Dịch giả Lê
Quang: “Sách Nobel có khi còn sai chính tả”.
Ông này không
chỉ cho thấy sai chính tả như thế nào. Sai chính tả theo cái kiểu lỗi
nhà in?
Hay sai văn phạm? Sai cấu trúc câu?
Lỗi thủ công
là cái lỗi gì? Lỗi của ông thợ sắp chữ? Thế thì liên can gì đến người
viết, nhà
văn?
Tiếng Việt,
của… Cô Tư, đầy lỗi chính tả, đâu có
sao? Nhà văn lớn bạn quí của GCC, dân Nha Trang, viết hỏi ngã trật tùm
lum, có
sao đâu?
Phán trời ơi
như thế, thì ai cũng phán được hết. Nhà thơ hải ngoại NDT nghe tông
tông Thiệu đọc
diễn văn mất nước mà còn nhận ra sai văn phạm nữa là… sách Nobel!
Phán kiểu này
mà dịch sách Nobel mà dịch 1 tác giả như Elfriede Jelinek, Gấu nghi quá!
Bà này đâu phải thứ thường?
Press
Release
The Nobel
Prize in Literature 2004
The Nobel
Prize in Literature for 2004 is awarded to the Austrian writer Elfriede
Jelinek, "for her musical flow of voices and counter-voices in novels
and
plays that with extraordinary linguistic zeal reveal the absurdity of
society's
clichés and their subjugating power".
The Swedish Academy
Giải Nobel
văn học năm 2004 được trao tặng cho nhà văn Áo, Elfriede Jelinek, cho
"dòng chảy âm nhạc của những tiếng nói và những tiếng nói đối nghịch
của
bà, trong những tiểu thuyết và kịch bản, mà, bằng nỗi đắm say phi
thường về
ngôn ngữ, những tác phẩm đó phơi ra sự phi lý của những khuôn sáo xã
hội và cái
quyền lực chế ngự của chúng." (1)
Tiểu sử
Elfriede
Jelinek sinh ngày 20 tháng Mười 1946 tại thành phố Murzzuschlag, vùng
đất
Styria thuộc Áo quốc. Cha, gốc Do Thái-Tiệp Khắc, là một nhà hóa học,
làm việc
trong ngành sản xuất kỹ nghệ quan trọng có tính chiến lược, nhờ vậy mà
thoát vụ
bách hại trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến.
"My
writings are limited to depicting analytically, but also polemically,
the
horrors of reality. Redemption is the speciality of other authors, male
and
female."
[Viết của
tôi hạn chế trong việc miêu tả, theo cách phân tích, mà cũng có tính
tranh luận,
những điều ghê rợn của thực tại. Cứu chuộc là biệt tài của những cây
viết khác,
nam và nữ].
Elfriede
Jelinek trả lời phỏng vấn.
Khi Adorno
nói, sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man, ông muốn nói,
theo như
tôi hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là
thơ đó.
*
Sau những tội ác của chủ nghĩa toàn trị ở thế kỷ 20 và nhất là những
tội ác của
Nazi, chúng ta đều là những cái xác sống. Chúng ta đều chết, mà không
biết,
mình đã chết.
Jelinek
Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng
Hai, 2007, có "cuộc
phỏng vấn
lớn", grand entretien, nữ văn sĩ Elfriede Jelinek, Nobel văn chương, lương tâm tự vấn của nước
Áo, nhân
cuốn sách mới ra lò của bà đang gây chấn động, về cả hai phía, hoan hô
và đảo đảo: Enfants des morts,
Những đứa trẻ của những người chết [Nguyên bản
tiếng Đức:
Die Kinder der Toten, Olivier Le Lay dịch ra tiếng Tây, Seuil, 25 Âu
Kim].
Nobel
2004
Tác phẩm
mới
nhất của Jelinek. Winterreise. Có
thể nói, có tới bốn cách đọc nó [bốn bậc dẫn giải, quatre
niveaux d'interpretation], quấn quít vào nhau, được tân tạo, tái tạo,
[remodeler]
theo hiện đại tính của chúng ta và theo những ám ảnh riêng của
tác giả.