán căn
bệnh văn chương ở một số nhà văn bất hạnh chưa đủ mà đã đòi viết văn,
của
Andersen, thật đúng với cuốn In the Dutch Mountains: Với tất cả những
tài năng,
những dí dỏm, những hóm hỉnh, với tất cả những tia sáng sáng tạo, những
chiếu
rọi vào một cái tôi, và vào cái gọi là "giả tưởng của cái tôi", với
tất cả cái gọi là phong nhã, yểu điệu của một văn phong, cộng tất cả
lại, vẫn
chưa đủ "cảm" (feeling), để mà viết ra nổi một cuốn tiểu thuyết, tức
là một câu chuyện.
*****
Borges
nhắc tới một lời
khuyên của Khổng Tử, rằng chúng ta phải kính trọng quỉ thần, nhưng Ngài
nói
thêm, liền đó, rằng chúng ta phải tránh né những loài siêu nhiên đó
(the
surnatural beings). Kính, và né. Những huyền thoại về Đạo Giáo (Taoism)
và Phật
Giáo cũng không hề coi thường một lời khuyên như vậy. Theo ông, không
có một xứ
sở nào lại mê tín như là xứ Trung Hoa. "Cuốn tiểu thuyết bề thế của họ,
Hồng Lâu Mộng (The Dream of the Red Chamber), là cuốn tôi [Borges]
thường trở
tới trở lui. Trong đó, hằng hà sa số, là những ngỡ ngàng, kinh ngạc,
[những
thần tiên, những mĩ nữ, nào gương báu để soi việc gió trăng, gương soi
để khuyên
răn người đời, nào tam sinh hữu hạnh, nào nước để tưới sự buồn...],
chúng không
phải là bất khả, đâu phải là không có, mà đầy rẫy ở trong Hồng Lâu
Mộng: chính
là bởi vì đây là hiện thực (precisely it is realist, and marvels are
not
considered impossible or even unlikely). (1)
(1):
Trích từ bài viết
"P'u Sung-ling,The Tiger Guest",( trong Tuyển Tập Không Giả Tưởng của
Borges, Selected Non-Fictions, J.L. Borges, Eliot Weinberger biên tập,
Penguin
Books, trang 507)
Ở trên,
tôi có đưa ra đề
nghị: Nắng Hồng Phương Nam,
do cái tên của nó, là nhằm hóa giải những cái tên như là Đáy Địa Ngục,
thí dụ
vậy. Bây giờ, mượn ý của Borges như vừa dẫn, qua một cuốn tiểu thuyết
thật là
đồ sộ, chắc chắn là đồ sộ hơn, chỉ nói về bề dầy, so với NHPN, chúng ta
có thể
nhìn ra một "sự thực":
Nếu ĐĐN
là một thái quá về
địa ngục, thì NHPN cũng là một thái quá, cũng vẫn một [đáy] địa ngục đó.
Một khi
bạn bình thường quá,
hoặc "ngây thơ quá", về "vẫn cùng một" thực tại, như vậy là
biến nó trở thành không thực, thành một thứ quỉ thần,
mà quỉ
thần là phải Kính,
và Né.
Nhắc
tới Borges, và qua ông,
tới Hồng Lâu Mộng, tới tác giả của nó: Tào Tuyết Cần, (1716?) - 1763
(?), giống
như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để
giải tỏa
nỗi niềm cô phẫn, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại.
Ông vốn
sinh ra trong một gia
đình đại quí tộc... Năm lần vua Khang Hi tuần du phương Nam, thì bốn
lần ở lại
nhà họ Tào... có thể đoán biết cuộc sống trong phủ Giang hồi đó xa hoa,
vương
giả thế nào.... Trong Hồng lâu Mộng, Nguyên Phi về thăm nhà có một buổi
mà phải
xây cất bao nhiêu đình tạ... nữa là hoàng đế tuần dự ngự đến nhà.
Nhà ông
chẳng những hào môn
vọng tộc hiển hách như thế, mà còn có truyền thống văn chương...Nhưng
cuộc sống
vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì
tất cả
đã ở đằng sau rồi: Cha bị khép tội bị cách chức, bị tịch biên gia sản,
nhà họ
Tào suy sụp và ông phải về sống ở vùng ngo\ại ô phía tây thành Bắc Kinh
trong
cảnh cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu.
Hồng
Lâu Mộng có thể xem là
làn phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quí tộc đã
tan vỡ
đó.
[Trích
HLM bản tiếng Việt, do
nhà Văn Học ở trong nước, xuất bản]
Bây giờ
người viết thử mô
phỏng đoạn trên, ứng vào NHPN:
Tác giả
vốn thuộc vào một
miền đất, từ khi bắt đầu lịch sử của nó, đã thừa mứa miếng ăn cái mặc,
đã bao
lần họ Trịnh muốn thôn tính nhưng đành chịu thua, phải trở về lại đất
bắc, rồi
tới ngày 30 tháng Tư năm đó... Vào lúc tác giả bắt đầu viết NHPN thì
tất cả đã
ở đằng sau rồi, cả một miền đất trở thành.... một chân lý không bao giờ
thay
đổi, cả một cuộc chiến trở thành tủi nhục, cả những ngày tháng dài cải
tạo cũng
đã quá xa rồi, khi ông viết, ông ở bên Mỹ, và NHPN có thể xem là làn
phản quang
những hồi ức của tác giả về cuộc sống đã có một thời đẹp đẽ đó, nếu
không phải
của tất cả thì cũng là của riêng ông, với một số người đẹp ở trong
quãng đời đó,
nhất là quãng đời cải tạo ở miền bắc, chưa nói đến chuyện nhờ nó mà
ông, người
tù_như một nhà văn, hân hạnh gặp được Nhất Linh, và luôn cả Loan, tại
Hà
Nội....
Bạn có
thể cho rằng, người
viết quá cay đắng, cay nghiệt, quá... nhưng sự thực là như thế đó: Nếu
Hồng Lâu
Mộng chỉ là một giấc mơ ở lầu hồng, chỉ là cuộc tình tay ba tay tư tay
năm tay
sáu tay bẩy, giữa Bảo Ngọc và một mớ con gái đẹp, NHPN thật sự chỉ là
một cuộc
tình, của một anh chàng sĩ quan đi cải tạo, với một số những người đàn
bà....
Vần đề
còn lại, thật là nhức
nhối: Tại sao HLM thì thành công mà NPHM lại... thất bại?
Liệu
cái thất bại của NHPN có
đáng một ngọn đèn cầy, như Joseph Brodsky đã nói, về trường hợp một
"great
design"?
Tôi tin
là đáng!
Theo
nghĩa, một tác phẩm thất
bại (dở) nhiều khi cho chúng ta nhiều bài học quí giá, so với một tác
phẩm
"được", nào đó, cũng viết về cuộc chiến, đó!
********
Đỗ Long
Vân, viết Vô Kỵ Giữa
Chúng Ta, tại Sài Gòn, vào năm 1967.
Cuộc
chiến, "ba mươi năm
nội chiến từng ngày": Ở bên ngoài Sài Gòn. Xa. Xa lắm
Những
ngày Mậu Thân 1968. Một
năm sau đó. Chưa có. Chẳng thể nào có.
Vậy mà
người đọc vẫn cảm
thấy, chúng, cái thực, cái chết chóc, cái hung bạo, hiện diện ở trên
từng trang
sách.
Khi cảm
thấy độc giả hơi lơ
là với nó, tác giả cảnh cáo: Tại sao, tại sao...
Tôi tin
rằng, sau này, sử
gia, tiểu thuyết gia, nhân loại gia... muốn nhìn lại những ngày Mậu
Thân, không
thể bỏ qua Vô Kỵ giữa chúng ta của Đỗ quân.
Đâu
phải tự nhiên Thánh Thán
bỏ công đọc truyện trai gái ở dưới Mái Tây. Một nhà cách mạng Việt Nam
(Nhượng
Tống) bỏ công dịch nó.
"Vở
'Mái Tây' tôi dịch
hầu các bạn đây nguyên là một vở tuồng Tầu. Người viết vở tuồng ấy là
Vương
Thực Thủ đời Nguyên. Cũng như tất cả các nhà viết tuồng ở Đông hay Tây
phương
thường lấy một truyện xưa làm 'lam bản', họ Vương viết truyện này lấy
truyện
'Hội Chân' làm lam bản. 'Hội Chân' nghĩa là 'gặp tiên'....."
[Nhượng
Tống: Cùng Bạn Đọc.
Viết trên Phong Mãn Lâu đêm 25.1.1942]
[Trích
từ bản in của nhà xb
Văn Học, Hà Nội. 1992]
[Bạn
đọc để ý: thời gian
Nhượng Tống dịch Mái Tây, là trước 1942, rõ hơn: trước Cách Mạng Mùa
Thu. Đỗ
Long Vân viết Vô Kỵ giữa chúng ta: trước 1968, trước biến cố Mậu Thân,
mà trận
địa chính của nó là Sài Gòn, "hang ổ của Mỹ Ngụy", nói theo những
người CS, hay nói theo Đỗ quân: "Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có
nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra?
Ấy là
những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết"].
Đâu
phải tự nhiên, thay vì
viết về cuộc chiến Tây Sơn, và một ông vua Gia Long người miền nam
thống nhất
đất nước sau đó, Nguyễn Du viết về một con điếm ở mãi bên Tầu, bán mình
chuộc
cha....
******
Làng Kế
Bên: Nắng Hồng Phương
Nam?
Làng Kế
Bên của Kafka là một
câu chuyện gồm gần như chỉ một câu, mà người viết trích lại sau đây:
Làng kế
bên.
Nội tôi
thường nói: "Đời
vắn chi đâu. Như Nội đây, nhìn lại nó, thấy đời như co rút lại, thành
thử Nội
không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: làm sao mà một người trẻ tuổi
rong ruổi
sang làng kế bên mà không e ngại - bỏ qua chuyện tai nạn - một đời thọ
như thế,
hạnh phúc như thế, vẫn không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi
như
vậy".
Bản
tiếng Anh:
The
next village.
My
grandfather used to say:
"Life is astoundingly short. To me, looking back over it, life seems so
foreshorthened that I scarcely understand, for instance, how a young
man can
decide to ride over to the next village without being afraid that not
to
mention accidents even the span of a normal happy life may fall far
short of
time needed for such a journey".
Bây giờ
cứ giả sử như Làng Kế
Bên là:
Địa
Ngục,
Trại
Cải Tạo,
Đại Học
Máu...,
Miền Đã
Mất [Lost Domain],
Cõi
Thiên Thai,
Quãng
đời để dành, theo
nghĩa:
Khi còn
đang sống ở bên trong
một cuộc chiến, bị nó hành hạ, nên phải bịa đặt ra một quãng đời để
dành, bây
giờ mới có thì giờ rảnh ranh để sống nó!
Ở đây,
[tôi muốn nói, ở trong
Nắng Hồng Phương Nam]
bạn [tôi muốn nói, tác giả, và độc giả của NHPN] sẽ gặp lại tất cả
những giấc
mộng lớn nhỏ, mà cuộc chiến làm cho phải bỏ dở...
Cái anh
chàng sĩ quan cải
tạo, trong thời gian còn cuộc chiến, anh ta bị khốn quẫn về nó.... nên
chẳng có
thì giờ, dù chỉ để nghĩ, tới làng kế bên, có thể có thực, thí dụ như
những người
tình mà anh đã từng gặp, mà vì chưa có dịp sống, nên nhét tất cả vào
trong
đó....có thể do anh bịa đặt...
Rồi
chiến tranh kết thúc. Dù
muốn, người ta cũng chẳng cho anh có thì giờ lo cho vợ con, gia
đình.... Anh
phải đi cải tạo, và anh dành cái quãng đời không còn có thể lo cho gia
đình đó,
mơ tưởng về một cõi thiên thai, về một làng kế bên....
****
Nắng
Hồng Phương Nam:
Một thứ "Lam Bản" tìm thấy lại,
theo nghĩa của Milton:
Paradise Lost: Time Regained. Thiên Đàng Mất Đi là
Thời Gian
Tìm Thấy Lại
Time
Regained: Paradise Lost. Thời Gian
Tìm Thấy Lại là Thiên Đàng Mất
Đi.
Vấn đề
là: Thời gian tìm thấy
lại, là thời gian nào?
Thời
gian trước, hay sau,
Trại Tù?
****
Nắng
Hồng Phương Nam:
"Felix Culpa": "Happy Fault", " Happy Guilt":
"Tề Ngụy Hạnh Phúc"?
O felix
culpa, quae talem ac
tantum meruit habere Redemptorem
Missal
O happy
fault, which has
deserved to have such and so mighty a Redeemer.
Trích
theo tự điển những
trích dẫn, The Oxford Dictionary of Quotations.
Norman
Manea [cho rằng câu
này có thể là của St. Augustine, nhưng
như từ
điển trích dẫn Oxford
cho thấy, của Missal] dịch là (nguyên bản tiếng Anh của chính tác giả):
O happy
guilt, which has
served such a great Redeemer, trong bài viết về Mircia Eliade, khi
trích một
câu trong nhật ký của triết gia này:
"Tôi
thường nghĩ về mình
như sau: nếu không có cái felix culpa đó - là một đệ tử của Nae Ionescu
- tôi
có thể ở lại quê hương. Tốt nhất, tôi nên chết vì bịnh lao, trong một
nhà
tù." Ngày 29 tháng Tám 1985.
[Manea
trích theo Ricketts,
tác giả cuốn sách về Eliade: Mircia Eliade, The Romanian Roots, p. 142).
Normal
Manea trong bài viết
FELIX CULPA, đã chỉ trích Mircea Eliade, về thái độ ủng hộ phát xít của
triết
gia này, tương tự trường hợp Heidegger, bị chỉ trích hợp tác với Nazi,
và sau
đó giữ một thái độ câm lặng thách đố, khinh khi...
Liệu có
thể coi NHPN như một
"felix culpa", "đối cực" của những đại học máu, đáy địa
ngục?
Ôi chao,
Được
Sống Sót Cuộc Chiến,
Được
Cứu Chuộc Cuộc Tù,
hóa ra
là chỉ để:
Được
(hay Bị?)
Viết
Nắng
Hồng Phương Nam!
***
Thanh
Tâm Tuyền, đã từng làm
lại được thơ, ở trong trại cải tạo, nghĩa là một cách nào đó, ông lại
trở lại
được với Làng Kế Bên: Cõi Sáng Tạo.
"...Chẳng
có chi là rõ
ràng đối với tôi. Tuy nhiên, tôi nhủ thầm, tôi đang sống lại, nghĩa là
thơ ca
đang trở lại, và tôi sung sướng vì điều này. Tôi rụt rè e lệ như khi
còn trẻ,
với những bài thơ đầu, tôi giấu bạn tù những bài thơ, tôi không dám đưa
cho họ
đọc.
Khi bạn
sống dửng dưng, ngày
này qua ngày khác, chẳng nghĩ tới tương lai, chẳng nhớ về dĩ vãng,
không âu lo
hiện tại, bạn còn lại chi? Còn cái điều đã có ở trong bạn; nó có đó,
chẳng cần
đến sự mong muốn của bạn.
Để qua
đi những ngày đen tối,
những đêm mưa gió, ngày lạnh căm, bão bùng, mùa này, mùa nữa... tôi tìm
lạc thú
ở cái điều "đã hiện hữu ở trong tôi" đó; tôi mang theo, chỉ có nó; nó
luôn luôn ở trong thân thể tôi."
Thanh
Tâm Tuyền: Thơ Giữa
Chiến Tranh và Trại Tù
6. Rời nhà tù Trung Quốc
Lời
giới thiệu:
Jiang
Qisheng, cựu sinh viên
triết và nhà hoạt động nhân quyền, bị bắt vào năm 1999 vì đã tưởng niệm
những
nạn nhân vụ Thiên An Môn năm 1989. Sau bốn năm tù, ông vừa mới được
tha. Ông
viết bài sau đây, khi nhận giải thưởng The Spirit of Freedom Award of
the
Independent Fedederation of Chinese Students and Scholars. Bài này đã
được lớn
giọng đọc lên, bằng tiếng Anh, bởi một người bạn, trước Tòa Đại Sứ
Trung Quốc
tại thủ đô Washington vào ngày 1 tháng Sáu, 2003, và được đăng trên tờ
Điểm
Sách Nữu Ước số đề ngày 17 tháng Bẩy 2003.
Perry
Link
Vào
ngày 17 tháng Năm 2003,
tôi rời nhà tù sau khi trải qua thời gian thọ án. Đúng như người Trung
Hoa
chúng tôi thường nói, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại, khi tôi vô
tù thì
còn là thế kỷ cũ, khi ra, đã là một thế kỷ mới. Cử chỉ đầu tiên mà công
an -
những tên lính gác của một thế lực vua chúa hậu kỳ [liệu có thể nói,
mạt kỳ?] -
làm, là chỉ cho tôi tới đồn công an khu vực. Tại đây, người ta chỉ dẫn
cho cho
tôi rõ, rằng, án tù như vậy là chưa xong đâu, mày còn phải chịu thêm
một năm
"mất quyền lợi chính trị nữa", và án này có hiệu lực kể từ ngày hôm
nay, "đúng theo luật hiện hành".
Thái độ
và hành động của họ
thật hoàn toàn tương phản những gì tôi cảm nhận từ các bạn, ở đây, phía
bên này
Thái Bình Dương, cũng như từ rất nhiều bạn của tôi, ở bờ bên kia, ở
Trung Quốc,
tất cả đều biểu lộ niềm quan tâm thực sự và bên cạnh đó là những lời
chúc tốt
lành nhất của các bạn dành cho tôi. Các bạn giới thiệu tôi - một công
dân Trung
Quốc, mà, bởi vì kẻ đó yêu tự do và dám hành sử, thực tập nó, và mất
nó, thời
gian khi ở tù - tới với Giải Thưởng vì Tự Do Tinh Thần của các bạn: Tôi
thật
quá hãnh diện.
Là con
người, ai mà chẳng
thích thú được ăn nói thẳng thắn, chân chật, theo đúng ý mình, và chẳng
ai cảm
thấy mình vẫn là một con người đầy đủ, thực sự, một khi quyền tự do
nghĩ sao
nói vậy này bị chối từ. Lề luật này, là chung cho tất cả các quốc gia,
tất cả
các nhóm dân, ở mọi thời, mọi nơi. Không ai có thể nói, người Trung
Quốc khác
[theo nghĩa, họ không cần tự do], rằng, một cách nào đó, họ không muốn
nói sự
thực, và chỉ muốn nói một phần sự thực. Ngay vào lúc này, tại đây, tôi
dám nói
điều này, là những đồng bào Trung Quốc của tôi đang [làm cái chuyện]
nói lên sự
thực - ở công trường Yuyuan Park tại Bắc Kinh, ở chân núi Mount Yu tại
thành
phố quê hương của tôi, và tại nhiều nơi khác không thể đếm xuể, những
người
Trung Quốc bình thường đã nghĩ, và đi đến quyết định, là, họ có thể nói
lên
những gì họ đang nghĩ ở trong đầu, và họ không cho rằng làm như thế là
gây nên,
là mắc vào thảm họa. Điều tôi làm, điều làm tôi vào tù, thì cũng đơn
giản: Tôi
nói ngay giữa thanh thiên bạch nhật, giữa chốn đông người, cái điều mà
tại tất
cả những nơi chốn, trên tất cả đất nước Trung Quốc, những đồng bào của
tôi,
cũng nói như vậy. Là một kẻ trí thức, có thể tôi đã cố gắng gọt rũa
thêm một
chút, làm cho cái thông điệp kể trên gọn gàng, bảnh bao, làm cho những
sự kiện
đến thẳng với người nghe, ngắn gọn, xác thực. Chỉ có vậy thôi.
Đóng
góp của tôi, nhỏ bé,
nhưng tôi hiểu rõ, sự nguy hiểm của nó. Tôi biết, những người cầm quyền
Trung
Quốc không thể bỏ qua. Vào ngày 18 tháng Năm, 1999, sau 10 giờ đêm một
chút,
tôi quyết định nói ra những quan điểm của tôi, một lần nữa, lần này,
bằng điện
thoại, với Đài Phát Thanh Á Châu Tự Do. Trong lần nói chuyện này, tôi
nói,
rằng, nếu tôi bị bỏ tù vì nói ra sự thực, thì cũng đành thôi, tù thì
tù. Chừng
một tiếng, hoặc tiếng rưỡi đồng hồ sau đó, cả một bầy công an tới dẫn
tôi đi,
và kể từ đó, bắt đầu cuộc hành trình kéo dài 1,460 ngày và đêm không
thể nào
quên, giữa tường cao, và hàng rào gài điện.
Cái giá
mà tôi phải trả, nỗi
đau khổ tôi chịu đựng thật chẳng là gì nếu phải so với những người khác
- nạn
nhân cuộc tàn sát ngày Bốn Tháng Sáu, và thân nhân của họ, những tội
nhân mà
nhà cầm quyền gọi là những kẻ gây rối (rioters) vẫn còn đang ở trong
nhà tù số
2 tại Bắc Kinh, và tất cả những nhóm người chẳng có chút sung sướng,
chẳng có
chút đặc quyền đặc lợi, tức là những con người bất lợi vẫn tiếp tục
sống trong
đau đớn và chán ngắt vì sự bất công mang tính hệ thống của chế độ. So
với họ,
tôi được chú tâm nhiều hơn. Nếu trường hợp của riêng tôi có gì đặc
biệt, thì đó
là, nó khiến người ta đối diện với một sự kiện thật rất ư bực mình:
ngay bây
giờ, vào buổi bình minh của thế kỷ 21, một công dân Trung Quốc bị bỏ tù
vì điều
mà người đó nói. Một kẻ, mà, do hành sử nhu cầu rất ư bình thường, nói
điều
mình nghĩ, vậy mà được coi là một vị anh hùng được ban phát giải
thưởng! Thật
kỳ cục, bất thường, các bạn ạ. Liệu có thể coi là tuyệt vời, khi, vào
một ngày
nào đó, mọi con người Trung Quốc, anh hùng cũng được, mà hạ tiện cũng
được, cả
hai đều tha hồ nói điều cả hai nghĩ, không nhà tù, mà giải thưởng cũng
không?
Một lần
nữa, cám ơn tất cả
các bạn.
Jennifer
Tran chuyển ngữ [Từ
bản tiếng Anh của Perry Link, trên NYRB số đề ngày 17 tháng Bảy, 2003]
7. Bông Hồng số 4.
Le sens
trop précis rapture
la vague litérature.
[Cái
nghĩa quá rạch ròi làm
hại cõi văn mơ mòng] (1)
Nước
Pháp phát minh ra tôi.
Tôi đâu có hiện hữu. Caillois làm cho tôi được nhìn thấy. Than ôi,
thiên hạ
nhìn ông ta rõ quá!
[Borges
viết về Roger
Caillois, người giới thiệu ông với độc giả Pháp và sau đó, thế giới].
Trong
bảng phong thần cho
những cuốn sách cuối cùng, trước khi cúng bà hoả [Dernier inventaire
avant
liquidation], tác giả Frédéric Beigbeder chỉ chọn được 50 cuốn. Đứng
đầu bảng
là cuốn Kẻ Xa Lạ của Camus. Ông Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry, số 4.
"Làm ơn
vẽ cho tôi một
đại tác phẩm. Làm ơn chỉ cho tôi số 4 trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng"
là
cuốn nào?
"Ông
Hoàng Nhỏ của
Saint-Exupéry [1900-1944] là câu chuyện thần tiên độc nhất của thế kỷ
20. Thế
kỷ 17 người ta có chuyện cổ tích của Perrault; thế kỷ 19, của Andersen.
Tới thế
kỷ 20, người ta có Ông Hoàng Nhỏ, một cuốn sách được viết bởi một ông
phi công người
Pháp lưu vong tại Huê Kỳ từ năm 1941 tới 1943. Cuốn sách được in ấn tại
đó,
trước khi được xuất bản tại Pháp vào năm 1945, một năm sau khi tác giả
mất. [Do
kỹ thuật in ấn của ông Tây quá tệ, bản tiếng Tây do đó đã phải giữ y
chang
những bản vẽ trong bản in lần đầu bằng tiếng Mẽo]. Từ khi xuất hiện
cuốn sách
có hình này đã trở thành một hiện tượng trong ngành in ấn, mỗi năm phát
hành
chừng vài triệu cuốn trên toàn thế giới."
"Tại
sao? Bởi vì, không
cố tình [làm ra vẻ ngây thơ] Saint-Exupéry đã sáng tạo ra những nhân
vật ngay
lập tức trở thành huyền tượng [figures mythiques]."
Người
ta có thể cho cuốn sách
một cái tên khác, là, "Đi tìm một đứa trẻ thất lạc", Frédéric
Beigbeder đề nghị. Bởi vì theo ông, "tác giả cuốn sách luôn nhắc tới
"những người lớn" nghiêm túc, biết suy nghĩ điều hơn lẽ thiệt, và bởi
vì cuốn sách không thực sự nhắm tới những đứa trẻ mà là tới những người
tin
rằng họ không còn trẻ nữa. Đây là một "pamphlet" [bài văn đả kích]
chống lại tuổi lớn và những con người hữu lý [rationnel], được viết
bằng một
thứ thơ ca dịu dàng, một minh triết giản dị [une sagesse simple] (Harry
Potter,
hãy về nhà với mẹ của mi đi!), và với một sự ngây ngô giả vờ, thực ra,
giấu ở
bên dưới sự ngốc nghếch đó, là một sự hóm hỉnh và một nỗi buồn thê
lương."
Đi tìm
một đứa trẻ đã mất.
Khi đặt tên lại cho cuốn sách như trên, theo tôi [NQT], tác giả Bảng
Phong Thần
Cuối Cùng, bởi vì là người Pháp, nên đã "vơ vào", nghĩa là muốn nhắc
tới Proust, một ông Tây khác nữa, tác giả Đi Tìm Thời Gian Đã Mất.
Nhưng
còn một lý do nữa, là
chính cái chết của Saint-Exupéry đã khiến bật ra cái tên thứ nhì này.
Tác giả
Phong Thần Bảng cho thấy, như rất nhiều nhà văn khác, thí dụ như Lewis
Carroll,
Saint-Exupéry thuộc thứ tác giả không chịu già: vài tháng sau khi Ông
Hoàng Nhỏ
được xuất bản, tác giả của nó, lúc đó 44 tuổi, bèn lên máy bay, làm một
phi vụ
thám sát [mission de reconnaissance] bên trên vùng trời Địa Trung Hải,
và biến
mất như nhân vật của mình&
Saint-Exupéry
là một tác giả
quá quen thuộc với những tác giả, luôn cả độc giả, và luôn cả học trò
người
Việt: ở Sài Gòn, trước 1975 có một trường học mang tên ông. [Tôi không
hiểu bây
giờ còn không.]
Trong
lần về Việt Nam, nói
chuyện bên "chén riệu" [ly rượu] với mấy anh em cũng dân viết lách,
tại nhà một ông cũng "có một nỗi buồn thê lương", nhân câu chuyện PXN
còn nóng hổi, TTĐ gật gù, "Nhầm Ông Hoàng Nhỏ với Cõi Người Ta là một
sơ
suất nặng!"
Chúng
ta tự hỏi tại sao lại
có sự lầm như thế.
Không
lẽ cứ buông một câu,
tại dốt, tại không đọc!
Với một
tác giả xa lạ, có
thể, nhưng với "Xanh-Tếch", như cách gọi thân mật của người Việt dành
cho ông, ở một xứ sở tuy "người Pháp đã ra đi, nhưng nước Pháp ở lại
[Malraux], chuyện không đơn giản.
Vậy
thì, tại sao?
NQT
Chú
thích: Tôi không nhớ tên
tác giả. NQT