*


    

*
[Hình lấy từ báo Le Monde]
La romancière vietnamienne Duong Thu Huong
sur le plateau de l'émission littéraire de TF1,
"Vol de Nuit", le 31 janvier 2006. (1)

Chính cái đau khổ làm tôi viết
Raphaelle Rérolle – Le Monde 10-02-1006

Ánh mắt Dương Thu Hương sáng lên khi bà nói về bộ môn thể dục dụng cụ hay bộ môn bóng bàn bà luyện tập khi còn trẻ. Ánh mắt này không giống với ánh mắt nghiêm trang, trầm trọng, khi nói về những quyển sách của bà. Ngay từ đầu, cô gái sinh trưởng từ “gia đình cách mạng” ở Thái Bình, vùng hạ lưu sông Hồng, không mảy may nghĩ mình sẽ là văn sĩ mà chỉ mơ mình là nhà vô địch thể dục thể thao. Rồi chế độ độc tài, chiến tranh rồi lại chế độ độc tài làm bay hết giấc mơ tuổi thơ. Bà giải thích “chính cái đau khổ làm tôi viết. Tác phẩm của tôi không tách rời với xã hội tôi đã sống.” Hai biến cố đáng kể làm “xoay chiều” cuộc sống của nhà văn nổi tiếng vì sự sáng suốt của mình.

Biến cố thứ nhất trong chiến tranh. Vào thời đó, cô gái trẻ Dương Thu Hương điều khiển ban văn công lưu động hành quân dọc vùng vĩ tuyến 17 là vùng bị dội bom nhiều nhất ở Việt Nam. Lệnh ban ra: “Tiếng hát át tiếng bom” để giải trí cho binh lính và thương binh. Vét hết sức lực để “sống còn thì làm sao còn nghĩ đến thơ văn và chính trị,” một hôm Dương Thu Hương gặp một toán tù binh Nam Việt Nam “người nhỏ bé và họ cũng là người Việt.” Đối với chiến sĩ trẻ yêu nước Dương Thu Hương, đây là một cú sốc kinh khủng vì trong đầu cô, cô chỉ nghĩ đi ra trận là để đánh kẻ thù người Mỹ. Lúc đó cô nghĩ: chúng tôi là những tù binh bị nhốt trong một thung lũng đen tối và những gì người ta tuyên truyền cho chúng tôi là sai bét.”

Biến cố thứ nhì xảy ra trong một buổi họp các nhà văn năm 1985. Đã nổi tiếng với các truyện ngắn và tiểu thuyết Bên Kia Bờ Ảo Vọng (Au-delà des illusions nhà xuất bản Philippe Picquier, 1996), bà được mời để nói trước công chúng. Và bà nói những gì? Nói những lời nịnh bợ mà mọi người chờ để nghe, còn lâu: các văn sĩ Việt Nam là các cán bộ đội lốt văn sĩ, bà xác nhận như thế, họ là những người ăn lương làm theo lệnh của chế độ, những người viết bài tuyên truyền dưới quyền của Đảng. Cả hội trường im lặng như tờ, sau đó một bộ trưởng đến đe dọa bà, tố cáo bà phản bội và cuối cùng ông khuyên các người khác tránh xa bà.

Và họ làm tức khắc: “Đến giờ điểm tâm, trong một tiệm ăn quốc doanh, tôi ngồi một mình một cái bàn dọn cho sáu người ăn với năm tô phở bốc khói, năm dĩa bánh và năm ly cà phê và thêm phần của tôi. Các người phục vụ nhìn tôi như ma quỷ. Để chứng tỏ là tôi khinh thường họ, là họ không làm cho tôi sợ, dù các phần ăn quá khổng lồ đối với tôi, tôi buộc lòng phải ăn hết. Ngày hôm đó, tôi hiểu thế nào là hèn nhát.”

Từ đó bà viết liên tục để nói những gì bà cần nói. Cho đến ngày bà vào tù, bảy tháng tù năm 1991 (bà học tiếng Pháp trong tù). Từ cuối những năm 1980, các sách của bà bị cấm in ở Việt Nam nhưng dù vậy vẫn được lén lút lưu hành. Ở Pháp lần đầu tiên nhà xuất bản Editions de l'Aube xuất bản quyển Chuyện Tình Kể Trước Lúc Rạng Đông (Histoires d'amour avant l'aube, 1991), sau đó là các nhà xuất bản Femmes và Philippe Picquier xuất bản các sách của bà.

  AFP/PIERRE ANDRIEU

(1) Dương Thu Hương trên đài truyền hình TF1, "Vol de Nuit", ngày 31-01-2006.

Entretien

"C'est la douleur qui me fait écrire"

LE MONDE DES LIVRES | 09.02.06 | 14h36 

 Quand elle parle des barres parallèles, du cheval d'arçon ou des heures qu'elle passait à jouer au ping-pong dans sa jeunesse, il faut voir le plaisir qui fait briller les yeux de Duong Thu Huong. Rien de commun avec la lueur sérieuse qui surgit quand elle parle de ses livres. C'est qu'à l'origine, cette jeune fille issue d'une "bonne famille révolutionnaire" de la région du delta du Fleuve rouge, dans la province de Thai Binh, n'avait pas prévu de devenir écrivain mais championne de gymnastique. Et puis la dictature, la guerre et encore la dictature sont passées par-dessus ces rêves d'enfance. "C'est la douleur qui m'a fait écrire, explique-t-elle. Mon oeuvre est inséparable de la société où j'ai vécu." Deux événements, notamment, ont constitué des "virages" dans la vie de cet écrivain réputé pour sa lucidité.

 Le premier s'est produit pendant la guerre. A l'époque, la toute jeune Duong Thu Huong avait été engagée pour diriger une troupe de théâtre ambulant, qui se déplaçait le long de la ligne de feu, au 17e parallèle (la région la plus bombardée du Vietnam). Mot d'ordre : "Chanter plus haut que les bombes" pour distraire les soldats et les blessés. Accaparée par "la nécessité de survivre, qui ne laisse pas beaucoup de temps à la poésie, ni à la politique", Duong Thu Huong croise un jour une colonne de prisonniers sud-vietnamiens, "tout petits et complètement vietnamiens, eux aussi". Pour la jeune patriote qui croyait se battre contre l'ennemi américain, c'est un choc terrible. "J'ai pensé : nous sommes prisonniers d'une vallée obscure et tout ce qu'on nous raconte est faux."

 Le deuxième grand chamboulement a eu lieu lors d'un congrès d'écrivains, en 1985. Déjà reconnue pour ses nouvelles et son roman Au-delà des illusions (éd. Philippe Picquier, 1996), Duong Thu Huong est invitée à parler en public. Et que dit-elle ? Pas les flatteries auxquelles tout le monde s'attend, loin de là : les écrivains vietnamiens sont des fonctionnaires déguisés en écrivains, affirme-t-elle, des salariés aux ordres du régime, des propagandistes qui écrivent sous la férule du parti. Suit un silence glacial, avant qu'un ministre ne vienne à la tribune pour la menacer, l'accuser de traîtrise et finalement conseiller aux autres de la mettre à l'écart.

 Ce qu'ils s'empressent de faire : "A l'heure du déjeuner, dans le restaurant étatique, je me suis retrouvée toute seule à une table de six, avec cinq soupes fumantes, cinq assiettes de gâteaux et cinq cafés en plus des miens. Les serveurs me regardaient comme un monstre. Alors, bien que les portions aient été énormes pour moi, je me suis forcée à finir, pour leur montrer à tous que je les méprisais, qu'ils ne me faisaient pas peur. Ce jour-là, j'ai découvert ce qu'était la lâcheté."

 Depuis Duong Thu Huong n'a jamais cessé d'écrire, de dire ce qu'elle avait à dire. Jusqu'à être jetée en prison, durant sept mois en 1991 (c'est d'ailleurs là qu'elle a appris le français). Ses livres, qui sont interdits au Vietnam depuis la fin des années 1980, continuent, vaille que vaille, de circuler sous le manteau. En France, ils ont été publiés pour la première fois par les Editions de l'Aube (Histoires d'amour avant l'aube, 1991), puis par les éditions des Femmes et les éditions Philippe Picquier.

 Raphaëlle Rérolle

Article paru dans l'édition du 10.02.06