old_logo
co
Jen's sister

Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
tại Kinh Môn, Hải Dương.
Quê Sơn Tây (Bắc Việt).
Vào Nam năm 1954.
Học Nguyễn Trãi (Hà-nội),
Chu văn An, Văn khoa (Sài-gòn).
Trước 1975 làm công chức Bưu Điện (Sài-gòn).
Tái định cư năm 1994 tại Canada.


Tác phẩm đã xuất bản:
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm Trắng,
do Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]

Sẽ xuất bản:
Nơi Dòng Sông
Chảy Về Phía Nam
Truyện & Ký
Thảo Trần &  Nguyễn Quốc Trụ
Tạp Ghi Văn Học
NQT
Vô Kỵ Giữa Chúng Ta
NQT
giới thiệu
Đỗ Long Vân
Nhà xuất bản Sài Gòn Nhỏ


Thường xuyên cộng tác với VHNT trên lưới.
Ngoại trừ trang Giới Thiệu, những bài viết trên Tin Văn
hầu hết xuất hiện trên
VHNT [Sao Mai]
Bạn đọc có thể truy cập những số báo cũ, nếu cần chi tiết về ngày tháng.
Bản quyền thuộc VHNT và tác giả.
Trích đăng, vô vụ lợi,
chỉ cần liên lạc chủ biên VHNT.
Cần ghi rõ xuất xứ khi sử dụng.

E_mail:
tanvien_sontay@yahoo.com


locot

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây


Nhật Ký TIN VĂN II










Màu áo hoàng lan hương kiếp trước
Giữa đời ngước mắt dõi chiêm bao
Muối mặn chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng cay đắng tới ngàn sau
Trắc ẩn nụ cười tan tác lệ
Núi sông xương máu một câu thề
Người đi đi mãi chưa về
Cây đa bến cũ hồn quê đợi chờ
Chút tình tự thuở ngây thơ
Phất phơ mái tóc nguyệt mờ trăm năm.
Cây Đa Bến Cũ Hồn Ta  Joseph Huỳnh Văn làm đúng vào năm 1975.
Mấy bài thơ viết về Nguyễn Thái Học và Yên Báy đã được sửa lại một vài chữ sai, sau khi có được nguyên bản.  Tin Văn

Tường Lửa hay không Tường Lửa, đó là vấn đề.
Trên một diễn đàn net [Thăng Long], một độc giả đã viết:
"Phản ứng về mặt chính sách của Việt Nam hiện nay với internet, rất giống phản ứng của nhà Nguyễn với Thiên Chúa Giáo cách đây 200 năm.
Nếu nhìn vào cấu trúc xã hội tương đối giữa Việt Nam và thế giới, thì hiểu vì sao hai xã hội cách nhau 2 thế kỷ vẫn hành xử không khác nhau."


"great poetry 'hurt' her into prose."

Bạn ta đành chọn làm nhà văn, thay vì làm nhà thơ.

Mượn ý thơ Holderlin, "Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng", Thanh Tâm Tuyền, trong bài tưởng niệm Mai Thảo trên tạp chí Thơ, cho rằng Mai Thảo đã trốn thơ, đành lòng làm nhà văn, cho tới khi không thể trốn được nữa, và chúng ta có Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền.
Nhưng có khi thơ không thể làm được điều chỉ văn xuôi mới làm được, như Joseph Brodsky viết về hai cuốn hồi ký của
Nadezhda Mandelstam [1899-1980], Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng, hay Hy Vọng Dù Không Còn Hy Vọng, Hope Against Hope, và Hy Vọng Rã Rời: Những cuốn sách này làm sáng tỏ ý thức quốc gia [these books elucidated the consciousness of the nation].

Nhà thơ nhắc tới một nhận xét của nhà thơ Auden, về Nadezhda: "great poetry 'hurt' her into prose." Bà là vợ một nhà thơ lớn, Osip Mandelstam, và là bạn một thơ lớn khác, là nữ thi sĩ Akhmatova. Chính hai cõi thơ vĩ đại này đã "hurt" [to hurt: làm tổn thương] bà vào trong văn xuôi. Nên nhớ, Quần Đảo Gulag còn có cái tiểu đề là "Thử Nghiệm Điều Tra Văn Học" [An Experiment in Literary Investigation]. Thử nghiệm này thì đầy rẫy ở trong hai cuốn hồi ký của Nadezhda.
"Trong 81 năm của cuộc đời của bà, Nadezhda Mandelstam trải qua 15 năm, là vợ nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, và của thế kỷ này. Và 42 năm, là bà vợ goá của ông. Còn lại là tuổi thơ và những năm vừa mới lớn.
"Trong mấy chỗ văn chương, là vợ góa của một nhà thơ lớn là một tấm căn cước bảnh nhất về mình. Điều này lại càng đúng, vào những năm 1930 và 1940, chế độ đã sản xuất ra quá nhiều những bà vợ góa của văn thi sĩ, đến nỗi vào giữa thập niên 1960, mấy bà đủ túc số để tổ chức một 'hợp tác xã của những góa phụ văn thi sĩ'."
J. Brodsky nhắc lại lời của một nhà li khai nổi tiếng - ông li khai này vừa nói vừa lắc lắc chòm râu: "Bà [Nadezhda] "ị" lên cả một thế hệ của chúng ta". [She shat on our entire generation].
[Liệu có thể mượn "ý" trên, để nói về DTH?]
Brodsky nói về mấy ông văn thi sĩ tự nén mình trước quyền uy:
Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần.
[There is something in the consciousness of literati that cannot stand the notion of someone's moral authority. They resign themselves to the existence of a First Party Secretary, or of a Fuhrer, as to a necessary evil, but they would eagerly question a prophet. This is so, presumably, because being told that you are a slave is less disheartening news than being told that
morally you are a zero.


If a poet has any obligation toward society, it is to write well. Being in minority, he has no other choice.
[Hỡi thi sĩ, hãy làm thơ cho thật hay, nếu như mi có một bổn phận nào đó đối với đám người đông đảo kia.
Trong thiểu số đếm trên đầu ngón tay, mi đâu có một chọn lựa nào khác?].
J. Brodsky: To Please a Shadow: Hãy làm Hài Lòng một Cái Bóng

Bởi vì những văn minh đều có hạn kỳ cho nên sinh mệnh của mỗi văn minh đều tới thời khắc mà những trung tâm không còn trụ nổi nữa. Lúc ấy, cái giữ cho các nền văn minh khỏi bị phân hủy không phải là những đạo quân mà là những ngôn ngữ. Đó là trường hợp xẩy ra với La Mã, và trước đó nữa, với Hy Lạp Cổ Đại.  Công việc trụ giữ vào những thời đó, là được thực hiện do những người từ các tỉnh, từ vùng biên. Trái với niềm tin phổ quát, những vùng biên không phải là nơi thế giới tận cùng mà chính là nơi thế giới tan rã. Điều tác động lên ngôn ngữ chẳng khác gì điều tác động lên con mắt.
Because civilisations are finite, in the life of  each of them comes a moment when centers cease to hold. What keeps them at such times from desintegration is not legions but languages. Such was the case with Rome, and before that, with Hellenic Greece. The job of holding at such times is done by the men from the provinces, from the outskirts. Contrary to popular belief, the outskirts are not where the world ends - they are precisely where it unravels. That affects a language no less than an eye.
Joseph Brodsky: The Sound of the Tide [Hải Triều Âm: Dẫn vào thơ Derek Walcott, Poems of the Caribean].


Viết lớn là ngồi xổm lên công chúng. [Bởi chưng] nỗi mang nặng đẻ đau của nó là từ trong xương trong tuỷ mà ra.
[Much great writing has no need of the public dimension. Its agony comes from within].
Rushdie: Ghi về Viết và Nước.
[Gửi NHT]


Cuốn sách quí nhất của tôi, là tờ thông hành.
Salman Rushdie
Sau ba ngày học tập cải tạo tại chỗ, nghĩa là tại ngay cơ quan Bưu Điện Sài Gòn, khi bước ra, Gấu không còn một tờ giấy tùy thân, và sống trong trình trạng bất hợp pháp như thế đó, cho đến ngày bỏ chạy quê hương.
Đúng ra cho tới ngày nhận những "cuốn sách quí" như thế này:

lenh_tha

Tưởng Niệm Roland Barthes
Chúng ta viết cho ai?
Nếu đi hết biển
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư