Phỏng vấn Nhà Văn Thảo Trường.
Đặng
Phú
Phong thực
hiện.
Đặng Phú Phong: Từ “ Thử lửa” tập
truyện ngắn
đầu tay của nhà văn Thảo Trường xuất bản năm 1962 đến nay, tháng 8 năm
2008 là
cuốn Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết là một hành trình trải dài theo
nhiều biến
động của lịch sử. Xin anh giới thiệu một cách khái quát về quãng đường
sáng tác
46 năm ấy.
ThảoTrường:
Thử Lửa, tác phẩm đầu
tay in năm 1962 (nxb Tự Do, Saigòn, của ông Phạm việt Tuyền) nhưng tôi
viết
những truyện ngắn đó từ 1956-1960 và đã đăng hầu hết trên tạp chí văn
nghệ Sáng
Tạo của nhà văn Mai Thảo, như thế tính ra đến nay đã nửa thế kỷ, nghĩ
lại thấy
cũng rã rời tay chân.
Tôi
mồ côi
cha từ nhỏ, mẹ tôi chỉ nuôi
tôi đi học, không có ai hướng dẫn chỉ bảo và mọi việc tôi phải tự mày
mò lo
liệu lấy. Sau khi đậu Trung học ở trường Nguyễn Khuyến Nam Định, năm 1954 di cư vào Nam.
Tôi thi tú tài mấy lần đều
“trượt” nên bèn xin vào học khóa 6 sĩ quan trừ bị Thủ đức, do đó mà tôi
chưa hề
được biết đại học văn khoa là gì. Ra trường làm sĩ quan pháo binh tôi
xin ra
miền Trung để có dịp đứng ở bờ nam sông Bến Hải vĩ tuyến 17 xem nó… thế
nào.
Những năm đó tôi đã có dịp đến ở nhiều nơi, Huế, Quảng trị, từ giới
tuyến đến
đèo Le, vào thung lũng suối nước nóng Nông sơn Quảng ngãi, Ba biên
giới… Thời
gian này tôi viết tập truyện Thử Lửa.
Sau
đó tôi
phải thuyên chuyển vào quân
khu 3, rồi 4, nên đã lội bộ ở nhiều nơi, các tỉnh miền nam, miền đông
rồi miền
tây, lội qua Đồng Tháp Mười, bị quẹo chân phải tản thương đến Tổng y
viện Cộng
hòa điều trị gần một tháng. Những tác phẩm sau này hình thành trong
tình cảnh
ấy. “Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Qủa” lấy khung cảnh ở Mỹ tho.
Khoảng
1966 tôi được điều về làm việc ở cơ quan
nghiên cứu về binh vận
Cộng Sản tại cục An ninh. Ở sở làm tôi ngập đầu với những tài liệu
chiến tranh
của Cộng Sản, những nghị quyết, những chỉ thị, tài liệu học tập, những
thư tay,
những bài báo, những bài tham luận, những cuốn nhật ký thu về từ chiến
trường…
Tôi cũng đã đi Nhật, Đài loan, Singapore,
Nam Vang và Hà nội để nghiên cứu.
Ở
Sàigòn ngoài việc làm tham mưu cho quân đội, tôi viết những tác phẩm,
dài và
ngắn, làm các tờ tạp chí Hành Trình, Đất Nước với
nhóm bằng hữu ngoài quân đội. Tôi cũng phải viết
thêm cho các nhật
báo Tiền Tuyến, Thần Phong, Xây Dựng, Tin Sống, Quật Cường, Chuông
Việt, VTX…
để kiếm thêm tiền nuôi vợ con.
Ngày
30
tháng tư năm 1975 tôi bị bắt
làm tù binh, sau đó hai tháng họ nhập tôi vào trại giam với các sĩ quan
trình
diên cải tạo. Tôi bị đưa ra Bắc rồi vào Nam lang thang ròng rã 16
năm 4 tháng
4 ngày. Năm 1992 họ thả về Saigòn. Đầu năm 1993 tôi qua Mỹ đoàn tụ với
gia
đình. Bắt đầu viết lại. Rất may là ở đây tôi không phải đi làm nuôi vợ
con nữa,
họ nuôi lại tôi, nên tôi không phải làm báo như ở Saigòn năm xưa. Tôi
dành toàn
bộ thời gian để ngẫm nghĩ về thời chiến, thời tù đã qua và đời lưu vong
hiện
tại. Tôi gửi gấm những suy nghĩ đó vào những sáng tác. Tôi không biết
chép sử
và cũng không thích viết hồi ký. Tuyển tập “Những
Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết” là tác phẩm mới
nhất gồm những sáng
tác tôi ưng ý hoặc được độc giả chú ý tới.
Đặng Phú Phong: Như vậy anh đã có cả thảy 2 lần “ra” Bắc đều
đặc
biệt. Lần thứ nhất “ra”
Bắc trước 1975 để “nghiên cứu”, lần thứ hai là để ở tù. Ở tù thì nhiều
người và
chính anh cũng đã viết về nó. Anh có thể cho biết thêm về thời điểm,
bối cảnh…
chuyến ra Bắc lần thứ nhất để nghiên cứu của anh không?
Thảo
Trường: Năm 1973, thi hành hiệp định ngưng
bắn ký ở
Paris, trong cuộc trao trả tù binh
lần 2 tại Hà nội, Cục An ninh đã thoả thuận với Phái đoàn VNCH trong
ban Liên
hợp quân sự 4 bên để cử 1 sĩ quan
của Cục đi trong phái đoàn đó. Tướng Cục trưởng Cuc An ninh đã giao cho
tôi làm nhiệm vụ đó. Ông đã gặp
riêng tôi và nói tôi phải nhân cơ hội này nhìn tận nơi, nghe tận tai
“bên
trong” chế độ cộng sản miền Bắc. Từ trước đến giờ tôi chỉ nghiên cứu
đối phương
qua tài liệu và qua những buổi làm việc với các cán bộ CS bị bắt làm tù
binh,
nay ông muốn tôi ra tận nơi ngoài ấy để nhìn tại chỗ xã hội đó. Tôi bay
ra Hà Nội
cùng Phái đoàn 4 bên và Ủy hội quốc tế 4 nước. Tôi ở khách sạn Hòa Bình
(tên cũ
trước 1954 là Splandite Hotel) chính quyền đãi ăn cơm tám giò chả, đưa
đi tham quan thành phố và gọi tôi là…
ngài.(Lần thứ hai, năm 1976, ra ngoài Bắc làm tù binh tôi ăn củ sắn và
bị kêu là… thằng ngụy).
Tôi thăm nhà giam Hỏa Lò (nơi giam giữ cuối cùng, chiếu theo qui định
của bản
hiệp định, những tù binh Mỹ sẽ thả). Ở sân bay Gia Lâm tôi chứng kiến
Hà Nội
trao cho phái đoàn Mỹ 43 tù binh trong đó có một đại tá và một viên
chức ngoại
giao Đức. Một sĩ quan Hà Nội đưa tặng tôi một gói sách, nói hôm trước
có sĩ
quan miền Nam đưa tặng quyển Mùa Hè Đỏ Lửa của nhà văn Phan Nhật Nam,
nay họ
tặng lại. Tôi cởi dây chuối buộc thấy có quyển thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu và một
tập nhạc. Tập nhạc gồm toàn những bài hát ca tụng ông Hồ chí Minh.
Quyển sách
biên khảo văn học có những thơ văn của cụ Nguyễn Đình Chiểu nhưng vào
đầu sách
là một bài dài nói thơ của cụ chống ngoại xâm và đưa cụ vào chiến tuyến
chống
Mỹ cứu nước. Hôm sau nhật báo ở Saigòn đi tin lớn trang nhất “Cuộc trao
đổi văn
hóa đầu tiên giữa hai miền Nam Bắc VN, qua hai nhà văn”. Tôi đã chụp
nhiều ảnh
và phải viết một bản nghiên cứu về cộng sản VN. Tôi cũng đã viết quyển
tùy bút
“Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng”. Sách do Đại Ngã xuất bản. Nội dung
quyển sách
tôi ghi lại chuyến đi và suy nghĩ của tôi về hòa bình VN. Tôi đã nhận
định rằng
“Hà Nội, nơi giam giữ cuối cùng những tù binh Mỹ và còn là nơi giam giữ
cuối
cùng những gì nữa của dân tộc, quyền tự do dân chủ, việc thống nhất đất
nước?”
Đặng Phú Phong: Anh
đã nhận định về
chính quyền
Hà Nội rất sâu sắc và chính xác, tiếc anh đã không đưa tập tùy bút ấy
vào tác
phẩm “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết". Nhưng tại sao là Những Miểng
Vụn Của
Tiểu Thuyết mà không là Những Mảnh Vụn, hay Những Mảng Vụn…?( trong khi
anh là người
miền Bắc) Như vậy mảnh và miểng có nghĩa khác nhau?
Và tiện thể xin anh vui lòng giới thiệu về
tác phẩm nầy.
Thảo
Trường: Mảng có nghĩa khác.
Còn Mảnh hay Miểng theo tôi nghĩa như nhau. Ở quê tôi Nam Định thường nói mảnh, trong Nam
người ta nói miểng, tôi thích dùng chữ miểng vụn hơn là chữ mảnh vỡ.
Thời tù
tôi vẫn ấp ủ một tác phẩm lớn, khi tự do cầm viết lại sẽ làm một trường
thiên
tiểu thuyết hậu chiến. Nhưng rồi không hiểu sao tôi cứ mày mò tìm cách
nhét cả
cuộc chiến, nhét cả một giai đoạn lịch sử vào trong
một truyện ngắn, càng
ngắn càng tốt, đến nay viết ra mấy chục
truyện ngắn không biết có cái nào mình nhét
cái thằng khổng lồ đó vào cái chai nào được hay
chưa. Thế cho nên
nhìn lại trong tay chỉ có mấy miểng vụn.
Trường thiên chưa làm được, vốn liếng sắp cạn, thân già mệt mỏi. Em vẫn
đẹp,
quyền lực càng ngày càng lớn, nhà văn thì kiệt sức, có lẽ tôi sai rồi,
có lẽ
tôi thua rồi. Chỉ mong sao làm được một cái bé tí tẹo để tặng cho đời.
Tuyển
tập
NMVCTT gồm: 4 truyện viết
trước 1975 ở trong nước, 22 truyện mới viết ở Mỹ và 1 bài trả lời phỏng
vấn
(trích). Dầy 550 trang, giấy đẹp, bìa da cứng , chữ mạ vàng, bọc ngoài
là tranh
của họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp.
Đặng Phú Phong: Chiến tranh Việt Nam kết thúc bằng cái chết tức tưởi của
Việt Nam
Cộng Hòa. Là một sĩ quan của quân đội Miền Nam và đồng thời cũng là một
nhà văn
có tiếng tăm, anh đã rút kinh nghiệm như thế nào cho hai vị thế của anh
trong
bối cảnh lịch sử như vậy?
Thảo
Trường: Tôi chẳng nghĩ là
“chết tức tưởi”. Chỉ là thua đau vì VNCH trước sau không có được lãnh
đạo bản
lĩnh giỏi, không có được cái nhìn chính trị, lịch sử, sâu
xa nên hụt chân khi đồng minh bỏ chạy. Cũng
không trách được người. Cũng chẳng có gì phải tự trách
mình. Thua đau thì đã thua đau
rồi. Nhưng với lịch sử, tính cho đến năm
1975 Việt Nam đã quá tan nát rồi, giải quyết cuộc nội chiến tương tàn
thế nào
đây. Không hòa được thì phải có một bên thua, ai chịu thua ai chịu
nhục. Kẻ nào
cũng muốn mình thắng, mà muốn thắng thì phải âm mưu đủ điều, lưu manh
đủ điều,
tranh dành đủ điều. Phía quốc gia cũng muốn thắng nhưng lại cũng muốn
làm người
quân tử chính nghĩa nhân đạo, tự do dân chủ, thì làm sao thắng! Thế cho nên Cộng Sản họ chộp được chính
quyền, họ giựt được chính quyền, họ cướp được chính quyền đúng từ ngữ
cướp.
Lịch sử còn đó, công tội thế nào còn đó, không phải cứ già mồm là được
đâu. Bởi
vì dành lấy quyền điều hành đất nước là phải có trách nhiệm với đất
nước đó.
Trách nhiệm lớn và tội cũng rất lớn. Việt Nam Cộng Hòa không chết .
Việt Nam
Công Hòa vẫn tồn tại trong lịch sử với tất cả vinh nhục, hãnh diện và
đau
thương của nó. Là một sĩ quan cấp tá QLVNCH tôi rất hài lòng đã tham dự
vào
cuộc chiến bảo vệ Tự do của miền Nam. Là nhà văn tôi đã viết
“Cho đến năm 1975, tội lớn nhất của Cộng Sản
là thắng trận. Và. Chiến công lớn nhất của Cộng Hòa là thua trận”.
Đặng Phú Phong: Dù ở truyện ngắn
hay truyện dài
, dù với chủ đề là chiến tranh,tình yêu hay xã hội văn anh viết rất lôi
cuốn.
Theo anh để đạt được như vậy người viết văn phải làm sao?
Thảo
Trường: Thua. Tôi chịu thua
không biết cách chỉ cho ai phải viết văn cách nào. Tôi đã nói tôi không
có cơ
may học đại học văn khoa. Có lẽ… trời cho mà thôi. Tôi có nghe một số
quí cô
trách “ông làm tôi bị nghẹn” “ông làm tôi
mất ngủ” “ông làm tôi tốn bao nhiêu tiền mua sách báo”
“ông làm tôi phát rồ lên đây này”… Cũng có người hỏi tôi “tẩm á phiện xì ke ma túy” vào mực viết à?
Tôi chỉ có một tâm niệm “nếu
viết lạt nhách thì thà đừng viết nữa là
hơn”.
Đặng Phú Phong: Bằng
giọng văn bình tĩnh có khi hơi lạnh lùng,
pha chút giễu cợt, anh đã dùng để viết về đề tài tù , điển hình là
truyện ngắn
Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai – một
trong những truyện được nhiều người
thích thú nhất (tôi phải thêm chữ thú )-
Những mảng đời của những nhân vật như Đại Úy Lam, của “các bác già” ,
của “Hoàng
Đế” của”Cu Tý” hay của viên sĩ quan trẻ bị bắn chết ở hang rào tre là
những
mảng đời rất thường trong trại tù của
Cộng Sản, nhưng lại là rất đặc thù đối với thế giới Phương Tây. Có bao nhiêu phần
trăm là sự thật trong truyện này và nguyên do nào anh đem những mảnh
đời rời
rạc như thế kia ráp lại với nhau?
Thảo
Trường: Truyện ngắn TTTTBTG
tôi lấy bối cảnh trại giam Rừng Lá, tất cả những tình tiết trong truyện
đều là
những chuyện có thật 99% xảy ra đâu đó chỗ này chỗ kia, nhiều anh em tù
khác
không để ý, chứ riêng tôi, tôi “chụp ảnh” tất cả mọi chuyện lớn nhỏ vui
buồn,
tôi không bịa ra nổi những chuyện như thế đâu. Có một thời gian trong
tù tôi
cùng hơn mười bạn tù nữa phải coi một đàn bò mấy trăm con, đàn bò găm
cỏ ở cánh
đồng, tôi thường ngồi ở một bụi tre gai để coi chừng không cho bò trốn
ra khỏi
cánh đồng và tới giờ thì lùa chúng về chuồng. Không hiểu sao hồi ấy bò
không
trốn mà tù chăn bò thả rông trong rừng lá cũng không trốn. Tôi nghĩ hay
là
giống nhau! Những khi ấy, những khi ngồi ở gốc bụi tre gai đó tôi
thường ngẫm
nghĩ tới nhiều chuyện đời. Và tôi save những chuyện đó vào bộ nhớ trong
đầu
tôi. Chục năm sau ở Mỹ tôi mở nó ra đánh máy lại. Cũng ở bụi tre gai đó
tôi bị
muỗi chích dính bệnh sốt rét cấp tính lên não, phát điên, xém chết, may
trời
thương qua khỏi
Đặng Phú Phong:
Thì ra truyện ngắn TTTTBTG là ghi dấu một giai đoạn
thập tử nhất sinh
của anh. Xin anh nói thêm về chuyện “Cũng ở bụi tre gai đó tôi bị muỗi
chích
dính bệnh sốt rét cấp tính lên não, phát điên, xém chết, may trời
thương qua
khỏi”.
Thảo Trường:: À, “Cơn sốt” này xảy ra năm
1989, đúng là tôi bị muỗi chích khi chăn bò, ngồi ở gốc bụi tre gai,
tôi còn
nhớ rõ, rất rõ, hình như không quên được, không bao giờ quên được, cái
cảm giác
đau nhói nơi sau cổ, phản ứng tự nhiên cấp bách là đưa tay vỗ nhanh vào
chỗ đó,
xem ra là xác một con muỗi với máu tươi đỏ rói nơi lòng bàn tay, tôi
chột dạ,
và đúng như lo ngại, hôm sau tôi bắt đầu sốt, mấy ngày sau cai tù tản
thương
tôi bằng xe đạp từ chuồng bò trong rừng về bệnh xá trai giam chính. Ở
đây gặp
được bác sĩ Tôn Thất Sang (bác sĩ quân y cộng hoà) và cô y tá tên là Ba
tận
tình chữa tri, nhưng bệnh xá không có thuốc nên tôi bị hôn mê phải
chuyển ra
bênh viện tỉnh Phan thiết. Anh em trong trại giam nhắn tin về cho gia
đình tôi
ở Saigon lên kịp, nuôi và mua thuốc
Nhật ngoài
chợ đen chữa trị nên tôi thóat chết. Lại may nữa là ở bệnh viện Phan
thiết tôi
được một bác sĩ cũng là quân y cộng hòa cũ điều trị suốt một tháng,
thường trực
có hai sĩ quan công an trại giam đi theo kiểm soát và canh giữ. (Ông
cựu trung
úy bác sĩ này tốt nghiệp khóa cuối của
truờng quân y cộng hòa, chưa kịp phân phối đi đơn vị phục vụ, thì chế
độ sụp
đổ, bác sĩ không muốn được nhắc tên. Nhưng tôi phải nhớ, có một lần khi
khám
bệnh cho tôi, lúc chỉ có hai người, ông đã gọi bệnh nhân tù là “thưa
thiếu
tá”). Rồi trước khi phải trở lại trại giam ở Rừng Lá có một bệnh nhân
phòng kế
bên, cũng bị sốt rét, cũng đã qua khỏi và cũng đang sửa soạn xuất viện
đến
giường tôi chào… thiếu tá, rồi cầm tay tôi giắt sang chỗ giường của
anh, anh
đưa tôi một điếu thuốc thẳng, anh run run bật lửa cho tôi châm thuốc,
vợ anh
bưng một chén trà chế ra từ lon gô lấy ở gầm giường mời tôi uống, anh bảo vợ anh chào tôi, chị ấy cúi đầu chào;
anh bảo đứa con trai anh khoảng mười tuổi chào ông, đứa bé đứng lên
khoanh tay
“chào ông nôi”. Tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng nhìn anh ta và gia đình anh
ta. Sau
anh ấy nói anh ấy là lính địa phương quân cũ năm 1975 và nay đang làm
nghề đi
rừng đốn củi. Anh ấy nói đã nghe biết tôi là bệnh nhân tù sĩ quan chế
độ cũ.
Tôi nhớ ra rằng những ngày qua thường có nhiều người đến trước cửa
phòng bệnh
nhìn vào và tôi chợt hiểu ra rằng cộng sản e ngại thả tù là cũng có cái
lẽ của
họ và tôi năm ấy đã 14 năm vẫn chưa về là cũng có cái lý của nó.
Đời tôi
mang ơn nhiều Người.
Tôi
cũng không hiểu sao, bằng
cách nào, bên Mỹ, năm 1993 giáo sư Neil L. Jamieson, biết
được
chuyện này, và ông đã viết trong quyển “Understanding Vietnam” do
trường đại
học Berkeley, California xuất bản. Tác giả đã dịch sang tiếng Mỹ truyện
ngắn
“Mầu Và Sắc” (ông giáo sư dịch là Color and Hue, tôi dốt tiếng Mỹ nên
cứ tưởng
Hue là Huế của Việt Nam, nhưng sau một bà độc giả ở miền đông nước Mỹ
yêu nhân
vật tiểu thuyết của tôi giải thích cho tôi biết rằng Hue tiếng Mỹ có
nghĩa là
Sắc), truyện trích trong tập “Thử Lửa”, ông bình luận và kể về cơn sốt
này của
tôi. Có một chút cần đính chính lại là Phan
Thiết Hospital
chứ không phải Chợ
Quán Hospital.
Đặng Phú Phong: Nghe anh kể chuyện,
tôi rất ngậm
ngùi cảm động trước tình người , tình đồng đội của những kẻ thất trận
trong
cảnh lao tù. Alexander Solzhenitsyn cũng
như anh thường khai thác chủ đề tù đày của Cộng Sản . Ông ta có ảnh
hưởng gì
đến tác phẩm của anh không?
Thảo
Trường: Trước 1975 ở Saigòn, tôi đã đọc
“Quần Đảo Gulag”, “Tầng Đầu Địa Ngục” “Một Ngày Trong Đời của Ivan
Denisovich”
và tôi rất lấy làm thích thú những tác phẩm đó của nhà văn Nga. Cũng
thời đó
tôi còn đọc truyện của nhà văn Kim Dung, của nhà văn Lê Xuyên. Hồi ở tù
Rừng Lá
tôi đọc “Trăm Năm Cô Đơn” bản dịch. Đọc của ai nhất định cũng có ảnh
hưởng của
họ vào mình, không nhiều thì ít.
Đặng Phú Phong: Trong
14 tác phẩm đã xuất bản trước 75 và 8 cuốn
viết và xuất bản ở hải ngoại, tác phẩm nào anh ưng ý nhất ? Anh có thể
giải
thích tại sao và tiện thể giới thiệu nó đến với độc giả?
Thảo Trường: Tôi thích “Từ Dưới Đỉnh Đồi Nhìn
Lên Chân Núi”. Có lẽ vì tôi tưởng lầm rằng đã “nhét” được một cái gì đó
vào
trong cái truyện này. Truyện này đăng trong tuyển tập NMVCTT.
Đặng Phú Phong: Anh viết truyên dài
nhiều hơn
truyện ngắn, có phải truyện dài đối với anh dễ viết hơn truyện ngắn?
Thảo
Trưòng: Tôi không nghĩ là cái nào dễ cái
nào khó. Chỉ là tùy hứng, chỉ là tùy đề tài. Có một điều là bây giờ, ở
đây, tôi
viết truyện dài không được, mà viết truyện ngắn thì cũng rất khó nhọc,
vừa phải
coi chừng người bệnh ngồi gần bên, và thỉnh thoảng mổ mấy chữ mấy câu
mấy dòng…
cho nên cả năm trời mới mổ được một cái vài chục trang. Hồi xưa khi còn
trẻ tôi
viết lúc nào cũng được, ngồi đâu viết cũng được. Bây giờ gìa yếu bệnh
tật, cái
đầu còn tốt, nhưng sức lao động thì không tốt, thế cho nên có khi phải
lấy cái
cũ mèm ngày xưa ra đem trả nợ ân tình.
Đặng Phú Phong: Tôi xin chia xẻ với
anh về tình
trạng sức khỏe của chị nhà và sự chăm sóc của anh.
Tiếp theo xin hỏi anh có nhận xét
như thế nào
với lập luận “ truyện ngắn là một truyện
dài thu gọn lại”, trong khi đó có những truyện ngắn ( hay) nhưng lại
gần như
không có bố cục?
Thảo
Trường: Truyện ngắn không
bao giờ là truyện dài thu gọn lại. Truyện ngắn là truyện ngắn nghiêm
chỉnh.
Nếu ai thu gọn một truyện dài lại thì đó
có thể là một bản tóm tắt rút gọn, nó không phải là một truyện ngắn. Về
bố cục
thì có khi không bố cục là một bố cục.
Đặng Phú Phong: Anh đã từng chứng
tỏ là một nhà
văn viết truyện ngắn có tài qua nhiều tập
truyện ngắn như Thử Lửa, Người Đàn Bà Trên Kinh
Đồng Tháp, Tiếng Thì
Thầm Trong Bụi Tre Gai… với bố cục gọn, chắc nhiều khi cũng rất bất
ngờ. Với
nhiều kinh nghiệm như thế anh có nhận xét gì về truyện cực ngắn (còn
gọi là
truyện chớp)? Nó có thể chen vai sát cánh với truyện ngắn, truyện dài
mãi mãi
không?
Thảo Trưòng: Tôi xin lỗi chưa quen với thể
loại mới (truyện chớp) nên chưa dám nói gì về việc này.
Đặng Phú
Phong: Khi anh đưa tình dục (sex) vào trong truyện
của anh vì anh cảm thấy cần thiết hay
muốn chấm phá vài nét để “câu khách”?
Thảo Trưòng: Tôi không câu khách bao giờ. Sinh
lý là một sinh hoạt bình thường của con người. Anh Phong chắc có nghe
người ta
thường nhắc tới tứ khoái?
Đặng Phú Phong: Anh nhắc đến tứ
khoái làm hé lộ
them mộ điều là nhân vật trong truyện của anh đa dạng. như vậy có khi
nào
anh cảm thấy là mình đã để
cho nhân vật có những câu nói, suy nghĩ
“quá tầm”hay “dưới tầm” của nhân vật đó?
ThảoTrường: Nếu có
khi nào người đọc cho là
nhân vật nào đó của tôi nói hay suy nghĩ quá tầm so với tính cách thực
của nhân
vật đó thì tôi phải coi lại việc đó. Tôi sống và làm việc bình thản.
Rất bình
thản. Cứ phải thế. Nhất là lúc viết. Tôi cố gắng không để mình “bốc
đồng”. Tôi
còn đang luyện tập môn võ công “không ra đòn, không đỡ đòn, không trả
đòn”.
Đặng Phú Phong: Xin
anh cho một
viễn kiến về
văn học Việt Nam
tại hải ngoại?
Thảo Trường: Tôi cảm thấy mọi hy vọng đặt vào
tay những người viết trẻ nữ.
Đặng Phú Phong: Xin anh nói rõ hơn?
Thảo
Trường: Tôi thấy nhiều tác
giả nữ trẻ có những sáng tác rất độc đáo nên tôi kỳ vọng nhiều ở họ.
Nhận xét
chung thế thôi, không nên nói đến tên những tác giả ấy. Nên tôn trọng
sự cô đơn
của họ. Thế nào cũng xuất hiện tác phẩm quan trọng từ phía các tác giả
nữ. Ông
tin tôi đi!
Đặng Phú Phong :
Vâng tôi rất muốn tin , nhưng thưa anh , tôi
nghĩ chúng ta cần phải nói thêm nhiều về vấn đề này khi có dịp. Xin cảm
ơn anh.
Cuối
tháng 8/08.