Notes
|
Littérature
Pasternak, le Nobel de la CIA
En
1958, au cœur de la guerre
froide, l’écrivain russe reçoit le plus prestigieux des prix
littéraires. Grâce
aux bons soins prodigués par la CIA au Docteur Jivago, révèle un
nouveau livre
russe sur « l’affaire ».
Pasternak: Nobel văn chương
của Xịa!
Note: Milosz có một
bài viết về Pastetnak
thật tuyệt. Tin Văn cứ tính đi hoài, mà lu bù hoài, chưa làm sao đi
được!
ON PASTERNAK SOBERLY
Czeslaw Milosz
FOR THOSE WHO WERE FAMILIAR
with the
poetry of Boris Pasternak long before he acquired international fame,
the Nobel
Prize given to him in 1958 had something ironic in it. A poet whose
equal in Russia was
only Akhmatova, and a congenial
translator of Shakespeare, had to write a big novel and that novel had
to
become a sensation and a best seller before poets of the Slavic
countries were
honored for the first time in his person by the jury of Stockholm. Had
the prize been awarded to
Pasternak a few years earlier, no misgivings would have been possible.
As it
was, the honor had a bitter taste and could hardly be considered as
proof of
genuine interest in Eastern European literatures on the part of the
Western
reading public-this quite apart from the good intentions of the Swedish
academy.
After Doctor Zhivago Pasternak found himself entangled in the kind of
ambiguity
that would be a nightmare for any author. While he always stressed the
unity of
his work, that unity was broken by circumstances. Abuse was heaped on
him in Russia
for a
novel nobody had ever read. Praise was lavished on him in the West for
a novel
isolated from his lifelong labors: his poetry is nearly untranslatable.
No man
wishes to be changed into a symbol, whether the symbolic features lent
him are
those of a valiant knight or of a bugaboo: in such cases he is not
judged by what
he cherishes as his achievement but becomes a focal point of forces
largely
external to his will. In the last years of his life Pasternak lost, so
to
speak, the right to his personality, and his name served to designate a
cause.
I am far from intending to reduce that cause to momentary political
games.
Pasternak stood for the individual against whom the huge state
apparatus turns
in hatred with all its police, armies, and rockets. The emotional
response to
such a predicament was rooted in deep-seated fears, so justified in our
time.
The ignominious behavior of Pasternak's Russian colleagues, writers who
took
the side of power against a man armed only with his pen, created a
Shakespearian situation; no wonder if in the West sympathies went to
Hamlet and
not to the courtiers of Elsinore.
Về Pasternak, thật nhã.
Với những
người quen từ lâu với
cõi thơ
Pasternak, chuyện ông được Nobel vào năm 1958 có cái gì tiếu lâm ở
trong đó.
Một nhà thơ, mà cỡ ngang hàng với ông, ở quê hương của ông, độc nhất có
một, đó
là Bà Chúa Thơ Nga Akhmatova; một dịch giả ‘mắt xanh’ của Shakespeare;
nhà thơ
đó, dịch giả đó phải viết một cuốn tiểu thuyết tổ chảng, và cuốn tiểu
thuyết đó
gây chấn động trên khắp chốn giang hồ, và là một best-seller, chỉ tới
khi đó,
thì qua cá nhân con người là ông, cả một cõi thi ca của những xứ sở
Slavic cùng
với những thi sĩ của nó, mới được cái vinh danh được ban giám khảo
Nobel lần
đầu tiên để mắt tới! Giá mà giải
thưởng
được trao sớm hơn vài năm thì thật đỡ khổ. Chậm mấy năm mà thành
ra trong
vinh quang có tí mùi vị cay đắng, và thật khó coi đây là một bằng chứng
của cặp
mắt xanh của Tây Phương, khi nhìn về cõi thơ Đông Âu, điều này thì cũng
nằm
ngoài thiện ý của Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển.
Sau Bác sĩ Zhivago, Pasternal thấy mình lâm vào một cái thế mơ mơ hồ hồ
và quả
là một cơn ác mộng đối với bất cứ một tác giả. Trong khi ông vẫn hằng
tin vào
tác phẩm của mình như một cõi trời riêng, thì cái thế nhất quán này bèn
bị hoàn
cảnh bẻ gẫy. Ở quê hương của chính ông, lũ khốn nạn túm năm tụm ba, và,
không
chỉ rù rà rù rì, mà còn lớn tiếng chê bai, úi giào, này, có ai đã từng
đọc cuốn
tiểu thuyết được Tây phương thí cho giải Nobel của ông ta chưa? Tây
phương thì
thật hoang phí, trong cái chuyện ngợi ca ông, về một cuốn tiểu thuyết
đơn độc,
và hầu như tách hẳn ra khỏi toàn cõi thơ mà ông một đời cực nhọc lao
động. Và
cái cõi thơ đó thì lại vô phương chuyển ngữ. Chẳng có người đàn ông nào
mong
cái chuyện biến thành một biểu tượng.
|
|