Cây đa bến cũ hồn ta
Màu áo
hoàng lan hương kiếp trước
Giữa đời
ngước mắt dõi chiêm bao
Muối mặn
chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng
cay đắng tới ngàn sau
Trắc
ẩn nụ cười tan tác lệ
Núi sông xương máu một câu thề
Người
đi đi mãi chưa về
Cây đa bến cũ hồn quê đợi chờ
Chút
tình tự thuở ngây thơ
Phất
phơ mái tóc nguyệt mờ trăm năm.
Cây Đa Bến Cũ
Hồn Ta Joseph Huỳnh Văn làm đúng vào năm 1975.
Mấy bài thơ viết về Nguyễn Thái Học và Yên Báy đã được sửa
lại một vài chữ sai, sau khi có được nguyên bản.
Tin Văn.
Tường Lửa
hay không Tường Lửa, đó là vấn
đề.
Trên một
diễn
đàn net [Thăng Long], một "độc giả" đã viết:
"Phản
ứng về
mặt chính sách của Việt Nam hiện nay với internet, rất
giống phản ứng của nhà Nguyễn với Thiên Chúa Giáo cách đây 200 năm.
Nếu nhìn
vào
cấu trúc xã hội tương đối giữa Việt Nam và thế giới, thì
hiểu vì sao hai xã hội cách nhau 2 thế kỷ vẫn hành xử không khác nhau."
Bronte love letters on show
Martin
Wainwright
Saturday
June
5, 2004
The
Guardian.
Trong
vòng tay
[tưởng tượng, của] ông thầy.
Bốn lá
thư
tình nhức nhối của Charlotte Bronte, tác giả
Jane Eyre, gửi cho ông thầy, hiện đang
được trưng bầy tại Haworth, [Anh quốc]:
Chính tại đây,160 năm về trước, cô học trò đã trước tác những
dòng thư đau thương này, đúng
vào thời kỳ bị con ma tình hành hạ vào năm 1844,
nhưng bị ông thầy quăng vào thùng rác, nhờ bà vợ ghen tuông chắp
vá lại mà còn cho hậu thế.
Được cô
con
gái
trình
cho ông bố lần thứ nhì, vào lúc ông đang ngắc ngoải, ông thầy bèn vứt
thêm một
lần thứ hai vào thùng rác!
Một vài
dòng
thư: Nếu thầy mà lấy hết đi tình bạn giữa đôi ta,
đời em sẽ chẳng còn chút chi hy vọng... Em đâu biết tình bạn nghĩa là
chi, ...
nhưng em ôm lấy tình bạn giữa thầy mí em, như ôm lấy đời mình....
[If my
master
withdraws his friendship from me entirely, I
shall be absolutely without hope...
"I should not know what to do with a friendship entire and
complete... I hold on to it as I would hold on to life.'].
Mối tình
thầy
trò trên đã là hứng khởi cho Bronte viết
Villette, một cô gái trẻ Anh mê ông thầy người Bỉ.
Cuốn
Jane Eyre
xuất bản năm 1847, sau đó là những cuốn tiểu thuyết lớn lao khác,
trước
khi nữ văn sĩ mất năm 38 tuổi. Còn ông
thầy Heger, người Bỉ, đã ứng xử thật là "phong nhã" trong suốt cuộc
tình, trở thành một trong những vị giáo sư giỏi giang nhất của học viện
hoàng
gia, Belgium's Athenee Royal academy, mất năm 1896, tức là 41 năm sau
cô học
trò đáng thương đã say mê ông thầy [his unhappy admirer].
Bạn
ta đành chọn làm nhà văn, thay vì làm nhà thơ.
Thanh
Tâm Tuyền viết về Mai Thảo như vậy, trong bài khóc bạn: Trong
đất trời nhau
Mới đây, đọc Brodsky khóc Nadezhda Mandelstam [1899 - 1980], vợ nhà thơ
lớn của Nga là Osip Mandelstam, bị Stalin giết hại, Gấu tôi thấy, ông
nhắc lại một ý của nhà thơ Auden, về Nadezhda: "great poetry 'hurt' her
into prose."
Bà là vợ một nhà thơ lớn, và là bạn một thơ lớn khác, là nữ thi sĩ
Akhmatova. Chính hai cõi thơ vĩ đại này đã "hurt" [to hurt: làm tổn
thương] bà vào văn xuôi, và
là tác giả của hai tập hồi ký - một cách nào đó, chẳng thua gì Quần Đảo
Ngục Tù của Solzhenitsyn - là Hy
Vọng Chống Lại Hy Vọng, hay Hy
Vọng Dù Không Còn Hy Vọng, Hope Against Hope, và Hy Vọng Rã Rời.
Nên nhớ, Quần Đảo Gulag còn
có cái tiểu đề là "Thử Nghiệm Điều
Tra Văn Học" [An Experiment in Literary Investigation]. Thử
nghiệm này thì đầy rẫy ở trong hai cuốn hồi ký của Nadezhda.
"Trong 81 năm của cuộc đời của bà, Nadezhda Mandelstam trải qua 15 năm,
là vợ nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, và của thế kỷ này. Và 42 năm, là bà
vợ goá của ông. Còn lại là tuổi thơ và những năm vừa mới lớn.
"Trong mấy chỗ văn chương, là vợ góa của một nhà thơ lớn là một tấm căn
cước bảnh nhất về mình. Điều này lại càng đúng, vào những năm 1930 và
1940, chế độ đã sản xuất ra quá nhiều những bà vợ góa của văn thi sĩ,
đến nỗi vào giữa thập niên 1960, mấy bà đủ túc số để tổ chức một 'hợp
tác xã của những góa phụ văn thi sĩ'."
J. Brodsky nhắc lại lời của một nhà li khai nổi tiếng - ông li khai này
vừa nói vừa lắc lắc chòm râu:
"Bà [Nadezhda] ị lên cả một thế hệ của chúng ta". [She shat on our
entire generation].
Tiện thể, Brodsky nói luôn về mấy ông văn thi sĩ bán [rẻ?] họ:
"Có một điều gì đó trong tâm thức giới văn, nó không giống thái độ đạo
đức của một phó thường dân. Họ bán mình cho một Ngài Tổng Bí Thư, hay
cho một Fuhrer, hay cho một cái ác cần thiết [a necessary evil, chữ của
Brodsky], và sau đó, về nhà, tra hỏi nhà tiên tri. Tại sao vậy? Ông
giải thích, có lẽ
bởi vì bị người ta nói thẳng vào mặt, mi là một tên tà lọt, một thằng
điếu đóm không đến nỗi nhức nhối cho bằng, bị coi là một con số không
to tổ bố. Một tên vô tài."
If
a poet has any obligation
toward society, it is to write well. Being in minority, he has no other
choice.
[Hỡi tên thi sĩ kia, hãy làm thơ cho thật hay, nếu như mi có một bổn
phận nào đó đối với đám người đông đảo kia.
Trong thiểu số đếm trên đầu ngón tay, mi đâu có một chọn lựa nào khác?].
J.
Brodsky: To Please a Shadow: Hãy làm Hài Lòng một Cái Bóng
Bởi
vì
những văn minh đều có hạn kỳ cho nên sinh mệnh của mỗi văn minh đều tới
thời khắc mà những trung tâm không còn trụ nổi nữa. Lúc ấy, cái giữ cho
các nền văn minh khỏi bị phân hủy không phải là những đạo quân mà là
những ngôn ngữ. Đó là trường
hợp xẩy ra với La Mã, và trước đó nữa, với Hy Lạp Cổ Đại. Công
việc
trụ giữ vào những thời đó, là được thực hiện do những người từ các
tỉnh, từ vùng biên. Trái với niềm tin phổ quát những vùng biên không
phải là nơi thế giới tận cùng mà chính là nơi thế giới tan rã. Điều đó
tác động lên ngôn ngữ chẳng khác gì điều tác động lên con mắt.
Because civilisations are finite, in the life of each of them
comes a moment when centers cease to hold. What keeps them at such
times from desintegration is not legions but languages. Such was the
case with Rome, and before that, with Hellenic Greece. The job of
holding at such times is done by the men from the provinces, from the
outskirts. Contrary to popular belief, the outskirts are not where the
world ends - they are precisely where it unravels. That affects a
language no less than an eye.
Joseph Brodsky: The Sound of the Tide [Hải Triều Âm: Dẫn vào thơ Derek
Walcott, Poems of the Caribean].
... and either
I'm nobody, or I'm a nation.
...
hoặc ta chẳng là ai, hoặc ta là quốc gia.
Derek
Walcott
Viết lớn là
ngồi
xổm lên công chúng. [Bởi chưng] nỗi mang nặng đẻ đau của nó là từ trong
xương
trong tuỷ mà ra.
[Much great writing has no need of the public dimension. Its agony
comes from within].
Rushdie: Ghi về Viết và Nước.
Cuốn sách quí giá nhất của tôi, là tờ
thông hành.
Salman
Rushdie
Nhân
đây cũng xin được nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười
năm
trời, kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp Panat Nikhom ở Thái
Lan, với
tờ giấy mầu vàng "landed immigrant" [di dân thường trú], vượt hai đại
dương, tới thành phố Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết, trận bão
tuyết khủng khiếp nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa phương lúc
đó, 44 độ âm. Đó là ngày 23 tháng 11 năm 1994.
Trên
mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu như vậy là quá trễ
chăng?
Tưởng
Niệm Roland Barthes
Chúng ta viết
cho ai?
Nếu
đi hết biển
Truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư