Số 562-
5 tháng 5, 2004
I. Sống
lùi thời đại.
Vào
thập niên 1960, trong một
cuộc họp bàn tròn trên tờ Sáng Tạo, một thành viên trong nhóm đã phát
biểu, nếu
một độc giả của ngày hôm nay đọc văn chương của ngày hôm qua (đọc Hồn
Bướm Mơ
Tiên, hay Nửa Chừng Xuân chẳng hạn), như vậy là đã sống lùi thời đại
của mình.
Người
viết lẩn quẩn mãi với
chuyện sống lùi thời đại nhân đọc Lạc Đạn, và 10 truyện ngắn của Trần
Thị NgH
(nhà xuất bản Thời Mới, Canada,
2000). Tuy đầu tay, nhưng lại là tác phẩm thứ nhì được xuất bản tại hải
ngoại,
sau tập truyện do nhà Văn Nghệ, Cali,
xuất bản 1999).
Lạc Đạn
được viết cách đây 31
năm (1969-1973), nhưng vẫn nằm trong ngăn kéo của nhà văn. Vì nhiều lý
do,
trong đó có thời cuộc (biến cố 1975). Tên truyện như mang sẵn trong nó
một định
mệnh, và từ đó, một ẩn dụ. Liệu những độc giả của ngày hôm nay đã sống
lùi thời
đại, khi đọc Lạc Đạn?
Chẳng
cần tới Lạc Đạn, Trần
Thị NgH đã nổi tiếng. Trong bài viết "Nhìn lại văn chương hải ngoại năm
1999" (đã đăng trên tuần báo VHNT trên internet, do Phạm Chi Lan chủ
trương), người viết có đưa ra nhận xét, đây là một năm được mùa. Mùa
gặt mới
trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị
NgH. Một
tác giả trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới
viết lách
ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái. Theo tôi, truyện đầu
tay của
bà là về một người đàn ông có vợ, nhân bữa chủ nhật được nghỉ, đi thăm
một
người đàn bà không chồng nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh
chàng đi
mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn còn nhớ cái
cảnh cô đơn
của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc
tây, trước
cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Truyện được viết bằng một
giọng văn
rất trung tính (neutre), rất không độ ("Không độ của cách viết",
Roland Barthes), không lạm dụng những thủ pháp tu từ, không thảm kịch
hóa hoàn
cảnh, không có chất ngổ ngáo, rất NgH như nguời ta thường nhận định về
bà.
Lý do
nào, tác giả-độc giả bỏ
qua truyện này, khi chọn truyện kia (Nhà Có Cửa Khoá Trái), như là
truyện đầu
tay, và là truyện ngắn tiêu biểu cho giọng văn của bà?
Giữa
những truyện ngắn ngổ
ngáo, gây chấn động một thời như "Nhà có cửa khóa trái", và truyện
dài Lạc Đạn, có gì không ăn khớp với nhau, và liệu có phải đây là một
trong
những duyên do Lạc Đạn cứ thế nằm trong ngăn kéo của nhà văn, theo
nghĩa: tác
giả của nó đã say men chiến thắng, và cứ tiếp tục cái giọng văn ngổ
ngáo, cái
con người (một người nữ gốc miền nam) ngổ ngáo, giấu biệt đi một cái
tôi khác
(giấu biệt đi một miền nam khác). Tại sao bây giờ tác giả quyết định in
nó?
Liệu chính sự thành công của những truyện ngắn đã kết án Lạc Đạn phải
nằm trong
ngăn kéo một thời gian dài 31 năm? Đã biến lạc đạn thành lạc đạn hay
lạc đàn,
biến tác giả thành một nhà văn khác, khác với tác giả Lạc Đạn? Liệu có
hai nhà
văn ở đây, một tác giả những truyện ngắn ăn khách, và một tác giả một
truyện
dài để trong ngăn kéo?
Lạc Đạn
liệu mang bóng dáng
định mệnh văn chương Việt Nam:
trật trìa, loạng quạng, chưa bao giờ tìm thấy chính nó, và sau cùng là
lưu
vong, hay phản kháng?
Khi
nhìn lại văn học Miền Nam trước 1975,
chúng ta không thể không đặt nó trong bối cảnh lịch sử 1954. Văn chương
Miền Nam
trước 1975
tưởng như hiền hòa, nhưng ở bên dưới nó, là những đợt sóng ngầm của
những tranh
chấp, khác biệt. Không phải tự nhiên mà nhóm Sáng Tạo hô hào đổi mới
khi nhắm
thẳng vào nhóm Tự Lực Văn Đoàn: họ muốn từ biệt một quá khứ văn chương
cũng như
một quá khứ của một miền đất, trước khi bắt đầu một cuộc hành trình đầy
bất
trắc, và cũng đầy cao ngạo: khởi từ ca dao qua tự do, đối diện với lịch
sử, đối
diện với một cuộc chiến mà họ tự nhủ: không thể trốn chạy. Sống lùi
thời đại ở
đây, theo tôi, chỉ có nghĩa:
Không
dám đối diện với thời
cuộc, ở thời điểm thật nóng bỏng của nó.
Không
phải tự nhiên khi Võ
Phiến có những nhận định tối tăm, rắm rối, õng ẹo - hay mượn chữ của
ông, khó
bảo là tuyệt đẹp, khi nhận xét về thái độ của nhóm Sáng Tạo đối với Tự
Lực Văn
Đoàn - khi nhận định về nhóm Sáng Tạo mà đa số là từ miền bắc di cư vào
Sài
Gòn.
Nên
nhớ, khi VP khởi thảo Bộ
Tổng Quan Văn Học Miền Nam, nghĩa là khi viết những dòng đó, trừ Mai
Thảo may
mắn chạy thoát, nhóm Sáng Tạo đều ở tù.
Vả
chăng, tù thì tù, viết vẫn
viết, nhưng phải có dẫn chứng: chỗ nào õng ẹo, đoạn nào rối rắm.
Ngay cả
cuộc tranh luận đôi
khi vượt quá phạm vi văn học xẩy ra ở hải ngoại, giữa một số cây viết,
liên quan
tới địa vị của Võ Phiến, giá trị bộ sách viết về văn học Miền Nam trước
1975
của ông, cũng không phải tự nhiên phát sinh, mà có ngấm ngầm từ trước.
Khi
nhân vật lịch sử Nguyễn
Huệ được hết ông nhà văn này tới nhà văn khác cho đội mồ sống dậy.
Khi
Nguyễn Huy Thiệp có những
dòng ưu ái dành cho ông vua (Gia Long) bị nhà nước Cộng sản coi là cõng
rắn cắn
gà nhà: giấc mơ Nguyễn Huệ ra Bắc, đại thắng quân Thanh, giấc mơ một
người miền
Nam (Nguyễn Ánh) thống nhất đất nước là một giấc mơ nhằm đảo ngược định
mệnh
lịch sử, căn cước quốc gia: bắt buộc, bị kết án phải Nam tiến.
Khởi từ
những ý tưởng trên,
chúng ta có thể đọc những tác giả miền nam như Thụy Vũ, Trần Thị NgH,
bằng cách
đặt kế bên những tác phẩm của họ, với của một Võ Phiến, khi so sánh
những nhân
vật dám sống hết mình, dám ngỗ ngáo
với những nhân vật sống quay vào
nội tâm,
sống với những ý nghĩ cố định, và thường chịu thua hoàn cảnh
hay một
Thanh Tâm
Tuyền: giọng văn trong Lạc Đạn mang hơi hướng một Cát Lầy. Cô gái trong
đó như
một em gái miền nam của nhân vật tên Trí (?) trong Cát Lầy.
Chúng
ta cũng có thể so sánh
với Miền Nam Sâu Thẳm của Faulkner, nếu đặt tất cả trong bối cảnh lịch
sử dẫn
tới Cuộc Bỏ Chạy Tán Loạn.
Bạn có
thể đọc Lạc Đạn, khi
so sánh với những nhà văn Miền Nam
thuộc những thế hệ trước.
Và mỗi
cách đọc như thế, sẽ
mở ra những vấn đề khác nhau.
Sau
đây, người viết sẽ cố
gắng đưa ra một vài cách đọc Lạc Đạn, khi để nó kế bên những tác phẩm
của một
số nhà văn tiêu biểu cho văn chương Miền Nam trước 1975, từ đó, biết
đâu, chúng
ta có thể có được một cái nhìn tổng quát về một thời đại văn học, tạm
coi là tự
do, cởi mở, sau 1954 tại một miền đất nước, và, biết đâu, nhìn ra được
những
thành công, và thất bại của nó.
Vả
chăng, đọc lại những tác
giả miền nam trước 1975, theo tôi, là một cách bới rác - như một việc
làm quen
thuộc để kiếm sống của một số người ở trong nước - ra khỏi những tác
phẩm của
họ, và như thế, rác rưởi ở đây, còn quan trọng hơn cả những món đồ đắt
giá: tất
cả đều đã làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó, hoặc đã bị thâu gom, tịch
biên,
biến thành tài sản riêng của một chế độ (người ta chẳng vẫn thường băn
khoăn về
một ảnh hưởng miền nam ở những cây viết miền bắc sau 1975?)
II. Quá
khứ không bao giờ
chết.
The
past is never dead. It's
not even past.
Faulkner,
Requiem for a Nun.
Did you
ever have a sister,
did you?
Faulkner,
The Sound and the
Fury.
(Bạn đã
từng có một người chị
hoặc em gái, có không?)
[The]
politicians, economic
managers, and party officials need a fatherland to carry on their
enterprises.
There is no motherland in sight, no more than before.
Christia
Wolf
(Tạm
dịch: Chính trị gia,
giám đốc kinh tế, viên chức đảng cần một quê cha để thực thi những công
trình
của họ. Chẳng thấy quê mẹ đâu hết, so với trước đây, bây giờ lại càng
chẳng
thấy).
Lạc Đạn
là nhật ký của một cô
gái. Cha cô là một địa chủ, thời còn người Pháp, và gia đình sau đó suy
sụp do
chiến tranh, và có thể, còn do luật Người Cầy Có Ruộng của ông Diệm.
Quê cha
bắt đầu cùng với thời mới lớn của cô gái qua hình ảnh một ông bố suốt
ngày say
xỉn. Quê mẹ còn thê thảm hơn, vì cùng với nó, là ám ảnh lạc đạn.
Riêng
về biến cố, hoặc giản
dị hơn, sự cố lạc đạn, có rất nhiều ấn bản (versions) khác nhau. Nhà Có
Cửa
Khoá Trái mở ra bằng câu: Thử tưởng tượng một người đàn ông đứng tuổi,
đứng
đắn, như vậy, phải coi đây là giả tưởng. Võ Phiến có lẽ là người đầu
tiên khám
phá ra một Trần Thị NgH, khi ca ngợi hết lời cái đoạn đối thoại giữa
hai người
nam và nữ ở trong truyện (Chàng khen: Em can đảm lắm. Tự nhiên tôi nói
lớn,
giọng hờn mát: Rồi sao nữa, trời đất! Nằm yên!), và cái xen từ giã,
chàng xin
nàng món đồ lót của nàng làm kỷ niệm cuộc tình. Nhưng trong Lạc Đạn,
cảnh đó
diễn ra một cách chân thực hơn, cho thấy một NgH khác: Tôi nằm ngửa ngó
ngược
lên trần căn phòng. Đêm ngoài tầm hiểu biết. Dự nhỏ nhẹ, anh dậy cho em
làm vợ
chồng. Má ngủ chưa má. Má biết con đang ở đâu với ai không. Đêm ở xa má
lo lắng
không ai kéo chăn lên ngực con, má xót xa nghe con ho rúm ró vặn vẹo.
Má mặc áo
túi vải cười nhăn, tóc má búi xổ bạc trắng. Má đi lại dọn dẹp trong
nhà.Con nằm
đây làm gì với ai, con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của má,
con đau
xé nổ tung đầm đìa, con đỏ lòm oan uổng.
Lời
khen, khám phá của Võ
Phiến là một trong những lý do đưa đến sự nổi đình nổi đám của Trần thị
NgH.
Kundera
có nói, những nhận
định đầu tiên bám chặt lấy tác phẩm, đừng mong chi rũ khỏi. Những nhận
định đầu
tiên của Max Brod, bạn của Kafka, đã mở ra cả một trường phái
'Kafkology', ai
muốn hiểu Kafka là phải kinh qua trường phái này. Proust còn cay đắng
hơn:
Dante sống sót là do có ít người đọc quá! Giả sử người đọc có cùng một
lúc hai
ấn bản NgH, liệu họ sẽ chọn ấn bản nào?
******
Vào
những thập niên cuối thế
kỷ 20, văn chương thế giới, đúng ra là văn chương Tây phương, giầu có
hẳn lên,
do đóng góp của những nhà văn, trí thức đã từng sống dưới chế độ Cộng
Sản, như
Czeslaw Milosz, Milan Kundera, Joseph Brodsky.
Trường
hợp văn học hải ngoại
Việt Nam
có hơi khác. Trước tiên nó bắt đầu bằng một biến cố không thể ngờ: cuộc
bỏ nước
ra đi sau khi đất nước được thống nhất. Và đây là một dòng văn chương
có khá
nhiều bắt đầu, như thể nó cứ phải bắt buộc tiến về phía trước.
Bắt đầu
đầu tiên: Khi biến cố
30 tháng Tư 1975 xẩy ra, có một số người Miền Nam không phải chứng kiến
nó. Họ
đã ở hải ngoại từ trước, hoặc may mắn thoát ra được ngay giờ phút chót.
Trong
đó có nhà văn. Thoạt đầu, họ có thể đã nghĩ rằng, dòng văn chương Miền Nam chấm dứt, như một Miền Nam đã mất để chỉ còn một Việt Nam.
Theo
tôi, cuốn Văn Học Tổng
Quan và Văn Học Miền Nam
của Võ Phiến đã được viết ra theo ý nghĩa đó: cố gắng bảo tồn một nền
văn
chương đã bị bức tử. Thành công, và thất bại của nó ở do thời điểm
quyết định
này, và quan điểm của người viết (về thời điểm đó).
Nhưng
cùng với sự bỏ nước ra
đi, một nền văn chương hải ngoại có một khởi đầu thứ nhì. Khởi đầu thứ
nhì này
là một khẳng định: văn chương Miền Nam không thể bị bức tử,
hay nói
theo nhà văn và triết gia Pháp, Jean-Paul Sartre: nó bắt đầu cùng với
'cuộc
nhân sinh bắt đầu từ phía bên kia của tuyệt vọng' (La vie humaine
commence de
l'autre côté du désespoir.). Nó bắt đầu từ phút xuống cá bé, ra cá lớn,
đối đầu
với biển cả, bão tố, hải tặc, và nếu may mắn, tới được trại tị nạn, và
sau cùng
tại một đệ tam quốc gia, tức quê hương thứ nhì của người Việt hải
ngoại.
Khởi
đầu thứ ba, và đây chính
là khởi đầu thứ nhất, của một nền văn chương thực sự của hai miền đất
nước, tại
hải ngoại. Có thể nói đây mới thực sự được gọi là Văn Học Việt Nam Hải
Ngoại:
sự gia nhập của những người viết ra đi từ Miền Bắc.
Khởi
đầu thứ tư: sự gia nhập
của một nền văn học hải ngoại trên không gian ảo, đa số là những người
viết còn
trẻ, cố gắng vượt thoát để không còn bị vướng mắc vào những 'lỗi lầm',
hoặc
những 'băn khoăn' không liên quan gì tới văn chương, hoặc Miền Bắc Xã
Hội Chủ
Nghĩa, Miền Nam Cộng Hòa, Cuộc Chiến Không Kẻ Thắng Người Bại.
Hai tác
phẩm của Trần thị NgH
xuất bản ở hải ngoại là một ngoại lệ.
Nghệ sĩ
nào cũng muốn tóm bắt
chuyển động, nghĩa là cuộc sống, bằng những thủ thuật, và nắm cứng nó,
sao cho
hàng trăm năm sau, khi một người lạ nhìn vô, nó lại chuyển động, lại là
cuộc
sống
(Faulkner,
Trả lời phỏng vấn
do Jean Stein thực hiện, in trong 'Sư tử ở trong vườn', trang 253.)
Hiểu
theo cách đó, sống lùi
thời đại, ở đây, có nghĩa là: làm cho một miền nam đã bị nắm cứng bởi
biến cố
1975, lại chuyển động.
Between
grief and nothing I
will take grief.
Giữa
khổ đau và vô thường,
tôi sẽ chọn khổ đau.
(Faulkner,
Những cây sồi
dại).
Trên
báo Partisan Review số
Mùa Hạ 2000, Adam Michnik, khi viết về Jan Kott, một nhà văn Ba lan đào
thoát
qua Tây phương, đã nhắc tới bài 'Về Nọc Độc' (On Venom, 1982), qua đó,
Kott ghi
nhận:
'Rắn
cắn làm hư cái đầu. Bên
trong cái vòng tròn huyền hoặc, cái đầu luẩn quẩn trong một thế giới
ảo. Cái
đầu tin vào những lời dối trá, và không thể phân biệt thực với ảo.'
(A
snake bite disables the
mind. Inside a magic circle, the mind moves in a fictitious world,
believes in
lies, and cannot distinguish reality from illusion).
Ông cho
rằng, những mắc míu
của tầng lớp trí thức với chủ nghĩa cộng sản, gia nhập rồi rời bỏ trong
chán
chường và vỡ mộng: 'thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng nhất' ('the
moment of
disullusion is perhaps the most important').
Adam
Michnik, tác giả bài
viết đôi lúc nghĩ rằng, những người 'đòi cái đầu' của Jan Kott có lý
của họ:
Jan Kott là Không nghi ngờ chi, ông là một người Cộng Sản. Và là một
tay Cộng
Sản thông minh. Và cái nọc độc làm hư cái đầu của những người như ông,
là từ
Hegel mà ra (Hegelian venom). Bài viết của Kott, là để tưởng niệm Adam
Wazyk,
nhưng Wazyk không hề nhắc tới Hegel. Ông dùng từ 'bệnh viện tâm thần'
(a
lunatic asylum). Trong Cầm Tưởng (hay Cái Đầu Bị Tù, Bị Đeo Vòng Kim
Cô, The
Captive Mind ), nhà thơ Ba lan, Nobel văn chương, Czelaw Milosz đã từng
tự hỏi:
liệu có thể kiếm thấy sự thực, trong những tư tưởng về 'nọc độc
Hegelian'?
Người
viết tự hỏi, trong cuộc
trốn chạy đất bắc vào năm 1954 của gần một triệu đồng bào, trong số đó,
có
những nhà văn nhà thơ: liệu gần triệu con người, trong đó có một dúm
nhà văn,
là do bị 'dị ứng' với chủ nghĩa Cộng sản? Dúm nhà văn sau quây quần
thành từng
nhóm xoay quanh một tờ báo như là chủ trương, tiếng nói của họ, như
nhật báo Tự
Do, tạp chí Sáng Tạo, tạp chí Bách Khoa, nhóm Quan Điểm, 'lò' Nguyễn
Đức Quỳnh
họ đều dị ứng với chủ nghĩa Cộng Sản, hay là đã nhận ra hiểm họa, về
một nọc
độc Hegelian, hay bóng ma của một bệnh viện tâm thần?
Sở dĩ
đặt vấn đề dị ứng, là
nhân một bài viết của Đặng Tiến, [đăng trên Việt Mercury] về bộ sách
Tổng Quan
Văn Học của Võ Phiến, tác giả đã cho rằng một số nhà văn như Doãn Quốc
Sĩ
thuộc nhóm Sáng Tạo, chống cộng là do dị ứng. Cũng trong bài viết, ông
cho rằng
Võ Phiến mới là nhà văn chống cộng, bởi vì chính Cộng Sản cũng đã coi
Võ Phiến
như vậy.
Đặt vấn
đề chống cộng hay
không chống cộng, khi phải nhận định một nhà văn, theo tôi, một cách
nào đó, là
'miệt thị' văn chương của chính người đó, và văn chương nói chung.
Theo
tôi, phải nhìn những nhà
văn Miền Nam
trên một bình diện cao hơn thế: họ đều đã chấp nhận cuộc chiến (dù miễn
cưỡng
hoặc không), đã bị cuộc chiến làm cho điêu đứng trong cả hai cuộc đời:
sống và
viết. Họ đều chống đối cuộc chiến đó, do đó (do không tin tưởng ở 'phía
bên
kia'), người ta cho rằng họ chống cộng.
Họ đã
'tiên tri' đúng: bên
kia đã thắng trận, và đất nước đã rơi vào thảm họa.
Thế
giới đã đứng về phía miền
bắc, trong cuộc chiến. Nhưng những người như Jane Fonda đã ân hận, bây
giờ. Tuy
nhiên, người ta chưa từng được nghe một lời ân hận, của chính những
người Việt
ở miền nam, có may mắn tránh khỏi cuộc chiến đó, khi chạy ra hải ngoại
trong
những năm chiến tranh.
NQT
III. Ba
Mươi Tháng Tư Đọc Thơ
Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm
78 ở Lào Kay lần đầu
tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của
Thái đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh
sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và
gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp
lại.
Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh
Tâm Tuyền: Trong Đất
Trời Nhau
Tưởng
niệm Mai Thảo, tạp chí
Thơ số Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ
thi sĩ
Nhớ Già
Ung *
Gửi MT
Sáng
nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ
những câu thơ viết
thời trẻ
Bừng
cháy trong lòng anh bấy
lâu
u ám
quạnh quẽ
Ánh lửa
mênh mang buổi tình
đầu
Mưa bụi
rì rào
Gió náo
nức mù tối
Trễ
muộn mùa xuân trên miền
cao
Đang
lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua
đã qua chuỗi ngày lạnh
lẽo anh tự nhủ
Cũng
qua cơn khô hạn khác
thường
Tắt
theo ngọn nắng chon von
mê hoặc
đầu óc
quái gở
Từng
thiêu đốt anh trên đồi
theo vào đêm
hành hạ
anh đớn đau
Từ bao
giờ anh đứng trân trối
cô đơn
Hôn ám
trời sơ khai nhìn qua
song tù ngục
Hoang
vu lời thơ ai reo hát
cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa
anh về tận nẻo nguồn
chốn
bình minh lẩn lút
(Bình
minh bình minh anh kêu
khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai
xa Mai như hoa Mai về
tình
thơ hôm nay)
Em, em
có hay kẻ tội đồ biệt
xứ
sớm nay
về ngang cố quận
Xao
xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng tối sâu thẳm
Đêm vây
hãm lụn dần
Thủ thỉ
mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi
bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ
anh gầy nhóm lửa tinh
mơ đầm ấm.
Lào Kay
4/78
Vĩnh
Phú 1/79
Thanh
Tâm Tuyền, Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú
của tác giả:
Già
Ung: Giuseppe Ungaretti
(1898-1970). Thi sĩ Ý.
Ghi chú
của người sao lục:
Bài Nhớ
Thi Sĩ của Thanh Tâm
Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc
sĩ Hồ
Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả
[Thính giả?] đầu tiên
của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác giả Nắng Hồng Phương
Nam
cho biết.
Trong
đất trời nhau, là từ
thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin anh đi xa, là
để chỉ
Mai Thảo đã vượt thoát. Quê ngoại là hải ngoại.
Hôn
thụy, ngủ mê, như Gấu tôi
được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển từ "coma" [hôn mê] sang
tiếng Việt. Trong một lần hai anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ
này, và
gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
IV.
Tiểu Thuyết Chưa Chết
Lại Một
Lần Nữa, Ra Tay Nghĩa Hiệp, Bảo Vệ
Tiểu Thuyết.
In
Defense of the Novel, Yet
Again.
Mới
đây, tại Hội Những Nhà
Xuất Bản Anh, Giáo sư Steiner xổ ra một miệng chữ:
"Chúng
ta ngày càng chán
tiểu thuyết... Những thể loại văn học lên, rồi xuống, nào hùng ca, nào
sử thi,
nào bi kịch. Những đỉnh cao một thời, rồi sau đó, tàn lụi. Người ta vẫn
còn
viết tiểu thuyết, còn lâu mới thôi viết nó, nhưng, ngày càng là một
cuộc tìm
kiếm những hình thức lấp lửng, nửa đực nửa cái, điều mà chúng ta giản
dị gọi là
thực tại/giả tưởng...Tiểu thuyết làm gì được, vào những ngày như thế
này, khi
nó phải đọ sức với những thể loại mạnh khỏe hơn, thí dụ một bài phóng
sự hảo
hạng, hay cả một dòng triều dâng cao là thứ viết trực tiếp, nhảy xổ vào
thực
tại?...
'Pindar
có lẽ là người đầu
tiên trong lịch sử, nói, Bài thơ này sẽ còn được cất lên khi mà thành
phố mà nó
ca ngợi đã mất tăm mất tích, không còn hiện hữu.' 'Thách đố mới cao
ngạo làm
sao, như nhổ thẳng vào mặt Thần Chết. Ngày nay, ngay cả một thi sĩ lớn
lao nhất
cũng tỏ ra bối rối, khi đành phải đanh đá: Thơ của... tui không dành
cho bạn!'
Thì
cũng chỉ là vô thường mà
thôi, nhưng cái vô thường cổ điển kia mới cao ngạo làm sao: " Ta còn
mạnh
hơn cả cái chết. Ta có thể xoa đầu nó, ở trong thơ của ta, bi kịch của
ta, tiểu
thuyết của ta, bởi vì ta đã chiến thắng nó, bởi vì ta, ít nhiều chi,
thì cũng
thường hằng, permanent".
"Nào
đâu, những cao ngạo
như thế, vào giờ này?"
Thế là
một lần nữa, bằng một
giọng rổn rảng nhất, lời ai điếu lại đuợc cất lên. Thì cũng vẫn bản kẽm
cũ, lời
ca... xưa rồi Diễm ơi, về một Cái Chết Của Tiểu Thuyết. Cộng thêm vào
cái chết
của tiểu thuyết, Giáo sư Steiner kèm thêm cái chết [nếu không phải cái
chết,
thì là sự biển đổi triệt để] của Người Đọc, biến thành đứa con hoang
đàng của
máy điện toán, một thứ khùng điên, vô dụng; và cái chết, [hay ít ra, sự
biến
đổi triệt để thành một dạng điện tử] của Cuốn Sách, chính nó.
Cái
chết của Tác Giả được
thông báo cách đây nhiều năm, tại Pháp - và Cái chết của Bi Kịch thì
được chính
Giáo sư Steiner thông báo trước đó, bằng một lời ai điếu hết sức thê
lương, để
lại trên sàn diễn xác chết, nhiều hơn cả màn vãn tuồng Hamlet.
Sừng
sững, uy nghi, và cũng
trơ cu lơ, ở trên sàn diễn, giữa một đống tử thi, là me-sừ Fortinbras
(1),
chính luỷ, và trước lủy, tất cả chúng ta, những người viết của những
bản văn
không có tác giả, những người đọc của thời kỳ hậu-văn chương, Căn Nhà
Usher tức
kỹ nghệ in ấn, xuất bản - vương quốc Đan Mạch với một cái gì hư ruỗng ở
trong
nó - và luôn cả những cuốn sách, tất cả đều ngả đầu, trước... Nhà Phê
Bình,
chính luỷ!
Chú
thích: (1). Fortinbras:
nhân vật trong Hamlet, kịch Shakespeare, cháu gọi vua Na Uy bằng chú,
trong khi
Hamlet là con trai vua Đan Mạch. Fortinbras được coi là con người của
hành
động, còn Hamlet, của suy tư. Sau khi H. chết, F. tin rằng, H. mới xứng
đáng là
vua, nhưng điều này đâu có ngăn cản chuyện F. đoạt lấy ngai vàng Đan
Mạch.
Một nhà
văn thế giá cũng vừa
mới tuyên bố về sự từ biệt cõi đời của một thể loại văn học mà ông ta
là một
trong những kẻ thực tập nổi tiếng. Ông V.S. Naipaul không những ngưng
viết tiểu
thuyết, mà còn bị dị ứng bởi chính cái từ tiểu thuyết: bây giờ, cứ mỗi
lần nghe
ai nhắc đến nó là ông cảm thấy bịnh. Cũng như Giáo sư Steiner, tác giả
Một Căn
Nhà Cho Ông Biswas cảm thấy rằng, tiểu thuyết đã sống quá dai, vượt quá
hoàn
cảnh, thời điểm lịch sử của nó, không còn có ích, và cũng chẳng còn
nhiệm vụ
nào dành cho nó nữa: Mi nên chết đi là vừa. Để cho kẻ khác thế chỗ mi,
đó là
cách viết sự kiện [factual writing]. Sẽ chẳng có ai ngạc nhiên, rằng,
ông
Naipaul như vậy là đang ở đúng bước ngoặt của lịch sử, và là người tiên
phong,
mở ra một thể loại tân kỳ: Trường phái văn học tân hình thức thời kỳ
hậu giả
tưởng *
Chú
thích * Ông Naipaul, và
bây giờ là Ngài Vidia, mới cho xuất bản một cuốn tiểu thuyết, Nửa Đời
Người,
Half a Life, năm năm sau lời tuyên bố kể trên. Chúng ta phải cám ơn
Ngài là đã
mang cái thây ma trở lại với đời sống.
Một nhà
văn lớn lao khác,
cũng người Anh, đã từng phán:
"Rõ
ràng là vào lúc này,
thế giá của tiểu thuyết xuống quá thấp. Thấp đến nỗi câu "Tớ đếch thèm
đọc
tiểu thuyết", trước đây người ta còn nói nho nhỏ, và có tí ti ra vẻ xin
lỗi, cảm phiền ở trong đó, bi giờ người ta la vỡ làng vỡ xóm, và rất ư
hãnh
diện. Nếu không có những đầu óc kha khá sấn tay vô, sợ rằng tiểu thuyết
sẽ trở
nên nhạt phèo, chẳng bõ đọc, trở thành một thứ dị dạng, giống mấy tấm
bia mộ
hiện đại."
Geoge
Orwell đã viết những
dòng trên, vào năm 1936. Người ta nói - và như Giáo sư Steiner xác nhận
- tiểu
thuyết chẳng hề có tương lai. Ngay cả những tác phẩm như Iliad và
Odyssey, khi
vừa mới ra lò đã bị mấy ông điểm sách chê lên chê xuống. Những thứ viết
tốt
luôn luôn bị tấn công, luôn luôn là bởi những nhà văn tốt. Cứ nhìn lại
lịch sử
văn học là thấy rõ, không có đại tác phẩm nào mà không bị tấn công khi
vừa mới
xuất hiện. Và [lẽ dĩ nhiên], chẳng có nhà văn nào mà yên thân với những
đồng
nghiệp của mình, một khi tiếng tăm của anh ta /chị ta có vẻ lên giá.
[Gấu tôi
lại nhớ tới lời mắng mỏ NHT, về tí tỉ tì ti danh tiếng quốc tế của ông:
mới nho
nhoe một tí mà đã...].
Aristophanes
đã từng gọi
Euripides 'tuyển tập gia những bản kẽm cũ mèm"; Samuel Pepys coi Giấc
Mộng
Đêm Hè [của Shakespeare] là 'nhạt thếch và ngu xuẩn'; Charlotte Bronte
ném tác
phẩm của Jane Austen vào thùng rác; Zola coi Ác Hoa của Baudelaire là
đồ bỏ;
Henry James coi rác rưởi, những tác phẩm Middlemarch, Đỉnh Gió Hú,
Người Bạn
Chung Của Chúng Ta. Và tất cả mọi người đều nhếch mép khinh khi Săn Cá
Voi
Trắng [Moby Dick ]. Tờ Le Figaro thông báo, khi Bà Bovary vừa được xuất
bản,
tác giả của nó, "Ông Gustave Flaubert không phải là một nhà văn".
Virginia Woolf gọi Ulysses là "thứ đồ tầm bậy, vô học"; tờ Thư Tín
Odessa viết về cuốn Anna Karenina, "một Marie Sến. [sentimental
rubbish].... (1). Hãy chỉ cho tôi một trang có một mẩu tư duy ở trong
đó."
Bây
giờ, khi giới phê bình
Đức tấn công Gunter Grass, khi, như tiểu thuyết gia người Pháp, và phê
bình gia
Guy Scarpetta cho chúng ta biết, giới văn học Ý "ngạc nhiên" về
chuyện thế giới đánh giá cao hai nhà văn Italio Calvino và Leonardo
Scascia ,
khi, những khẩu cà nông đều chĩa họng vào Saul Bellow, bắn ra những
viên đại
bác có tên là chính trị phải đạo, khi Anthony Burgess "coi nhẹ"
Graham Greene, liền tức thì sau khi ông này mất, khi, Giáo sư Steiner,
vẫn luôn
luôn đầy tham vọng như là ngài vẫn là, bắt giò bắt gân, không chỉ vài
nhà văn,
mà trọn gói văn học Âu Châu sau khi thoát ra khỏi cuộc chiến, chúng ta
hiểu
rằng họ đều đau, nỗi đau hoài nhớ một thời đại hoàng kim văn hóa, trong
đó có
tiểu thuyết, rằng đây là một hoài nhớ lập đi lập lại, giống như chu kỳ
của một
thứ bịnh hoàng đởm, về một quá khứ văn học, mà vào lúc đỉnh cao của nó,
chưa
chắc đã tới mắt cá chân, hay đầu gối của nền văn học bi giờ.
[Chú
thích: (1) Xin lỗi, đùa
nhả một tí. NQT]
Giáo sư
Steiner nói,
"Gần như là một định đề, rằng bi giờ, thứ tiểu thuyết loại gộc đến từ
vùng
biên cương xa vời, từ Ấn Độ, từ vùng biển Caribbean, từ Mỹ Châu La
Tinh,",
và một vài người sẽ cho rằng, tôi là một thằng khùng khi phản đối một
tầm nhìn
xa trông rộng, về một trung tâm tiểu thuyết đã cạn kiệt và một miền ven
biên
tràn trề sức sống. Nhưng nếu tôi có tỏ ra khùng khùng man man, một phần
là do
tiếng than van tiếc nuối cho một "Trung Nguyên" Âu Châu, của một dòng
giống Hán tộc nào đó, nói rõ hơn, chỉ một tay trí thức Tây Âu mới thốt
lên một
lời ai điếu thê lương như vậy, cho cả một nền nghệ thuật, dựa trên căn
bản,
rằng, những nền văn chương, thí dụ như của Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha
không
còn là những nền nhất đẳng văn chương ở trên trái đất này, [người ta
không
hiểu, Giáo sư Steiner coi Mỹ Châu là trung tâm, hay là ven biên, thành
thử, một
tầm nhìn xa trông rộng theo kiểu bằng bằng, chim bay là là, ở trên mặt
trái
đất, như của Giáo sư, thì thật khó mà theo cho nổi. Nhìn từ chỗ mà tôi
đang
ngồi, nền văn học Mẽo có vẻ đẹp dáng ra phết].
Vả
chăng, mắc mớ gì tiểu
thuyết loại gộc đến từ đâu, một khi mà chúng vưỡn tới? Và trái đất phèn
phẹt
nào vậy, nơi vị giáo sư tốt [the good professor] sống, với những người
La Mã
chán chường ở "Trung Nguyên" [ở trung tâm], và những người Hottentots
[một giống dân Nam Phi], và những giống dân ăn thịt người, có tài một
cách đáng
sợ, ở mãi tít ven biên? Cái bản đồ mà Giáo sư Steiner có ở trong đầu,
là một
bản đồ hoàng gia, và những đế quốc Âu Châu, thì đã tuyệt chủng từ đời
tám hoánh
nào rồi. Cả một nửa thế kỷ, mà những sản phẩm văn học của nó đã chứng
tỏ, cho
hai vị Steiner và Naipaul, sự suy thoái của tiểu thuyết cũng là nửa đầu
thế kỷ
thời kỳ hậu-thuộc địa. Đâu có chi là khó hiểu, sự kiện, một trường phái
tân
tiểu thuyết đang nở rộ, một thứ tiểu thuyết hậu-thuộc địa, "đếch cần"
một thánh địa "Trung Nguyên", [không qui tâm, de-centered],
xuyên-quốc gia, transnational, liên-ngôn ngữ, inter-lingual, "giao lưu
hòa
hợp hòa giải" văn hóa, cross-cultural; và trong trật tự mới này, hay
hỗn
loạn, hổ lốn thì cũng được, chúng ta tìm thấy một lời giải thích tuyệt
hơn, thú
vị hơn, về một vóc dáng mạnh khoẻ, đỏ da thắm thịt của tiểu thuyết hiện
đại,
hơn là quan niệm thoát thai từ Hegel, và ra cái điều bố già, [không có
Âu Châu
thì lấy đâu ra tiểu thuyết], của Giáo sư Steiner, rằng, sáng tạo có ở
miền
"ven biên", là do, đây là những khu vực "ở vào giai đoạn sớm sủa
của văn hóa trưởng giả, thuộc một thể loại hoang sơ hơn, thô lỗ hơn, và
cũng
nhiêu khê hơn".
Nói cho
cùng, từ thập niên
này tới thập niên kia, chính quyền Franco đã thành công trong việc bóp
nghẹt
dòng văn chương [viết bằng tiếng] Tây Ban Nha, chính vì vậy mà mọi cặp
mắt đều
nhắm về những nhà văn tuyệt vời vùng Mỹ Châu La Tinh. Cái gọi là trăm
hoa đua
nở ở khu vực này, là hậu quả sự ung thúi thế giới trưởng giả cũ, cũng
như sự
sáng tạo hoang sơ cái mới. Và, thật kỳ cục, khi miêu tả văn hóa cổ xưa,
phức
tạp và tế nhị [sophisticated] của Ấn Độ, là như sống trong một thời "xa
xưa hơn, hoang dại hơn", so với Tây Phương. Với những giai cấp thương
mại
lớn lao, hệ thống thư lại tỏa rộng ra mãi, sự bùng nổ kinh tế, Ấn Độ sở
hữu một
trong những nền trưởng giả rộng lớn nhất, đầy tiềm năng nhất trên thế
giới, và
nó là như vậy, bền lâu, vững chãi, chẳng thua gì Âu Châu. Một nền văn
học lớn lao,
khổng lồ, một giai cấp độc giả có học, là chẳng có chi là mới lạ đối
với đất
nước này. Cái mới, cái lạ, là, sự trồi lên, ló đầu, nở rộ, của một thế
hệ tài
năng những nhà văn Ấn Độ, viết bằng tiếng Anh (working in English). Cái
mới,
cái lạ, là 'Trung Nguyên' đã phải để ý tới một "miền ven biên"; miền
ven biên này bắt đầu nói, trong hằng hà sa số những ấn bản, một thứ
ngôn ngữ mà
Tây Phương ngày càng dễ hiểu.
Còn cái
chân dung mà Giáo sư
Steiner vẽ ra, về một Âu Châu cạn kiệt, theo như suy nghĩ của tôi, là
nhảm,
thật nhảm. Và cũng thật dễ dàng chứng minh, rằng nó nhảm, thật nhảm.
Năm chục
năm chót của nó đã cho chúng ta, chỉ kể một vài trong muôn vàn, những
tác phẩm
của Albert Camus, Graham Greene, Doris Lessing, Samuel Beckett, Italo
Calvino,
Elsa Morante, Vladimir Nabokov, Gunter Grass, Aleksandr Solzhenitsyn,
Milan
Kundera, Danilo Kis, Thomas Bernhard, Marguerite Yourcenar. Bạn có thể
làm một
danh sách của riêng bạn. Nếu tiện tay, bạn thêm vào đó những nhà văn
vượt quá
biên giới Âu Châu, thế là bạn có cả một mùa gặt giầu có như chưa từng
giầu có
như vậy, những nhà văn lớn đang sống và đang làm việc cùng một lúc -
rằng cái
sự bi quan dễ dãi của Steiner-Naipaul không chỉ làm cho chúng ta chán
ngán, mà
còn thật khó tin. Nếu Ngài Naipaul chẳng còn ao ước, và không thể viết
tiểu
thuyết nữa, chắc chắn đây là một tổn thất lớn lao cho chúng ta. Thôi
đành vậy,
chúng ta bèn tự nhủ thầm, nhưng nghệ thuật tiểu thuyết, không nghi ngờ
chi, [sẽ
bĩu dài cái môi, rằng vắng em thì chợ vưỡn cứ đông, rằng đường ta cứ
đi, ruộng
ta cứ cầy, tiểu thuyết ta cứ viết], vẫn sống nhăn răng, đếch cần tới
ông ta.
Theo
tôi, chẳng có khủng
hoảng ở nghệ thuật tiểu thuyết. Tiểu thuyết, chính là dị dạng chân
trong chân
ngoài, nửa đực nửa cái [hybrid] mà Giáo sư Steiner than thở đó. Trong
nó, có
phần tra hỏi xã hội, có tính truyền kỳ mạn lục, hồn ma bóng quế, liêu
trai chí
dị, và có luôn cả cái phần thú tội theo kiểu kể trong đêm khuya, hồi ký
viết
dưới hầm, lời thú tội của một tên sát nhân... Như thế, tiểu thuyết luôn
luôn
vượt đường ranh, về tri thức cũng như về phong thổ. Tuy nhiên, ngài
giáo sư
đúng, khi cho rằng, rất nhiều nhà văn tốt đã làm mù mờ những đường ranh
giữa sự
kiện và giả tưởng. Cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về Haile Selassie, The
Emperor,
của Ryszard Kapuscinski, là một thí dụ đầy tính sáng tạo, làm sao mù mù
ảo ảo
giữa hai miền thực và mộng. Cái gọi là thể Tân Báo Chí được phát triển
ở Mỹ,
bởi Tom Wolfe và những người khác, đúng là một toan tính thẳng thừng
trấn lột
quần áo của cô tiểu thư có tên là tiểu thuyết. Và trong trường hợp cuốn
Radical
Chic & Mau-Mauing the Flak Catchers, hay The Right Stuff, của chính
Wolfe,
toan tính trấn lột này đã thành công một cách thật là thuyết phục. Kiểu
vừa đi
đường vừa kể chuyện [xin lỗi đã chôm từ này của "Cụ Hồ"], "travel
writing", đã bung ra và ôm luôn những tác phẩm nặng tính suy tư văn
hóa,
Danube của Claudio Magris, thí dụ vậy, hay Biển Đen của Neal Ascherson.
(1)
(1):
Rushdie quên không kể,
cuốn vừa đi đường vừa kể chuyện của Claude Lévi-Strauss: Tristes
Tropiques,
Nhiệt Đới Buồn Hiu. Nhan đề này cũng gây nhiều tranh luận, khi cuốn
sách được
dịch qua tiếng Anh, do chẳng có một từ tiếng Anh nào dịch nổi "Buồn
Thiu", hay "Buồn Hiu", như trong ghi chú của người dịch, John
and Doreen Weightman, nhà xb Penguin, 1992.
Kể từ
khi cuốn này lần đầu
tiên được dịch qua tiếng Anh vào năm 1955, nó đã nổi tiếng toàn thế
giới qua
cái tên bằng tiếng Tây của nó - và do yêu cầu của M. Lévi-Strauss-
chúng tôi đã
giữ nguyên tên tiếng Tây cho lần in này. Những cái tít có thể có bằng
tiếng
Anh, như "Sad Tropics", hay "The Sadness of the Tropics",
hay, "Tragic Tropics"... không hoàn toàn chuyển hết nghĩa, hoặc hàm ý
của "Nhiệt Đới Buồn Hiu", vì từ này ôm trong nó tính hài, tính thơ...
và còn vì lời than, "Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu", của một
con hổ nhớ rừng! ["Alas for the Tropics"].
Và
trước một "tour de
force" [một tác phẩm người viết phải đánh vật với nó], thông minh, sáng
chói, như Cuộc hôn nhân của Cadmus và Harmony, của Roberto Calasso,
trong đó
việc tái thẩm định những huyền thoại Hy lạp đã đẩy độc giả tới đỉnh cao
của sự
căng thẳng và niềm hoan lạc, mà chỉ những cuốn tiểu thuyết bảnh nhất
mới có thể
làm nổi, và người đó, hoặc vỗ đùi bành bạch, hoặc nghiêng đầu chào đón
sự ra
đời của một thể loại mới, một cách viết, tuy "hình thức" thì có vẻ
như một thứ tiểu luận, nhưng "nội dung" thì tràn trề tưởng tượng [a
new kind of imaginative essay writing], hay đúng hơn, sự trở về của lối
viết
vui nhộn mà lại mang tính bách khoa của Diderot, hay của Montaigne.
Tiểu thuyết
có thể chào mừng những phát triển như vậy, mà chẳng hề lo sợ, bị đe
dọa, hoặc
lấn đất giành dân, hoặc đành phải chấp nhận một cuộc ngưng chiến da
beo! Có chỗ
cho tất cả chúng ta, nào chống cộng cực đoan, nào hận thù nam bắc, nào
giao lưu
hòa giải, hoà hợp dân tộc!
Cách
đây ít năm, tiểu thuyết
gia người Anh, Will Self cho ra lò một cái truyện ngắn tếu "Lý Thuyết
Lượng Tử Về Khùng Điên", trong đó giả dụ, con số khỏe mạnh của nhân
loại
đã được ấn định, hoặc có thể là một hằng số; nếu như vậy, toan tính
chữa bịnh
khùng cho loài người là vô ích, bởi vì một anh này ở Việt Nam, thí dụ
vậy, được
chữa khỏi, thì một ả kia ở Mẽo chẳng hạn, dính trấu. Cứ thử tưởng tượng
tất cả
chúng ta cùng ngủ chung một giường, chỉ có một cái mền, và cái mền này
- tức sự
khỏe mạnh - nhỏ quá, không đủ che cho tất cả. Một người kéo chiếc mền,
lập tức
mấy ngón chân một người khác ló ra. Đúng là quá tức cười, nhưng lạ lùng
thay,
nó làm chúng ta liên tưởng tới lập luận "cà chớn" [zaniest] của Giáo
sư Steiner, nhưng thay vì cà chớn thì giáo sư trình bầy bằng một giọng
rất ư là
nghiêm túc: rằng, tại bất cứ một thời điểm nào đã cho, đều hiện hữu một
tổng số
xác định những tài năng sáng tạo, và vào lúc này, mấy thằng chả kia ,
tôi muốn
nói, ba cái trò điện ảnh, truyền hình, và ngay cả quảng cáo, kéo cái
mền về
phiá chúng nó, thế là cô tiểu thư tiểu thuyết bị hở banh ra, nằm co ro
run rẩy
trong cái lạnh khủng khiếp của mùa đông văn hóa của chúng ta [our
cultural
winter].
Khổ một
nỗi, lý thuyết trên
đây "nhảm" ở chỗ, nó giả dụ mọi tài năng sáng tạo thì giống nhau y
chang, nghĩa là cùng một loại. Áp dụng ý niệm trên vào môn điền kinh là
thấy
ngay sự phi lý tổ bố của nó. Con số những cao thủ marathon không hề
giảm đi,
một khi môn thể thao này phổ thông mãi ra. Phẩm chất vận động viên nhảy
cao
không mắc mớ gì tới con số cao thủ nhảy sào.
Có vẻ
như sự xuất hiện những
thể loại, những hình thức mới mẻ của nghệ thuật đã cho phép nhiều nhóm
người
mới mẻ nhập vào cuộc chơi sáng tạo. Tôi biết rất ít, những đạo diễn bậc
thầy
kiêm luôn tiểu thuyết gia bậc thầy: Satyajit Ray, Ingmar Bergman, Woody
Allen,
Jean Renoir, và chỉ có thế. Nụ hôn tuyệt vời mà ông tài tử lừng danh
gốc Hy Lạp
dành cho nàng Lara ở trong phim Vĩnh Biệt Tình Em, theo bạn, liệu thay
thể nổi
[và đích xác là] mấy trang, Bác sĩ Zhivago? (1). Những cao thủ viết
kịch bản
phim, họ là những cao thủ, chắc chắn rồi, nhưng họ không suy nghĩ theo
kiểu văn
chương mà theo kiểu điện ảnh.
Nói
ngắn gọn, sự đe dọa của
những môn chơi đòi hỏi kỹ thuật cao không làm tôi lo âu nhiều, so với
Giáo sư
Steiner. Có lẽ chính sự kiện quá đơn giản, nếu nói về kỹ thuật viết
[chỉ cần
cây viết mẩu giấy], chính cái đó, đã làm cho văn chương sống sót, và cứ
sống
sót hoài. Những phương tiện biểu tỏ nghệ thuật đòi hỏi con số lớn lao
nguồn tài
chánh, kỹ thuật tân kỳ, rắc rối, tinh vi - tôi muốn nói, những trò chơi
như
điện ảnh, kịch, diã - chính vì chúng như thế, nên bị tuỳ thuộc, và do
đó, bị
kiềm chế, kiểm duyệt, trong khi, làm sao nhà nước toàn trị có thể huỷ
diệt đuợc
điều mà nhà văn lặng lẽ làm, trong cô đơn của một gian phòng?
(1)
Nguyên văn: Bạn có thể
đọc bao nhiêu trang sách đầy những chất liệu nóng bỏng của Quentin
Tarenrino,
bao nhiêu lần những tên găng tơ của ông ta nói chuyện đợp Big Macs tại
Paris,
hay là thay vì đọc, hãy nhờ mấy tay tài tử Samuel Jackson hay John
Travolta nói
giùm cho những trang sách đó?
Tôi
"chịu" Giáo sư
Steiner, khi ông ca ngợi khoa học hiện đại, 'nơi nào có vui chơi hưởng
thụ, ăn
nhậu đớp hít, là nơi đó có hy vọng, có nhiệt tình, có ý nghĩa lớn lao
về một
thế giới cứ thế mà nối vòng tay lớn mí nhau', nhưng sự bùng nổ sáng tạo
mang
tính khoa học này, tức cười thay, là một cú đá giò lái cho "lượng
thuyết
sáng tạo" [quantity theory of creativity] của ông. Ý tưởng những nhà
văn
lớn đầy tiềm năng sáng tạo bị mất đi, nhường chỗ cho sự nghiên cứu khoa
học
tiềm-nguyên tử [sub-atomic], cho lỗ đen, là một chuyện khó tin, và nếu
bạn có
nghĩ ngược lại, thì cũng khó tin chẳng kém. Chẳng lẽ những tác giả nổi
tiếng,
thí dụ như Jane Austen, James Joyce, thay vì viết văn, lại chọn một
"thiên
hướng" khác, thế là có một Newton, hay một Einstein, của thời họ?
Trong
khi tra hỏi luợng tính
sáng tạo trong tiểu thuyết hiện đại, Giáo sư Steiner đã chỉ lộn hướng
cho chúng
ta. Nếu có cái gọi là khủng hoảng tiểu thuyết ở trong văn chương những
ngày như
thế này, thì nó thuộc vào một dạng khác, không như giáo sư la hoảng.
Tiểu
thuyết gia Paul Auster
mới đây có nói với tôi, tất cả những nhà văn Mẽo đều nghĩ rằng, cái
việc viết
lách của họ đó chẳng qua là nhảm nhí, chẳng đi đến đâu, ở cái đất nước
Mẽo của
họ, nó giống như đá banh, người Mẽo không thích môn chơi thể thao đại
chúng, ít
tốn tiền, dành cho nhà nghèo này. Nhận xét này giống như một hồi âm cho
nhận xét
của Milan Kundera, trong tác phẩm tiểu luận mới nhất của ông, Những Di
Chúc Bị
Phản Bội, trong đó, ông phàn nàn, "Âu Châu đã bất lực trong việc chống
đỡ
và giải thích [giải thích một cách kiên trì cho chính nó và cho những
người
khác], rằng đệ nhất đẳng nghệ thuật của Âu Châu, là nghệ thuật tiểu
thuyết; nói
một cách khác, Âu Châu đã bất lực trong việc bảo vệ và giải thích, văn
hóa của
chính nó. "Những đứa con của tiểu thuyết đã bỏ mặc nghệ thuật tạo nên
hình
dáng của họ. Âu Châu, xã hội của tiểu thuyết, đã bỏ rơi cái tôi của
chính
nó".
Auster
đang nói tới cái chết,
nghĩa là sự hững hờ của người Mẽo, đối với việc đọc tiểu thuyết; còn
Kundera,
cảm quan về một cái chết , nghĩa là sự cắt đứt liên hệ văn hóa giữa
người đọc
Âu Châu, với sản phẩm văn hóa - ở đây, là tiểu thuyết. Cộng thêm vào
đây, đứa
trẻ ngày mai của ngài Steiner, một đứa trẻ mù chữ, mê máy điện toán đến
phát
khùng, thế là chúng ta có thể có được cái chết của việc đọc, chính nó.
Mà có
lẽ, không phải như vậy.
Bởi vì văn chương, nhất là thứ bảnh, thứ hảo hạng, không phải là món
hàng ai ai
cũng quan tâm, ai ai cũng vồ vập. Quan trọng văn hóa của nó không phải
ở chuyện
đánh đấm xếp hạng, mà là, nó bảo cho chúng ta biết, về chính chúng ta,
và chúng
ta không thể kiếm thấy những lời chỉ bảo đó, ở những môn nghệ thuật
khác. Và
thiểu số - thiểu số những con người được sửa soạn và sẵn sàng bỏ tiền
ra mua
sách tốt để đọc - thiểu số này lạ lùng sao, chưa từng nhiều như vậy, so
với
trước đây. Vấn đề phải quan tâm, là vấn đề này. Đừng lo lắng đến cái
chết của
độc giả, mà hãy để ý đến sự hoang mang, sững sờ của họ.
Tại
Mẽo, trong năm 1999, hơn
năm ngàn tiểu thuyết mới đã được xuất bản. Năm ngàn! Chỉ cần năm trăm
cuốn tiểu
thuyết có thể xuất bản được, và được viết ra trong một năm, như vậy đã
là một
phép lạ! Phép lạ biến thành "phép lạ của phép lạ", nếu trong số năm
trăm cuốn có thể xuất bản được đó, có năm chục cuốn thuộc loại tốt. Và
cả nhân
loại chúng ta sẽ mừng rú lên, nếu trong số năm chục cuốn tốt đó, có một
cuốn,
một và chỉ một mà thôi, là "một" đại tác phẩm!
Đám
xuất bản, nhà nào nhà
nấy, in sách ào ào, là bởi vì những biên tập viên tốt bị cho về vườn và
không
cần người thay thế, và ám ảnh về con số doanh thu khiến không còn phân
biệt nổi
tác phẩm xấu và tốt. Hãy để cho thị trường sách vở quyết định, hình như
đa số
các nhà xuất bản đều nghĩ như vậy. Cứ tống hàng ra, thế nào cũng có
cuốn dính!
Thế là năm ngàn cuốn bầy ê hề trên quầy, và sau đó, từ trên quầy rớt
xuống
"lò thiêu", bao thứ lửa quảng cáo cũng chẳng làm sao cứu nổi. Đúng là
một cuộc hành trình tự huỷ. Như Orwell đã nói từ năm 1936 - Bạn thấy
đấy, làm
có gì mới ở dưới ánh mặt trời - 'quảng cáo giết tiểu thuyết'. Độc giả,
thất lạc
giữa khu rừng nhiệt đới, gồm toàn là những tiểu thuyết rác rưởi, và
thấy mình
trở thành thô bỉ, vì thứ ngôn ngữ quảng cáo ngoa dụ chẳng còn có chút
giá trị
mà cuốn nào cuốn nấy tự khoác cho nó, bèn dơ cả hai tay lên trời than,
tớ chịu
thua, tớ bỏ cuộc! Mỗi năm, tớ mua chừng vài cuốn được giải này giải nọ,
có thể,
một hai cuốn của những tác giả mà tớ biết tên, và sau đó, tớ bỏ chạy!
In ào ào,
và ngoa dụ quảng cáo khiến người đọc đếch thèm đọc sách nữa! Vấn đề
không phải
là, quá nhiều những cuốn tiểu thuyết câu một số quá ít độc giả, mà là,
quá
nhiều cuốn tiểu thuyết xua đuổi một số quá ít đọc giả chạy vãi linh hồn
[1] ra quần!
Nếu in
một cuốn tiểu thuyết
đầu tay là "đánh bạc chống lại thực tại", như Giáo sư Steiner đề
nghị, thì vấn đề này phần lớn là do in ào ào, cứ nhắm mắt in cầu may,
mà ra.
Vào những ngày này, người ta nói tới một tinh thần làm ăn mới, tàn nhẫn
về tiền
bạc trong xuất bản. Nhưng cái mà người ta cần, là một sự tàn nhẫn trong
biên
tập, thứ tuyệt hảo. Chúng ta cần một cái nhìn khác, một cái nhìn trở
lại, trong
nhận định, đánh giá.
Và còn
một thứ nguy hiểm khác
nữa mà vị Giáo sư Steiner này quên không nhắc tới, đó là, sự tấn công
vào tự do
trí thức, chính nó; tự do trí thức, không có nó, không có văn chương.
Vả chăng,
đây đâu phải là nguy hiểm mới. Một lần nữa,George Orwell, vào năm 1945,
đã dâng
tặng cho chúng ta một lời khuyên thật khôn ngoan, rất ư là có giá trị
đương
thời, và xin bạn tha lỗi cho tôi, về câu trích dẫn hơi dài dòng, sau
đây:
"Vào
thời đại của chúng
ta, tư tưởng tự do trí thức bị tấn công ở cả hai phiá. Một phiá, là
những kẻ
thù lý thuyết, nhũng tên ca tụng chế độ toàn trị, [hay, những tên cuồng
tín,
nói như vậy hợp thời hơn, vào những ngày như thế này],; và ở phiá kia,
những kẻ
thù sờ sờ, đó là quốc doanh, độc quyền và thư lại. Trong quá khứ
[.....], những
ý niệm về nổi loạn và sự vẹn toàn về trí thức, chúng trùng khớp với
nhau, có
thể nói, là một. Một tay dị giáo, theo tà thuyết - về chính trị, đạo
đức, tôn
giáo, hay về cái đẹp - là một con người nào đó, người này từ chối hiếp
đáp,
chính luơng tâm của mình, từ chối vứt lương tâm của mình vào thùng rác.
[Vào
những ngày như thế này],
có một đề nghị rất ư là nguy hiểm [đó là], tự do là thứ đếch xài được,
chẳng ai
thèm [undesirable] , rằng, lương thiện trí thức là một hình thức ích kỷ
chống
lại xã hội, anti-social selfishness.
Những
kẻ thù của tự do trí
thức luôn luôn cố làm cho người ta tin rằng, nếu chúng chống tự do trí
thức, vì
đây là một điều rất cần làm, một thứ kỷ luật đề ra, vì đám đông, vì tập
thể,
một cá nhân là cái thống chế gì, so với nhân dân! Nhà văn nào mà từ
chối bán
ngòi bút của mình, chúng bèn gán cho họ là những tên vị kỷ, thứ đồ chỉ
biết có
mình nó, đâu cần biết đến người khác. Nhà văn như thế, bị buộc tội,
hoặc là, tự
nhốt mình vào trong tháp ngà, hoặc, coi mình như là một nơi trình diễn,
của
chính cá nhân mình, hoặc một kẻ đi ngược lại trào lưu của đất nước,
ngược lại
ba ngọn trào cách mạng, chỉ để nhằm bấu víu, bảo vệ những đặc quyền
không làm
sao biện minh được nữa của giới viết lách. [Nhưng], muốn viết không cần
luồn
lách, là phải suy nghĩ không sợ hãi, và nếu người nào suy nghĩ không sợ
hãi,
thì người đó không thể nào chấp nhận một đường lối chính trị chính
thống."
Sức ép
của quốc doanh độc
quyền và của chế độ thư lại, chủ nghĩa tổ hợp cá lớn nuốt cá bé, bảo
thủ, hạn
chế và thu hẹp phạm vi và phẩm chất của xuất bản, những chuyện đó, bất
cứ một
nhà văn hiện đang viết, đều biết. Về sức ép của điều không thể chấp
nhận được,
và của kiểm duyệt , bản thân tôi, mấy năm gần đây, được biết khá nhiều,
phải
nói là bội thu hiểu biết. Có rất nhiều những cuộc chiến đấu như thế
đang xẩy ra
trên thế giới: Tại Trung Quốc, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nigeria, những
nhà văn
bị kiểm duyệt, phiền nhiễu, làm khó dễ, bỏ tù, và bị giết nữa. Ngay cả
ở Âu
Châu, ở Hoa Kỳ, những "đội quân dông bão" [ám chỉ những những tên
Nazi], những tên "biệt kích" [commandos] , của đủ thứ máu nóng, lạnh,
đủ thứ "cảm tính", chúng tìm cách hạn chế tự do ăn nói của chúng ta.
Chưa bao giờ quan trọng bằng lúc này, tiếp tục bảo vệ những giá trị nhờ
chúng
mà có nghệ thuật tiểu thuyết . Cái chết của tiểu thuyết thì có thể còn
xa,
nhưng cái chết dữ dội của nhiều tiểu thuyết gia đương thời, than ôi, là
một sự
kiện không làm sao tránh được. Mặc dù vậy, tôi không tin rằng những nhà
văn lại
từ bỏ giấc đại mộng, tác phẩm của ta sẽ trường tồn cùng với hậu thế,
sau khi ta
đã ngỏm củ tỏi rồi. Điều mà George Steiner gọi một cách thật đáng yêu
"vô
thường thôi, nhưng thật là cao ngạo", của văn chương, vẫn luôn luôn
nóng
bỏng ở trong chúng ta, cho dù, như ngài giáo sư nói, chúng ta tỏ ra bối
rối,
khi phải nói ra công khai. [Trong mỗi chúng ta đều có một Sài Gòn âm ỉ
cháy.
Tôi đốt lên ngọn nến của tôi, để cho Sài Gòn của bạn sáng ngời. NQT:
Lần Cuối
Sài Gòn]. Nhà thơ Ovide đã đánh dấu chấm hết cho tác phẩm Metamorphoses
của ông
bằng những vần thơ đầy tin tưởng:
Nhưng,
với tất cả tinh hoa ở
trong tôi
Tôi sẽ
chiếm được địa vị cao
vời vợi, tuyệt vời hơn cả muôn sao
Tên của
tôi sẽ không thể xóa
nhòa và sẽ còn mãi mãi.
Tôi
chắc chắn, ở trong trái
tim của từng nhà văn, đều có cùng một tham vọng như vầy: người đời còn
nhắc nhở
đến tôi, trong những ngày sẽ tới, cùng cái điều mà nhà thơ Rilke nghĩ
về
Orpheus:
Orpheus
sẽ đời đời là thiên
sứ
Đi qua
địa ngục
Mang
cho đời hoa trái ngời
ngời.
Tháng
Năm 2000
Salman
Rushdie
Jennifer
Tran dịch
[Nguyên
bản tiếng Anh được in
trong Step Across This Line, [Hãy bước qua đường ranh này] tuyển tập
những bài
viết phi-giả tưởng 1992-2002, ấn bản bìa mỏng của nhà xb Modern
Library, 2003,
website:
http://
www.modernlibrary.com