old_logo
co
Jen's sister

Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
tại Kinh Môn, Hải Dương.
Quê Sơn Tây (Bắc Việt).
Vào Nam năm 1954.
Học Nguyễn Trãi (Hà-nội),
Chu văn An, Văn khoa (Sài-gòn).
Trước 1975 làm công chức Bưu Điện (Sài-gòn).
Tái định cư năm 1994 tại Canada.


Tác phẩm đã xuất bản:
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm Trắng,
do Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]

Sẽ xuất bản:
Nơi Dòng Sông
Chảy Về Phía Nam
Truyện & Ký
Thảo Trần &  Nguyễn Quốc Trụ
Tạp Ghi Văn Học
NQT
Vô Kỵ Giữa Chúng Ta
NQT
giới thiệu
Đỗ Long Vân
Nhà xuất bản Sài Gòn Nhỏ


Thường xuyên cộng tác với VHNT trên lưới.
Ngoại trừ trang Giới Thiệu, những bài viết trên Tin Văn
hầu hết xuất hiện trên
VHNT [Sao Mai]
Bạn đọc có thể truy cập những số báo cũ, nếu cần chi tiết về ngày tháng.
Bản quyền thuộc VHNT và tác giả.
Trích đăng, vô vụ lợi,
chỉ cần liên lạc chủ biên VHNT.
Cần ghi rõ xuất xứ khi sử dụng.

E_mail:
tanvien_sontay@yahoo.com


locot

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây


Nhật Ký TIN VĂN II









Ngón tay Người như những chú giun.

Mandelstam's poem on Stalin (November 193 3)1
We live, deaf to the land beneath us,
Ten steps away no one hears our speeches,

But where there's so much as half a conversation
The Kremlins mountaineer will get his mention. 2

His fingers are fat as grubs
And the words, final as lead weights, fall from his lips, 

His cockroach whiskers leer
And his boot tops gleam. 

Around him a rabble of thin-necked leaders—
fawning half-men for him to play with. 

They whinny, purr or whine
As he prates and points a finger,

One by one forging his laws, to be flung
Like horseshoes at the head, the eye or the groin.

And every killing is a treat
For the broad-chested Ossete. 3

1. This poem, which Mrs. Mandelstam mentions on page 12 and at many other points, is nowhere quoted in full in the text of her book.
2.  In the first version, which came into the hands of the secret police, these two lines read:
All we hear is the Kremlin mountaineer,
The murderer and peasant-slayer.
8. "Ossete." There were persistent stories that Stalin had Ossetian blood. Osseda is to the north of Georgia in the Caucasus. The people, of Iranian stock, are quite different from the Georgians.

Mandelstam: Chân Dung Bác Xì [Tà Lỉn]

Chúng ta sống, điếc đặc trước mặt đất bên dưới
Chỉ cần mười bước chân là chẳng ai nghe ta nói,

Nhưng ở những nơi, với câu chuyện nửa vời
Tên của kẻ sau cùng trèo tới đỉnh Cẩm Linh được nhắc tới.

Những ngón tay của kẻ đó mập như những con giun
Lời nói nặng như chì rớt khỏi môi

Ánh mắt nhìn đểu giả, râu quai nón-con gián...

Bài thơ trên có nhiều bản khác nhau. Trên, là từ hồi ký "Hy Vọng Chống lại Hy Vọng", của vợ nhà thơ, Nadezhda Mandelstam.


Hành Quân Đêm

Đứng bên lãnh tụ

Liệu liệu mà viết


Marlon Brando dies aged 80.
Tài tử Marlon Brando đã mất tại bệnh viện Los Angeles ngày thứ Năm 1 tháng Bẩy, 2004, thọ 80 tuổi.
"Anh ta là số một, đám tụi tôi đều nhìn vào anh. Khi anh mất, tụi tôi bước thêm lên một bước". Bạn lâu đời của ông, là Jack Nicholson đã có lần nhận xét.
"Công chúng đòi một điều độc nhất, ở người nghệ sĩ: Đừng làm chúng tao chán." Marlon Brando nói, về vai trò của ông.


Hãy yêu người bằng một thứ tình yêu cũ xì vì thương hại, cáu kỉnh và cô đơn.
"Aimer les hommes d'un vieil amour usé par la pitié, la colère, et la solitude".
C. Milosz: Hành Trình qua Tây Phương


Có lẽ, tôi dần đẹp lên nhờ các nhân vật mà tôi may mắn đảm nhận.

Trà Giang


Beckett, một thoáng nhớ

How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door.

Nụ cười độc nhất của chúng ta, sao dễ dàng quá vậy.
Thôi đừng ỡm ờ mà làm gì
Người đẹp đẹp thật khi thoáng qua.
Tình mình đọng lại giữa lần cửa khép.
Sách Quí
 I  II

C'est à vous que je dois tout.

Tôi đề nghị, anh đã từng làm bồi Mẽo, thì tốt nhất, lại xin đi làm bồi Mẽo, ở ngay nước Mẽo.
Nhưng nếu anh không thích Mẽo, mà có lẽ tôi đoán đúng như vậy, thì nên đi Canada. Ở đó có vùng Quebec, Montreal, nói tiếng Tây....
Tui cũng "khoái" anh đấy, nhưng nếu lấy anh, là mất một xuất dành cho mấy người kia.

Ông Tây già, chồng Cô Dung, không chỉ khám phá ra "thiên tài toán" của Gấu: Ông khám phá ra Gấu.
Không có ông, là không có Gấu.
Lẽ dĩ nhiên, vẫn có một thằng Bắc Kỳ, với số phận hẩm hiu của nó, chỉ biết tới luỹ tre đầu làng mình, rồi luỹ tre đầu làng Vân, quê ngoại mình...

Nhờ ông Tây, Gấu có giấc mơ "vượt biển" đầu tiên. Đó là giấc mơ, cố học cho giỏi tiếng Tây, để viết một cái thư bằng tiếng Tây, cám ơn một ông Tây thuộc địa.

Giấc mơ đó có gì tương tự với trường hợp cô bé câm. Một khi biết đọc biết viết tiếng Tây, thì những dòng tiếng ngoại đầu tiên đó, sẽ là, " C'est à vous que je dois tout": Cám ơn ông, nhờ có ông mà có Gấu tui....

Nếu đi hết biển
  I, 3, 4

Tác phẩm văn học, theo tôi, luôn có một nhan sắc thầm, như để dành riêng cho một bạn tri âm của nó. Bạn phải ở một tuổi nào, đó, sống một cuộc đời, như thế nào, đó, thì mới đọc được, nó. Tôi muốn nói mới nhận ra được cái nhan sắc thầm kia.
Thí dụ, như mọi người đều biết, Nguyễn Tuân, một con người rất tài hoa, với những dòng văn rất tài hoa. Nhưng cái nhan sắc thầm của ông, lại là những câu văn rất mộc mạc, như thể những tài hoa nhất mực như thế, là chỉ để làm bật ra cái mộc mạc kia. Hoặc giấu biệt nó, trước những cặp mắt phàm phu tục tử. Có lần tôi đã sử dụng huyền thoại mắt xanh, mắt trắng để nói về hai cái đẹp, một sắc sảo, một mộc mạc của văn Nguyễn Tuân. Với độc giả, bất kỳ độc giả, là cặp mắt trắng dã, là nét đẹp tài hoa, nhưng với một tri âm, ông lôi cái món ăn ông thích nhất, thí dụ, món cơm nắm ăn với muối vừng, tức cái mộc mạc giản dị, của một nhà văn miền bắc.

Nhưng Steiner - cũng vẫn huyền thoại mắt xanh mắt trắng, cái tài hoa, cái mộc mạc, tức ý tưỏng trên - lại diễn tả bằng một cách khác, như để áp dụng riêng cho văn chương thời kỳ hậu Lò Thiêu, như trích đoạn sau đây:

-Ông vẫn còn thích viết giả tưởng?
-Vâng, nhưng tôi chưa vươn tới tầm, xứng với những đề tài làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ trở đi trở lại hoài với khởi đầu một câu chuyện, hay là một cuốn tiểu thuyết nho nhỏ, về một đề tài như sau: chúng ta hoặc đang ở một hòn đảo Hy Lạp thời kỳ mấy ông tướng, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hay Nam Mỹ: bất cứ một nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một chế độ cảnh sát trị. Một người đàn ông trở về nhà với vợ con, và vào cái lúc họ đi vô giường ngủ, hay ở bàn ăn, bà vợ ngửi thấy mùi tra tấn ở ông chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh ta chẳng bao giờ nói về chuyện đó, vậy mà các bà biết: họ biết họ đang chia giuờng sẻ gối với những người đàn ông đã làm gì với thân thể của những người đàn ông đàn bà khác. Cội nguồn xa xưa nhất của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người đàn bà không chịu ngủ với chồng, cho tới khi họ ngưng chém giết. Ở đây, không chỉ là chuyện họ không chịu ngủ với chồng, nhưng một căn bệnh khủng khiếp bắt đầu xâm nhập vô ngay chính hành động ái ân, và sau cùng những người đàn bà bắt đầu làm thịt mấy ông chồng. Lại còn chuyện những đứa trẻ nữa: làm sao chúng sống, với sự hiểu biết về điều người cha làm?
[Phỏng vấn Steiner]

Ngửi ra cái mùi đồ tể, là từ những dòng văn dòng thơ, cũng nói về cái ác, của một cõi người rung chuông tận thế, của mấy ông an ninh chìm, trong thế giới toàn trị. Những bà vợ của mấy ông này, do không đọc văn, nên ngửi thấy nó, ở nơi bữa ăn tối cùng với gia đình, khi bước vào phòng ngủ bên bà vợ....

Thế nào là bỏ chạy cuộc chiến?
Có khi bạn sống ở Sài Gòn, trong những ngày tháng cay nghiệt như thế đó, mà vẫn chỉ là một thứ bỏ chạy cuộc chiến.
Linda Lê, rời Việt Nam năm 14 tuổi, mang theo được gì, từ cuộc chiến, từ cái gia tài của mẹ, vậy mà bà vẫn sống, tôi muốn nói, luôn đối đầu với Cái Chết Việt Nam? Bà lấy ở đâu ra, cái xác chết, là đứa trẻ Việt Nam, mà bà luôn cưu mang đó?
Cái xác chết, như tôi hiểu được, cũng là cái bản đồ Việt Nam tỉ lệ xích 1/1 rách nát, mà người Việt cố mang ra ngoài này để vá víu lại.
Văn chương Việt Nam hải ngoại, theo tôi, là một toan tính làm sống lại một đứa trẻ đã chết, mà Linda Lê luôn cưu mang ở trong bà.
Trường hợp những nhà văn hậu thuộc địa, và tiếp đó, thời toàn cầu hoá, như Linda Lê, như Salman Rushdie...  cho thấy, viết văn bằng ngôn ngữ vay mượn có lẽ là...  cách tốt nhất, để làm một nhà văn... bản xứ! Đây là điều Kertesz nhận ra, khi cho rằng, bất cứ một nhà văn, đều là nhà văn của Lò Thiêu, một thứ cô hồn vất vưởng mong tìm nơi nương náu, ở nơi nao nếu không là ở trong tiếng nước người?


Đọc Linda Lê:
Phỏng vấn.
Les Trois Parques
Tôi có cảm tưởng tôi cưu mang một xác chết. Rõ ràng, đó là Việt-nam mà tôi mang trong tôi, như một đứa trẻ chết.
Phỏng vấn nhân dịp phát hành Thư Chết

Lưu Vong và Tiểu Thuyết