|
Tản Mạn xung
quanh Tạp Ghi của ký giả Lô Răng
Người
khai sinh ra
mục
Tạp Ghi trên nhật báo Tiền Tuyến ngày nào, sau những năm tháng dài cải
tạo,
trở về đời, và trở ra hải ngoại, đã cho ra mắt độc giả hai tập tạp ghi,
chỉ
là những bài viết sau này, khi mục tạp ghi do ông khai sáng đã trở
thành
"lịch sử", bởi vì làm sao mà độc giả "lại" còn có thể "lại" được thưởng
thức,
chỉ một bài trước đó?
Tôi
viết "trở ra", là
bởi vì, trước 75 ông đã từng ra "ngoài này" nhiều lần, và đã từng viết
về nỗi, đêm nằm kế bên một bãi biển, nhớ phở, ".... Trong những đêm
chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi
cứ tưởng, những tiếng sóng vỗ vào bờ bên ngoài kia, là những tiếng réo
gọi: Phở, Phở!" (mô phỏng một câu văn trong Lần Cuối Sài Gòn của Nguyễn
Quốc Trụ: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng thành phố thức
giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên
những nẻo đường xưa cũ, sống
lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới
đáng kể.").
Trong
nỗi hoài nhớ
đó,
chúng ta có thể coi đây, vẫn chỉ là những "nhớ phở" ngày nào của ông,
nhưng
lần này, "dậy" lên cùng với phở, là cái mùi "tâm linh" như ông diễn tả,
ngay
ở những trang mở đầu của "Tuyển tập Tạp ghi", khi trích dẫn Nguyên
Phong:
"Các cổ thư Đông Phương đã vạch ra một cuộc sống ở cõi trần như sau: 25
năm
đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo gia đình... 25 năm sau nữa phải từ bỏ
việc
đời để lo cho tâm linh." (Hành Trình Về Phương Đông).
Chúng
ta tự hỏi, nếu
không có những tháng ngày cải tạo, liệu ông có tới được cái trạng thái
tâm linh đó không, hay nói như Võ Phiến: "Các hồi ký lao tù khác thường
chung một vẻ, một hướng. Bè Bạn Gần Xa biệt ra một hướng riêng. Các hồi
ký khác nói về cái xấu, cái khổ, cái tàn khốc dã man. Bè Bạn Gần Xa nói
về cái tốt,
cái cao quí trong tù. Các hồi ký khác đọc thấy đau đớn uất hận. Bè Bạn
Gần
Xa thấy tin tưởng, xúc động, hãnh diện về con người – thấy sướng...".
Sự
thực, không phải
không có dấu vết của cái ác, ở trong những bài tạp ghi, về những ngày
tháng đó. Cái tốt ở trong, chỉ là tốt, khi quanh nó, cái ác luôn luôn
rình mò, và
giọng tâm linh của tạp ghi, không phải dễ gì ai cũng có, vào lúc cuối
đời.
Nên nhớ, Phan Lạc Phúc là người miền bắc. Gia đình ông, bạn bè ông, có
người
ở bên này, ở bên kia, như những trang đầu viết về thời thơ ấu cho thấy.
Nếu ông viết về cái ác ở trong tù bằng cái giọng không thể nào gây tác
động
ác, là bởi vì ông biết rất rõ, không thể có một cách viết khác, đối với
những con người như ông.
Trong
lần về Hà Nội,
cá nhân người viết có hân hạnh gặp, quen, và quen thân, với một người
thuộc hàng con cháu của ông. Nghe "người ấy" nói bằng một giọng bùi
ngùi, "Em
phải gọi ông ấy bằng ông", tôi lại thấy giọng của cô, ở trong những
dòng
tạp ghi của Phan Lạc Phúc.
Viết
tới đây, tình cờ
giở qua số báo Điểm Sách Nữu Ước vừa mới nhận được, tôi thấy có bài
viết của nữ văn sĩ Mỹ gốc Đại Hàn, Suki Kim, viết về chuyến trở về của
bà, vào ngày 16 tháng Hai, năm 2002:"... thật là một tình trạng kỳ cục,
đối với một người viết tiểu thuyết, đến từ East Village thuộc Nữu Ước,
một kẻ chẳng phải
nhà hoạt động nhân quyền, hay diễn viên. Tôi sinh ra là Đại Hàn, và sau
đó, là người Mỹ di dân từ khi mười ba tuổi. Cái phần Mẽo ở trong tôi
chối
đây đẩy xứ sở này, chốn đèo heo hút gió, đứa con hoang của chiến tranh
lạnh.
Nhưng tôi thường xuyên bị ám ảnh, bởi cơn đói của nó, trên màn hình TV
vào
mỗi buổi chiều. Khi bạn bè hỏi tôi, liệu có khi nào, hai phần Đại Hàn
sẽ
hợp làm một, tôi không biết làm sao trả lời. Tôi biết nhiều như họ, và
cũng
ít như họ. Nhưng có một điều làm tôi lẻ loi ra, giữa đám bè bạn của
mình,
đó là, tôi chắc chắn một điều, cho dù miền đèo heo hút gió đó - tôi
muốn
nói Bắc Hàn - tà ma ác quỉ tới mức nào, tôi chẳng thể thù ghét nó."
("...
I am certain, no matter how evil North Korea is supposed to be, that I
could
never hate it". Suki Kim: A Visit to North Korea, NYRB, số đề ngày 13
tháng
Hai, 2003)
Khi
viết về bạn bè,
Lô
Răng dựa vào hồi nhớ, kỷ niệm, thành thử thật khó mà chân xác tới từng
chi
tiết. Đoạn viết về Cung Tiến là một thí dụ. Người viết và còn là nhạc
sĩ
này, theo như tôi biết, là người giới thiệu và dịch Dostoevsky, nhưng
chưa
hề giới thiệu những tác giả như Lévi-Strauss, Virginia Woolf. Trong khi
chuyện
gẫu, giữa bạn bè tại quán Cái Chùa, Sài Gòn, có thể cái tên
Lévi-Strauss
được nhắc tới, cùng với thuyết cơ cấu, vốn thời thượng vào lúc đó. Tôi
còn
nhớ có lần Cung Tiến tỏ ra có vẻ "chịu" tác phẩm Sống và Chín của nhà
nhân
học người Pháp nói trên. Nhưng với nữ văn sĩ người Anh, Virginia Woolf,
không. Bởi vì nữ hoàng của trường phái Bloomsbury này thật khó mà quen
thuộc với giới viết văn tại Sài Gòn lúc đó, vẫn còn mê mải với những
tác giả hiện
sinh như Sartre, Camus, hoặc "phiêu lưu dấn thân phận người" như
Malraux.
[Sở
dĩ tôi còn nhớ
chi
tiết về Woolf , cũng là nhờ một kỷ niệm liên can tới... tui.]
*****
Trong
những "lời
bình"
(Một vài nhận định của bằng hữu), ở bìa sau Tuyển Tập Tạp Ghi, tức cuốn
thứ
nhì sau Bè Bạn Gần Xa, có của Võ Phiến, Nguyễn Xuân Nghĩa, Tiến sĩ
Nguyễn
Cao Đàm... những bằng hữu này đều không phải khách hàng thường trực của
Quán
Chùa hồi "đó đó". Giở trang trong thấy có thêm Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh
Trinh,
Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh. Ngoại trừ NMT, số còn lại, tuy khách Quán
Chùa,
nhưng ít khi ngồi cùng bàn với người khách năm thì mười họa mới ghé, là
ký
giả Lô Răng, và khi xuất hiện, thường ngồi cùng Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền,
hoặc một tay "ngang", là người viết bài này. Nên nhớ Phan Lạc Phúc là
một
"chức sắc" trong giới quan võ, và những nhân vật chẳng có túi nào
thường
"ngại" gặp "bang chủ". Tôi đã từng chứng kiến cảnh một thi sĩ binh nhì
gặp
một thi sĩ sĩ quan, trong giờ hành chính, và tôi tin rằng, thật khó,
hai
người có thể khề khà, bên ly rượu, hoặc bên tách cà phê, nói chuyện bù
khú,
tao tao mày mày, hoặc lịch sự hơn, anh anh tôi tôi.
Như
vậy là trong
những
bạn bè gần xa được Lô Răng kể tới trong Tạp Ghi, ngoại trừ những người
đã
ra đi, không có ông nào viết về tác giả tạp ghi, cả.
Tôi
không nghĩ họ vô
tình. Thanh Tâm Tuyền, trong Thơ Ở Đâu Xa, có những dòng riêng cho bạn
ông:
Thư
gửi p.l.p ở
k5 – tl
Nhớ
bạn như
đang nhớ thuốc lào
Đường gần nhưng
cách trở biết bao
Mấy năm không
gặp nhau rồi nhỉ?
Râu tóc long
đong hẳn bạc phau
"Đằng ấy" còn
chăng nét "tiếu ngạo"
"Tớ đây" vẫn
giữ vẻ "tiêu dao"
Mong ngày hội
ngộ nằm chung chiếu
Tán gẫu qua đêm
như độ nào.
79
Ngoài
ra, còn những
bài khác, đề tặng, hoặc viết về những bè bạn gần xa khác, ở trong, hoặc
ở ngoài tù.
Có
thể coi Thơ Ở Đâu
Xa là một ấn bản khác, của Bạn Bè Gần Xa.
Nếu
không ai viết
(tạp
ghi) về Lô Răng, thì "ta" sẽ viết, vậy!
Bởi
vì, theo một
nghĩa
nào đó, cá nhân người viết là mộr "truyền nhân" của trường phái văn
chương,
cứ gọi đại bằng cái tên là "Tạp Ghi", và thay vì coi đây thuộc dòng
hậu-hiện đại, cứ "nghiêm túc" gọi bằng cái tên "hậu-75".
Bởi
vì, người viết
"cũ" này, đã "tái" khởi nghiệp bằng mục Tạp Ghi trên tờ Văn Học, Cali,
của Nguyễn Mộng Giác.
Nói
về cái ác ở
trong trại cải tạo.
Trong
một bài viết về
ba nhà văn miền bắc, "Mỗi trường hợp mỗi khác", Jennifer Trần coi
Nguyễn Huy Thiệp là người nhìn ra nguyên nhân cuộc chiến, từ một cái ác
"bị bỏ quên ở chuồng heo", dựa theo, [mặc khải từ] cách đọc truyện ngắn
Y Sĩ Đồng Quê của Kafka, của nhà văn Do Thái Amoz Oz. Phan Huyền Thư,
trong bài viết Xin Tằm Hãy Thương Tơ lại coi đây chỉ là hiệu ứng "cá mè
một lứa", của cư dân một miền đất. Sở dĩ chủ nghĩa tập thể xã hội chủ
nghĩa ăn dầm ở dề tại miền đất này là vì tâm lý cá mè một lứa, "có thể,
tao hơn một thằng nào đó, nhưng vĩnh viễn không thể xẩy ra trường hợp,
có một thằng hơn tao"! Nhìn theo
cách đó, thời đại tem phiếu chính là thời đại hoàng kim của miền đất
này,
và cái ác của chế độ giáng xuống tầng lớp tinh anh như nhóm Nhân Văn
Giai
Phẩm, thí dụ vậy, thật ra không phải nhân danh chủ nghĩa xã hội, Đảng,
mà
vì "tại sao mày dám hơn chúng ông?".
Tôi
không biết, Phan
Huyền Thư đã từng đọc Hannah Arendt, nhưng đây chính là phát giác của
nhà văn,
triết
gia gốc Do Thái này, khi theo dõi vụ án xử Eichmann ở Jerusalem, vào
năm
1961, bà đã nổi tiếng [vì đã] khám phá ra ‘sự dung tục của cái ác’,
(the
banality of evil). Thay vì coi Eichmann là một con quỉ bài Do Thái, bà
coi
đây là một tên vô đạo, nhưng còn là một tên thư lại dung tục một cách
khủng
khiếp. Eichmann của bà ít quan tâm tới chuyện ý thức hệ Nazi, nhưng lại
lo
đến xón đái ra được, về chuyện làm sao cho những chuyến tầu chở con
thịt
đến lò thiêu, chạy đúng giờ đúng giấc."
Sá gì mấy cuộc
bể dâu
Câu
thơ "Nhớ bạn như
đang nhớ thuốc lào", [bạn ở đây là Phan Lạc Phúc, tức ký giả Lô Răng],
của Thanh Tâm Tuyền, tuy thoát thai từ ca dao (nhớ ai như nhớ thuốc
lào, đã chôn
điếu xuống lại đào điếu lên), nhưng chỉ những ai đã từng ở tù vi xi,
thì
mới cảm thấy hết được cái nỗi nhớ, và cùng với nó, là cái nỗi say, và
kẻ
hèn này cũng đã từng có một kỷ niệm huy hoàng (kinh hoàng, đúng hơn),
về
nó.
Ở
trong tù hút thuốc
lào bằng khẩu ba zô ka, và, tôi không biết trại tù miền bắc ra sao, chứ
ở trại tù miền nam, thường là cả lán chỉ có một khẩu, và, bạn biết rồi
đấy, cái bi thuốc lào đầu tiên buổi sáng, khi đang còn mắt nhắm mắt mở
(đang còn
say ke), nó mới ngon làm sao, say làm sao, và mới nhớ làm sao, những
ngày
sau này, khi không còn được ở trong trại tù!
Nhà
văn gốc Do Thái
viết văn bằng tiếng Hung, Imre Kertéz, được giải Nobel năm rồi, đã nói
đến những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi, ở một nơi thỉnh thoảng có mặt
trời là Lò
Thiêu, tôi cứ thử tưởng tượng, nếu ông đi tù vi xi, chắc chắn phải thêm
vào "một chỗ dưới mặt trời" - mượn cái tên phim có cô đào Taylor và
chàng
Monty Cliff – tức khoảnh khắc hạnh phúc mà điếu thuốc lào mang lại.
Như
trên đã viết, cả
phòng chỉ có một khẩu ba zô ka, thành thử trước khi đi ngủ, "trại viên"
thường tìm cách giấu khẩu súng, riêng cho mình, để sáng sớm hôm sau, là
người đầu tiên nhét bi thuốc, châm que diêm bắn một phát, rồi ngã lăn
đùng ra, mặc
kệ trời đất xoay mòng mòng...
Nhà
thơ Thanh Tâm
Tuyền cũng đã tả cái thú bắn thuốc lào này, trong Thơ Ở Đâu Xa:
Thơ
thuốc lào
Ngồi
chơi hút
điếu thuốc lào
Tạm quên những
lúc gian lao ưu phiền
Điếu thông đóm
nỏ thuốc êm (1)
Thử coi sẽ thấy
đảo điên đất trời
Bạn tù ơi lửa
châm rồi
Rít cho ròn rã
mê tơi cõi lòng
Tựa lưng nhả
khói thong dong
Tít say lú lấp
cả mong với chờ
Kể chi vợ dại
con thơ
Sá gì chuyện
cửa chuyện nhà mai sau
Sá gì mấy cuộc
bể dâu
Loay hoay chỉ
tổ bạc đầu mà thôi
Này đây trà đậm
chén mời (2)
Long Giao còn
thú tuyệt vời nào hơn (3).
Sáng
bữa đó, "bạn
tù",
"trại viên", tức kẻ hèn này hân hạnh là người đầu tiên nạp đạn. Vừa nhả
khẩu
súng, chưa kịp ngã lăn đùng ra để phê, thì tiếng kẻng "tập hợp, chào
cờ!"
rùng rợn đã ré lên!
Thế
là "chàng" cứ thế
bò, lăn, lê, mắt nhắm tít, để "kìm" cơn say, nhằm hướng sân trại, đâu
biết
rằng tất cả bạn tù, lẫn quản giáo, đang "chiêm ngưỡng" từng bước "lăn
trầm"
của "chàng"!
Trong
Tuyển Tập Tạp
Ghi cũng có những dòng "sám hối, giải oan cho một trận thuốc lào này,"
của
Lô Răng, khi cô con gái út khuyên ông, "Đừng hút thuốc lào nữa bố ơi,
con
chịu không nổi." (trang 66).
Đấy
là cô "lịch sự",
không nói thêm, "... vì nó ‘hôi’ lắm"!
Chú
thích:
(1)
Ngược thuốc
êm,
là thuốc xóc, ép tim, tay nào ham "ém khói" có thể đi đoong, ngay khi
vừa
rời súng. "Nhà dịch thuật" Tú "Lé", dịch Bố Già, đã đi luôn, sau bi
thuốc
tại trại Phú Văn.
(2)
Trà đậm còn
thua trà quạo, thứ trà bột xanh.
(3)
Long Giao, tên
một trại tù, nghĩa đen là rồng "ăn nằm".
Mắt
em dìu dịu
buồn Tây Phương
Thơ
Quang Dũng
Bài
viết "Người Sơn
Tây", trong Tuyển Tập Tạp Ghi của Lô Răng mở ra bằng một cú phôn, của
một ông
bạn, rằng cái "câu hát ‘Con gái Sơn Tây yếm thủng tầy giần, rốn lồi quả
quýt...’, là do kẻ viết bài [ký giả LR] bịa ra. Không, tôi đâu dám thế.
Khả năng hạn hẹp của tôi không đủ sức sáng tác ra một bài hát ly kỳ như
vậy..."
Bài
hát ly kỳ đó quả
có thiệt, như cá nhân người viết bài này đã từng nghe, hồi còn nhỏ, và
trong lần về lại xứ Đoài mây trắng, mới đây, sau nửa thế kỷ xa cách,
tôi đã được một người bà con đọc cho nghe toàn bài, khá dài, với khá
nhiều chi tiết
ly kỳ, tiếc không nhớ trọn để chép lại hầu độc giả. Trong có chi tiết
về
đôi mắt người Sơn Tây, không "xoáy vào" vẻ đẹp dìu dịu buồn, nhưng mà
là
"toét nhèm, đo đỏ, mọng nước" của nó.
Lô
Răng tự hỏi, "Lý
do
nào mà người Sơn Tây lại tự trào, tự biếm mình như thế thì cho đến bây
giờ
tôi vẫn chưa hiểu nổi." Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng những chi tiết về cửa
sổ
[đôi mắt] mở ra linh hồn của những cô gái Sơn Tây, có thể đã có một
thời
đúng như trên miêu tả, và là do hậu quả của "thổ ngơi" (đất đỏ) tại
vùng
này.
Trong
những nhân vật
nổi cộm của Sơn Tây, Lô Răng bỏ qua một vài người. Thí dụ như ngoài Cử
Bình, tức Chu Văn Bình, tức Chu Tử, người làng Thừa Lệnh, còn có Cử
Côn, tức Chu Quang Côn, người làng Phú Hữu, kế ngay bên làng Thừa Lệnh.
Hai ông cử này, tuy là bạn học, tuy cùng họ Chu, nhưng không phải bà
con, một người vào
Tề, người theo Kháng Chiến. Trên web site Tin Văn, do người viết phụ
trách,
hiện đang đăng hồi ký của Chu Quang Cảnh, em ruột Chu Quang Côn, viết
về
ông anh của ông, và những ngày Hà Nội vào cuộc toàn quốc kháng chiến.
Chu
Quang Côn là chú của tôi.
"Còn
nhớ dạo ‘nín thở
qua sông’ ở miền nam, tôi sống như cỏ cây trong một khu vườn ngoại
thành. Thỉnh thoảng một vài người bạn đi xe đò lên thăm. Một hôm có hai
ông bạn làm
thơ, ông Thanh Tâm Tuyền và ông Cung Trầm Tưởng lên chơi. Chúng tôi
ngồi
dưới gốc chôm chôm, chuyện phiếm. Ông Cung Trầm Tưởng lai rai đọc thơ
Quang
Dũng, bài ‘Đôi Mắt Người Sơn Tây’: ‘Vừng trán em vương trời quê hương,
Mắt
em dìu dịu buồn Tây Phương’. Nhà thơ tác giả ‘Tiễn Em’ vốn ngày xưa học
ở bên Pháp, chợt nghiêng đầu mà hỏi; ‘Sao lại buồn Tây Phương, sao lại
có
beauté grecque [vẻ đẹp Hy Lạp] ở đây kìa’.
Và
Lô Răng trả lời,
Tây Phương là chùa Tây Phương ở Sơn Tây. Nhưng Sơn Tây quả có một vẻ
đẹp đến từ Tây Phương thật, và hiện nay là một trong những kỳ quan của
nó, phân
biệt với những vùng khác tại miền bắc. Kỳ quan này có tên là Lô Cốt!
Sau
đây xin giới
thiệu
[trích đoạn] bài viết của Phan Huyền Thư - nữ thi sĩ, tuy sinh tại Hà
Nội,
nhưng cũng dân kẻ Nủa, tức làng Hữu Bằng, quê Lô Răng - về kỳ quan này.
Bài
đăng trên báo Tia Sáng (trong nước) số 5/4 tới 5/5 năm 2001. Cô còn
viết
dưới bút hiệu Phan Lạc Nhi, qua bài viết Xẩm thất truyền cũng trên cùng
số
báo.
Lô
cốt, di sản
vô giá của chiến tranh.
Phan
Huyền Thư.
"Người
Pháp khi
vào Việt Nam đô hộ đã mang theo những
phong cách kiến trúc tuyệt vời, đồng thời họ cũng mang theo một hệ
thống lô cốt được xây dựng theo trọng tuyến trên khắp đất nước. Biết
đâu lô cốt sẽ còn bền bỉ hơn những ngôi chùa nét cong diêm dúa dòng Đại
thừa hay Tiểu thừa long phụng nhả ngọc phun châu... Hiện nay, trong khu
tư liệu lịch sử còn
khá nhiều những dấu vết của nền móng thuộc địa đầu tiên mà người Pháp
áp
đặt lên nước An nam nhỏ bé mà gai góc này, như bức ảnh chụp nền móng lô
cốt
Pháp xây trên bệ rồng kinh thành Thăng Long xưa...
Hơn bất kỳ một
bảo tàng quân đội hay chiến tranh nào
khác,
lô cốt đã trở thành một biểu tượng mang tính cạnh tranh với những di
sản
văn hóa Lạc Việt."
"Một làng nhỏ ở
Hải Dương, trong kháng chiến chống Pháp
có
một câu chuyện rất thương tâm, mở và đóng trong một cái lô cốt đầu
làng.
Một phụ nữ, tình nghi là vợ du kích nên bị cai đồn bắt ra bốt đầu làng.
Chị
bị hãm hiếp trong cái lô cốt đó. Sau chồng trở về, thấy vợ mang thai
nên
đã không chấp nhận. Chị lại ra lô cốt ở khi quân Pháp đã rút đi, đẻ đứa
con
của mình ở chính lô cốt đó. Sau này, cái lô cốt trở thành nhà của hai
mẹ
con. Người cha đứa bé hình như có đi tìm lại con và gặp nhau trong lô
cốt,
nhận tình phụ tử... Ngày nay có thể tìm về nơi xẩy ra câu chuyện và gặp
lại
những người trong cuộc....."
"Sơn Tây là
mảnh đất nhiều cô cốt nhất trên cả nước. Xứ
sở
này mặc nhiên mang một vẻ đẹp u uẩn và thiên về âm tính. Cũng ở đây, lô
cốt
ít bị phá lấy đá hay dẹp đường, người ta phát hiện ra vẻ kiên cố kín
đáo
của lô cốt, để ‘cố thủ’ những tình cảm riêng?"...
Phan
Huyền Thư đã
tiên
đoán đúng, về sự trường tồn của lô cốt, so với chùa Tây Phương, như Lô
Răng
cho biết, về "tin mới nhất tôi vừa nhận được là tượng Phật Bà trăm mắt
trăm
tay tại chùa Tây Phương vừa được lấy đi, chắc là mang xuất khẩu..."
Và
ông kết luận, so
với câu thơ mà Cao Bá Quát "phang" quê hương Sơn Tây của ông và cũng là
của
người viết bài này (‘Nhà dột một vài gian, một thầy, một cô, một chó
cái/Học
trò dăm bẩy đứa, nửa người, nửa ngượm, nửa đười ươi’), thì "cái tin
trên
còn nặng hơn là lời miệt thị của ông Cao Bá Quát dạo nào."
Năm
năm báo
oán, đời đời đánh ghen.
Ca
dao Xứ Đoài.
Viết
về Sơn Tây mà bỏ
qua không nhắc tới Nguyễn Tuân thì thật là một sự thiếu sót lớn. Bởi
vì, nếu Tây Tạng được coi là mái nhà của cả một cõi người, thì, họ
Nguyễn cũng đã coi núi Tản là "ngọn đỉnh trời", nơi thần tiên đem người
đẹp về ở. Và, nếu lịch sử văn học Tây Phương
bắt đầu bằng cuộc tranh chấp một người đẹp thành Troie, thì, "chính cái
hạnh phúc trên non Tản và lòng ghen của một ông hoàng tử Nước kia, đã
trở thành câu hát của người
Xứ Đoài:
‘Núi
cao sông hãy
còn dài,
Năm
năm báo oán,
đời đời đánh ghen’."
(Trên
Đỉnh Non Tản. Nguyễn Tuân).
Và
cũng Nguyễn Tuân
đã
- phải chăng ông liên tưởng tới hai câu thơ của Cao Bá Quát - chọn cho
Huấn Cao một nơi, để chết, là Sơn Tây, qua truyện "Chữ Người Tử Tù":
"Nhận
được phiếu trát
của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy
thơ lại giúp việc trong đề lao:
-Này
thầy bát, cứ
công
văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi
nhận
thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao? Hay là cái người
mà
vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó
không?"
Chúng
ta tự hỏi, cái
người mà tỉnh Sơn ta vẫn khen đó... lại "nỡ lòng nào mà ‘phang’ quê
hương tôi
một câu quá nặng: ‘Nhà giột ba gian, một thầy, một cô, một chó cái/Học
trò
dăm bẩy đứa, nửa người nử ngợm, nửa đười ươi’.", như ký giả Lô Răng
viết,
trong Tuyển Tập Tạp Ghi?
Phải
chăng, có một
cắt
nghĩa "khác", hai câu thơ trên?
***
Tôi
không tin rằng,
Huấn Cao đã "phang" quê hương tôi. Hai câu thơ của Cao Bá Quát, và cái
bài hát thật ly kỳ về người con gái Sơn Tây mà Phan Lạc Phúc có nhắc
tới, "Con
gái Sơn Tây yếm thủng tầy giần..." hình như có... bà con, cũng như
những
"vẻ đẹp" của đôi mắt người Sơn Tây, như trong bài hát ly kỳ (không dìu
dịu
buồn Tây Phương, mà đo đỏ, mọng nước, như... đau mắt hột kinh niên...),
và những chi tiết về con người ở đây (nửa người nửa ngợm nửa đười ươi),
có gì liên quan với nhau. Nói rõ hơn, có một Sơn Tây đẹp hoang sơ, cùng
với nó, là một tư tưởng hoang sơ, theo kiểu Lévi-Strauss miêu tả, hay
như
Nguyễn Tuân miêu tả, trong Trên Đỉnh Non Tản:
"Rừng Tản thấm
không hết làn sương núi. Sương cành trên
đọng gieo xuống cành dưới. Chỉ có một điệu chìm chìm tẻ tẻ. Rừng vắng
và ẩm
và mốc. Ngực đã bắt đầu tức tức. Càng lên cao, bọn người thấy mình càng
rời lìa cái nguồn sống quen thuộc của mọi ngày. Ở đây bắt đầu một nguồn
sống mới lạ. Nguồn sống của dây mơ rợ móc và cỏ và đá vào lúc mới có
Cấu
Tạo."
Và
đúng là nó đã mất
đi, rồi, như trong truyền thuyết về một nhà trời trên đỉnh non Tản, về
những chuyện không được thuật lại:
"Nhưng, ác cái
là những chuyện rừng lại không được thuật
lại.... Cái lá trúc xe điếu ấy là một con dao găm, một con trúc dao có
phép thuật kết quả đời kẻ nào bép xép lỡ mồm tiết lộ đến thiên cơ thần
cơ." (Trên
Đỉnh Non Tản).
Triết
gia
Lévi-Strauss
cũng phụ hoạ lời của Thánh Tản Viên: Cái
Thiêng
Liêng ở đâu là cứ để chỗ đó, cấm di dịch." (Chaque chose sacrée doit
être
à sa place. La pensée sauvage, La Science du Concret, p. 22).
Chu
Tử có thể là
người
đã phạm vào chuyện lỡ mồm lỡ miệng đó, khi đem cái tư tưởng hoang sơ về
miền xuôi, về Hà Nội. Theo như kể lại, ông từng nhắc tới một kỷ niệm
khi còn
nhỏ, ở làng, thường thấy cảnh tượng, vào buổi chiều, đàn bà, con gái ra
giếng tắm truồng....
Và
ông đã từng đập
lộn
với người miền xuôi, tức mấy bạn học của ông, khi tụi nó dám chê cái
tập
tục đàn bà con gái tắm truồng của quê hương ông.
"Ở
đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải
là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những chữ vuông vắn tươi tắn
nó
nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi bảo
thực
đấy.... Ở đây, khó mà giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem
nhuốc mất cái đời lương thiện đi."...
"Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh".
(Chữ
Người Tử Tù.
Nguyễn Tuân)
Đến
đây, chúng ta có
thể muờng tượng ra được, tại sao Ghi của Trần Dần, lại đầy cái ác, rong
ruổi cùng những câu thơ văn "thần kinh quỉ khiếp", so với thứ văn
chương mộc
mạc của Tạp Ghi của Lô Răng, một "kẻ mê muội này xin bái lĩnh", và đã
ngộ
ra lời phán, lời phang, lời khinh, của Huấn Cao, về "quê hương của
chúng
ta", khi dắt díu nhau xuống tầu há mồm, và sau này, xuống cá bé, cá
lớn...?
Trường
Phái Tạp
Ghi
Phan
Lạc Phúc hay ký
giả Lô Răng tuy là người khai sinh ra môn phái Tạp Ghi, nhưng thực ra
có rất nhiều cách viết tạp ghi, và do đó, nó có nhiều tên gọi khác
nhau, tùy cách viết, tùy người viết, và tùy công lực (đông hay tây),
của người đó. Thí
dụ như mục Nói Hay Đừng xuất hiện trước đó trên nhật báo Tự Do, do Hiếu
Chân phụ trách. Những bài viết của ông thiên về nho học, và người thầy
của
ông là cụ cử Ngô Thúc Địch. Bởi ông theo tây học, cho nên những bài
viết
thâm thúy về nho học của Hiếu Chân gây thắc mắc, khiến một vị thâm nho
bực
mình, coi đây là một trường hợp "nhẩy dù xuống rừng khổng học". Tuy
nhiên,
có vẻ chúng có một nét chung, là thường bật ra từ một sự kiện mang tính
thời sự nóng hổi. Và tuy Lô Răng là người phụ trách, nhưng không phải
không
có những người lâu lâu tạt ngang, đỡ hộ ông một tay.
Còn
nhớ ngày nào, khi
cả thế giới, trước tiên, đau xót, chia buồn với phu nhân tổng thống Hoa
Kỳ
Kennedy, rồi sau đó, ái ngại, băn khoăn, không hiểu nàng Jackie có bai
bai
nước Mỹ, đi thêm một bước nữa hay không, ký giả Ba Tê đã thay thế
chưởng
môn Lô Răng, đi một đường "độc và đẹp", ví nhan sắc Jackie như những
ngày
thu bất thường, và bất chợt của Sài Gòn mấy bữa đó, nhưng thực sự để
nói
về chân lý, mỹ nhân, không phải tự cổ như danh tướng, mà là từ xửa từ
xưa,
vốn độc và đẹp, và có thể, còn hay nói dối nữa! Chúng ta cứ thử tưởng
tượng,
không phải con rắn xúi bà Evà ăn trái cấm, mà chính bà đã mớm lời cho
nó
nói như vậy, sau khi sự tình đổ bể?
Một
lần khác, cũng
vẫn
ký giả Ba Tê đã than rằng, bài viết của một ông nào đó, mà tôi không
còn
nhớ tên (hình như liên can đến một hội Khổng học thì phải), làm cho ông
uống
ly cà phê buổi sáng tại Quán Chùa mất ngon! Tay kia nhỏ nhẹ trả lời,
xin
lỗi đã làm hỏng một ly cà phê buổi sáng của ông.
Bản
thân người viết
cũng đã từng đỡ tay cho LR, hình như một hai lần, và thường vào thứ
bẩy, vốn
là ngày "người" hay có hẹn với anh em bang phái "chắn cạ". Lô Răng, Mai
Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thái Thủy... đều là những chức sắc nhiều túi
trong
bang phái này. Chỉ cần vài tua bài, là LR đã biết nhà trên nhà dưới,
nhà
nào chờ cây bài nào, và thường đúng ngay chóc!
Như
đã viết trong một
kỳ trước, trong những lời bình của bằng hữu, ở trang bìa, có, của:
*
Võ Phiến: "Các hồi
ký lao tù khác thường chung một vẻ, một hướng. Bè Bạn Gần Xa biệt ra
một hướng riêng. Các hồi ký khác nói về cái xấu, cái khổ, cái tàn khốc
dã man. Bè Bạn Gần Xa nói về cái tốt, cái cao quí trong tù. Các hồi ký
khác đọc
thấy đau đớn uất hận. Bè Bạn Gần Xa thấy tin tưởng, xúc động, hãnh diện
về con người – thấy sướng...".
*
Tiến sĩ Nguyễn Cao
Đàm (Ngày Nay, Minnesota): Cuốn "Ghi" của Trần Dần trong giai đoạn chỉ
7 năm mà đầy những hận thù oan trái, giả dối, và vô cùng bi thảm. Cuốn
Bè
Bạn Gần Xa của Phan Lạc Phúc toàn là những sự kiện nhân nghĩa, đôn hậu,
như những đoá hoa tuyệt đẹp nở ra từ nhọc nhằn thống khổ. Hai cuốn ký
nêu
trên thuộc về những tư liệu sống động của hai thời kỳ đất nước, (từ
chiến
tranh) trở về cuộc sống hoà bình mà hoá ra lại đầy thống khổ. Có lẽ sau
này nên có sự nghiên cứu thật sự vô tư xem tại sao lại là như thế...
"Tại
sao lại là như
thế?" Chúng ta tự hỏi, và cố gắng trả lời...
Tạp
Ghi hay Hồi
Ký Tù?
Theo
tôi những bài
tạp
ghi của Phan Lạc Phúc, tức ký giả Lô Răng, xuất bản ở hải ngoại, gồm
hai
tập Bè Bạn Gần Xa và Tuyển Tập Tạp Ghi, chúng khác với
những bài tạp
ghi
trước 1975 của ông trên nhật báo Tiền
Tuyến, và cũng khác với những hồi
ký
về những ngày tháng ở trong trại cải tạo của một số tác giả khác. Vốn
biết
rõ tính khiêm cung, nhún nhường của tác giả, tôi tin ông cảm động,
nhưng
còn cảm thấy áy náy, với những nhận xét về mình, như của Võ Phiến (các
hồi
ký lao tù khác thường chung một vẻ, một hướng. Bè Bạn Gần Xa biệt ra
một
hướng riêng...), hoặc khi thấy những bài tạp ghi của ông được so sánh
với
Ghi của Trần Dần, một người mà tôi tin rằng ông hết sức kính
trọng, và
chẳng
bao giờ có ý nghĩ để những câu thơ canh tân, không chỉ văn học mà luôn
cả
ngôn ngữ (tiếng Việt), và còn đầy tính tiên tri về thời cuộc, và quá
nữa,
định mệnh của cả một dân tộc, (thí dụ như câu thơ "Tôi đi giữa những
phố...
chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ"), kế bên những dòng tạp ghi hết sức mộc
mạc
của ông. Bảo rằng Ghi của Trần Dần đầy những cái độc cái ác, còn tạp
ghi
của Lô Răng đầy sự nhân hậu, bảo rằng đọc những hồi ký khác thấy uất
hận,
đọc tạp ghi thấy sướng... đó chỉ là những nhận xét thiên về cảm tính.
Với
tư cách một độc giả, người viết thử đưa ra những nhận xét của riêng
mình,
và thử coi xem những nhận xét trên có cơ sở hay không.
Trong
một bài phỏng
vấn đăng trên tờ Văn Học Pháp
(Magazine Littéraire, số tháng Giêng
2003), "Ngợi Ca Văn Hóa Lai Giống" (Éloge de la culture métissée), nhân
tác phẩm mới
nhất "Điều tôi tin" (bản tiếng Pháp: Ce que je crois) ra mắt độc giả,
nhà
văn Mexico, Carlos Fuentes, đã cho rằng sự lai giống về văn hoá là một
nét
đặc biệt của Mexico, do xứ này là xứ lai và sẽ mãi mãi là như thế, bởi
vì
dân chúng ở đây chỉ có 10% da trắng, 10% da đỏ, còn lại là lai. Chỉ
trong
vòng 25 năm chẳng thể còn da trắng hay da đỏ thuần chủng (vrai), và dân
Mexico trở thành lai hết. Đây là một thực tế tại xứ sở của ông, người
ta có thể
sướng hoặc không sướng về chuyện này. Nhưng nói gì thì nói, [hiện
tượng]
lai thuộc vào căn cước của xứ sở của tôi.... Những cuộc di dân lớn làm
thay
đổi diện mạo của một xứ sở, và đây là một sự thoát nạn, cứu tinh (le
salut),
bởi vì một xứ sở đóng kín sẽ có ngày mất tiêu luôn căn cước (identité)
của
chính nó.
Chúng
ta có thể mượn
hình ảnh trên đây, để so sánh một Lô Răng với một Trần Dần, thí dụ vậy.
Nếu
bỏ qua khía cạnh tài năng, một Lô Răng, nếu không vào Nam vào năm 1954,
có thể trở thành một Trần Dần "khác", hoặc thuộc thế hệ tiếp theo Trần
Dần,
nếu nhỏ tuổi hơn. Lô Răng, trong một bài tạp ghi trước 1975, đã nói rõ
ra
một điều, ông biết ơn miền nam đã cưu mang ông, đã làm cho tính tình
của
ông hiền hoà hẳn đi (tôi nhớ đại khái như vậy). Từ đó, chúng ta suy ra
một
điều, nếu phải khẳng định như Trần Dần đã từng khẳng định ["Nhân cách
của
nhà văn chính là văn cách của anh ta" (trong bài ‘Gặp gỡ Trần Dần – Đối
thoại
mất ngủ’, của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp Chí Sông Hương số 31 tháng
5&6,
1988, in lại trong ‘Ghi 1954-1960’, trang 439, td mémoire, 2001)] – Lô
Răng
sẽ trả lời, nhân cách của nhà văn là cách ở đời của người đó, theo
nghĩa,
lý tưởng của những người như Lô Răng là đời sống, chứ không phải văn
chương, hay một ý thức hệ nào khác. Nhìn rộng ra, đây là sự khác biệt
giữa hai miền đất, một bên coi đời sống mới là lý tưởng, coi đời sống
như là nó là, một bên coi văn học, văn hóa, hoặc ý thức hệ chi chi...
mới là lý tưởng, đời
sống chỉ là phụ thuộc; một bên trọng văn nói, một bên trọng văn viết...
Cũng
trong bài phỏng
vấn, Carlos Fuentes cho biết, do sống xa xứ sở của ông, nên ông có được
một
khoảng cách tốt, và một viễn tượng tốt để nói về nó, trong những cuốn
sách
của ông. Vẫn theo ông, mỗi tiểu thuyết gia đều biết, bên cạnh một thế
giới
thực còn có một thế giới khác chưa được viết ra. Ông đã bàn về điều này
rất nhiều lần với tiểu thuyết gia người Ý là Italo Calvino. Rằng tiểu
thuyết,
nó giống như bóng ma mà chỉ tiểu thuyết gia mới nhìn thấy. Nếu áp dụng
nhận
định trên vào trường hợp những tạp ghi của Lô Răng, và những hồi ký tù
của những người khác, tôi nghĩ, ông không hề viết về thế giới thực,
độc,
và ác ở trong trại cải tạo. Ông viết về những "bóng ma" mà chỉ ông mới
nhìn thấy được: tuổi thơ của riêng ông, những ngày còn ở một cái làng
nhỏ
bé ở gần Hà Nội, những ngày được ra Hà Nội học...
*******
"Giữa
một truyền
thống
tư tưởng và ý thức hệ ăn bám vào nó, có một hố thẳm", nhà văn Romania,
Normal Meana, trong bài viết "Felix Culpa", đã trích dẫn câu trên từ
bài viết
"Huyền thoại Nazi", [của hai tác giả Philippe Lacoue-Labarthe và
Jean-Luc
Nancy, trong Critical Inquiry 16, no.2 (Winter 1990).
Chúng
ta tự hỏi, phải
chăng Nhân Văn Giai Phẩm, với những Trần Dần của nó, đã nói lên cái hố
thẳm chia rẽ một bên là truyền thống tư tưởng của một miền đất, và một
bên là ý thức hệ cộng sản, như một thứ dây leo, ăn bám vào nó?
Trong
những lần toan
tính chạy trốn quê hương, tôi chưa hề có ý nghĩ, có ngày trở về. Hoàng
hạc nhất khứ bất phục phản! Trong những chuyến đi như thế, có một, phải
nói là thập tử nhất sinh, nhưng cũng thật hết sức tiếu lâm. Đó là lần
đi tại bãi Vàm Láng, vào đúng đêm 23 tháng Chạp, tức là ngày ông Táo
chầu Trời. Trong
đêm tối, giữa giông bão, tại ngay cửa biển Vũng Tầu, anh chàng thanh
niên
kế bên cứ nhè ông già là tôi, là người yêu của ảnh, và cứ thế vò đầu
bứt
tai, bứt tóc người yêu, miện lảm nhảm những lời hoảng loạn. Những ngày
bị
bắt sau đó, trước là ở Chấp Pháp, sau tới khám đường Mỹ Tho, sau cùng
là
án tập trung cải tạo hai niên tại trại bà Bèo, một bữa có người vô rước
cô
bạn gái của anh về đời. Cô ta đi một mách, không nhìn lại, và anh chỉ
cái
dáng đang đi bên ngoài đó, và bảo, đó là người yêu của anh. Nhưng khủng
khiếp
nhất, gay cấn nhất, lại là chuyến rời trại Thái Lan để đi "tái định cư
tại
một đệ tam quốc gia", như thuật ngữ của Cao Uỷ Tị Nạn.
Nhưng đến đây, xin phép độc giả cho mở qua cái hồ sơ bịnh lý của tôi
một chút.
Tôi
vốn bị cao áp từ
khi còn ít tuổi, tức cái tuổi khó mà bị cao áp. Và đây là di truyền.
Vào năm 1965, bị thương nặng trong vụ mìn nổ ở nhà hàng Mỹ Cảnh, được
truyền máu
do xuất huyết trầm trọng sau khi giải phẫu, căn bịnh biến mất, và chỉ
trở
lại sau đó, khi đã có tuổi. Và trong những giờ phút chờ lên máy bay để
ra
đi, đột nhiên căn bịnh làm ngụy, y sĩ Cao Uỷ đã có lúc đưa ra đề nghị
gạt
tên khỏi danh sách chuyến bay.
Sau
này nghĩ lại, tôi
cho rằng, chính cái ý nghĩ chẳng thể nào trở về, nó khủng khiếp tới độ
làm
cho huyết áp tăng vọt. Và đây không phải là một trường hợp hi hữu,
nhiều
người đã từng gặp. Những gì gì, thí dụ như "Ngựa Hồ hí gió bắc...", hay
chuyến trở về của nhà văn Mỹ gốc Đại Hàn, mà tôi có nhắc tới ở đầu bài
viết,
là cũng tương tự, theo tôi, nhằm thoả mãn một nhu cầu tâm linh, cứ tạm
gọi
như vậy.
Vào
ngày 25 tháng Sáu
năm 1950, khi Bắc Hàn ném bom Nam Hàn, người bà của Suki Kim rời căn
nhà ở
Seoul, cùng với năm đứa con, trong có mẹ của Kim, mới bốn tuổi. Chỉ còn
mỗi cách đi bộ và bằng xe lửa, nếu muốn rời thành phố. Sân ga Seoul
chật
cứng người, nhưng mấy mẹ con cũng kiếm được chỗ ngồi trên xe, cho tới
lúc
có người la lớn, người trẻ phải nhường chỗ cho người già, người bịnh.
Và
người con trai út trong gia đình đã đứng dậy, nói với mẹ, "Đừng lo lắng
gì Má, con sẽ đi chuyến sau".
Chẳng
thể có chuyến
sau, vì đó là chuyến chót. Người ta kể lại, đã nhìn thấy binh sĩ Bắc
Hàn trói tay cậu con trai, và dẫn đi. Người bà sau đó, sống là để mong
có ngày gặp lại con. Theo Phật Giáo Đại Hà, tội lớn nhất, là bỏ mặc
người thân yêu ruột thịt. Và khi điền đơn xin trở về gặp lại quê hương,
khi phải trả lời câu
hỏi quan trọng nhất, ai là thân nhân còn ở miền bắc, Suki Kim đã ghi tê
người chú: Yoon Nam Jung. Tuổi 68. Điạ chỉ không biết.
Thật
kỳ lạ, khi đọc
Kim, tôi có cảm tưởng như đã trải qua những giây phút tương tự, như của
người bà của cô, khi rời Hà Nội trên chuyến xe lửa xuống Hải Phòng, và
như của
chính bà, khi điền tên người bà con còn ở lại Hà Nội. Khác chăng, là
người
bà con của tôi hiện còn sống.
Tôi
như sống lại cảnh
tượng con tầu không thể nào chạy nhanh, không phải vì trên tầu chật
cứng, mà
là vì dân làng hai bên đường, người nhẩy lên toa cố kéo người trên
xuống,
người đứng chặn tầu không cho đi, cùng những tiếng gào thét, "Đừng đi
theo
đế quốc, đừng làm Việt Gian, đừng bỏ quê hương, họ hàng".... Đó là thời
gian 300 ngày trước khi Cảng Hải Phòng đóng lại vĩnh viễn, và làn sóng
người
bỏ đi nam ngày càng dâng cao...
Những
người như ký
giả
Lô Răng, đều đã có dịp trở lại, như là người tù. Thanh Tâm Tuyền, bạn
ông,
đã kể lại cảm giác của ông, khi trải qua một đêm đông tại trại K2, Tân
Lập:
Đêm
rét nằm co
quắp
Thân xương xẩu
trơ khấc
Bụng đói, ruột
ục sôi
Vẳng trong
tiếng gió bấc
Suối chảy siết
bồi hồi
Luồn
trong nỗi
giá buốt
Thoáng rùng rợn
xa xôi
Nhớ đã hơn năm
trời
Tin nhà trông
vắng bặt
Lưu
đầy trên
đất Bắc
Chốc đã ba đông
rồi
Còn qua bao cửa
ngục
Đây quê mình
quê người
....
Thương
vợ con khôn nguôi.
Và
đây là, một chiều
cuối năm trên đất Bắc của nhà thơ:
Chiều
cuối năm
qua xóm nghèo
Mưa
bay lất
phất gió căm căm
Đường lầy trơn
nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ
mặt lem luốc
Co ro đứng coi
tù qua thôn
Vác
bó cuốc
nặng bước loạng choạng
Về trong xây
xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai
không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta
chiều cuối năm
78
Malraux
đã từng bị
Gide chê, tiểu thuyết của "bạn ta" không có con nít, không tiếng cười,
và gồm toàn những người thông minh. Văn học miền bắc theo tôi, cũng
không có con nít, mà chỉ có thần đồng, chỉ toàn là những anh hùng diệt
Mỹ Ngụy trong
tương lai:
Những
em bé em
bé
Tay búp nụ hoa
hồng
Tập bay như
chim sẻ
Mai đây thành
phi công
(Xuân
Diệu).
Con
nít không có, lấy
đâu ra tiếng khóc của con nít?
Có
chăng, là trong
thơ
Trần Dần, về tiếng khóc của một đứa con nít bị cả một miền đất bỏ đói,
vì
là con địa chủ.
Ra
Đi là Hết Rồi.
Rời
quê hương cộng
sản
Romania vào lúc cuối đời, chọn cảnh chợ chiều, trâu chậm uống nước đục,
khi
tự chọn cho mình một đệ tam quốc gia để tái định cư, Normal Manea cũng
đã
có những giờ phút căng thẳng như của kẻ hèn này, vào cái giờ phút bước
lên
máy bay, ra đi là hết rồi, hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, cái sự trở
về
là vô phương, đừng hòng mong... như ông kể lại trong bài viết "Lịch sử
[Câu
chuyện về] một cuộc phỏng vấn", trong tuyển tập những bài tiểu luận của
ông,
"Về Những Tên Hề, Nhà Độc Tài và Người Nghệ Sĩ", (nhà xb Grove
Weidenfeld,
New York, 1992): "...The hopless return had upset me..."
Trâu
chậm uống nước
đục. Ông cho biết, mấy năm trước đó, khi mới qua, ông cảm thấy nhu cầu
phải viết về quá khứ cộng sản của mình, và của nước mình, nhưng lại
ngần ngại, khi
thấy tên mình, hoặc thấy mình đứng xếp hàng trong cái danh sách dài
những
nhà văn ly khai, bên cạnh nhãn hiệu đó, là những nỗi đau mà họ đã từng
chịu
đựng. Tuy nhiên, theo ông, không đúng như những khán thính giả, độc giả
Tây
Phương vẫn thường tin tưởng, cái gọi là xã hội toàn trị, "tuồng ảo hóa
đã
bầy ra đấy", cho dù ma quái tới cỡ nào, nó cũng không phải là một câu
chuyện
hồn ma bóng quế theo kiểu Liêu Trai Chí Dị: nó là một thực tại con
người,
khăng khăng bám chặt lấy cõi người ta, và chặt đầu này, nó mọc ra đầu
khác,
nghĩa là nó có thể sống lại, ngụy trang dưới một ý thức hệ khác, hay
một
hình thức xã hội khác. [Giống như trường hợp ở Việt Nam, đa số chúng ta
đều
nhận ra, đâu còn chủ nghĩa cộng sản, xã hội cộng sản, toàn trị ở đó
nữa,
tuy bề ngoài nhà nước vẫn khăng khăng khẳng định. Nhưng thật khó mà tin
rằng,
xã hội đó đã có tự do, đã có dân chủ.]
Trong
cõi lưu vong
vào
lúc xế chiều như thế đó, Manea bàn về sự liên hệ giữa nhà văn, Quyền
Lực,
và "Cái Tập Thể Bị Áp Bức Nhưng Cũng Khó Mà Dám Tự Coi Mình Là Vô Tội",
tức
đám con dân xã hội chủ nghĩa. Và sự liên hệ giữa nhà văn và chính cái
phần
dễ bị thương tổn của chính hắn ta/bà ta đó.
Theo
ông, trong bất
cứ
một hệ thống chính trị sử dụng văn hóa như là vũ khí (bằng cách choàng
hoa
cho nghệ sĩ, nghĩa là ban cho họ những đặc quyền, hoặc những sự trừng
phạt
thái quá, thí dụ như cách đối xử giữa Tố Hữu và nhóm Nhân Văn chẳng
hạn,
nhà văn, nhìn về Tố Hữu, rồi nhìn về Nhân Văn, thường xuyên cảm thấy
quanh
mình đầy cạm bẫy, thấy mình thoả hiệp lúc nào không hay, nghĩa là dễ
đánh
mất mình như chơi. Muốn bảo tồn nguyên vẹn căn cước của mình, nhà văn
phải
học cách phòng ngự, chống trả, nhất là từ những cạm bẫy tâm thần
(mental
traps), từ những viễn ảnh, những cái nhìn quá giản đơn [sự vật], không
chỉ
ở bên trong những hệ thống toàn trị, mà là ở tất cả mọi nơi. Những điều
tưởng
như đối nghịch, hoá ra là phù hợp, bổ túc cho nhau, bởi vì như mọi
người
đều biết rõ, rất nhiều người chống phát xít, là những tay cộng sản, và
thường
xuyên là, những kẻ được coi là những địch thủ, hoặc kẻ thù của những
chế
độ toàn trị này (phát xít, cộng sản, chính thống tôn giáo...), lại là
những
người cổ võ một chế độ toàn trị khác, một cách ý thức, hoặc vô thức.
Nhưng
điều này mới
thật là quan trọng, mà là kết quả của bao nhiêu năm tháng sống dưới chế
độ cộng sản, và sau cùng quá nghẹt thở, đành phải bỏ đi, chỉ để nói ra,
là: Cái
gọi là tinh thần cởi mở thực sự, của Dân Chủ, nó không chỉ phản ứng,
chống
lại chủ nghĩa toàn trị, nhưng nó hoàn toàn ngoại lai, không hề chịu nổi
chủ nghĩa toàn trị, và như thế, do bản chất của chính nó, nó ở trên
những
đối cực [thí dụ như một cái nhìn quốc cộng, chẳng hạn].
[But
the
authentically
liberal spirit of democarcy is not only opposed to totalitarianism, it
is
alien to it, and by its very nature above polarities].
Cái
Dở của Tạp
Ghi của ký giả Lô Răng
Khi
điểm cuốn Hermit
in Paris (nhà xb Jonathan Cape £16.99, pp276) của nhà văn Ý, Italo
Calvino, người điểm sách của tờ Người Quan Sát Mới (số đề ngày 9 tháng
Hai,
2003, trên lưới toàn cầu), Philip Hensher đã cho rằng, cuốn sách giầu
có những hồi
ức này chỉ có một cái dở là tác giả của nó ít quan tâm tới chính mình.
Liệu
chúng ta có thể
áp dụng nhận xét này, với Tạp Ghi của Lô Răng. Tôi nghĩ là được.
Lô
Răng viết bằng
giọng mộc mạc pha chút lãng mạn về bạn bè, về thiên nhiên.... Người ta
nói, chọn bạn mà chơi. Thành thử nói về bạn cũng là một cách nói về
mình, nhưng giả dụ như có một người nào đó, đưa ra một vài chi tiết về
con người của ông, ắt là cũng thú vị lắm chứ!
Nhà
tôi ở dưới cầu
Thị
Nghè, gần Sở Thú, gần Đài Truyền Hình, Đài Mẹ Việt Nam, Đài Phát Thanh
Sài
Gòn, những ngày Mậu Thân trở thành "mục tiêu" của hoả tiễn vi xi. Cũng
là
thời gian bà xã mang bầu cháu gái lớn. Tuy những ngày quá gay cấn phải
"sơ
tán" tới nhà một người bà con ở Trương Minh Giảng, nhưng cái thai đã bị
ảnh
hưởng, cháu sinh ra tưởng bị liệt, cứ nằm hoài trong nôi, chỉ tới khi
ông
bố đi làm về mới mỉm cười và chịu cho bế. Đi bác sĩ Trần Ngọc Ninh ở
Tân
Định, ông khám thật kỹ lưỡng xuơng, gân, thần kinh... Sau khi kê thuốc,
ông
mắng vốn: gia đình phải biết yêu thương nó! Ông đâu biết, khi nằm trong
bụng
mẹ, cái thai đã "nghe ra" những tiếng hoả tiễn réo xèo xèo khi bay
ngang
nhà. Nhờ thuốc insulin do ông Ninh kê đơn, cháu đỡ dần, nhưng phải tới
5
tuổi mới biết đi. Và cho tới khi lấy chồng, có con, vẫn còn mắc tật đái
dầm!
Gần
ngay chân cầu, là
khu vực thuộc Tâm Lý Chiến, trong có toà soạn báo Tiền Tuyến, nằm chung
một
lô đất với Cục An Ninh Quân Đội, số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phía sau nó là
một trại gia binh. Khu này ngày trước có tên là Kho Đạn. Từ nhà tôi ghé
Tiền
Tuyến quá gần. Thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật cho Tiền
Tuyến,
tôi thường xuyên ghé chơi, ngoài chuyện đưa bài. Có lần vô, thấy một
ông
nằm ngay tòa soạn "ngơi" trên một cái ghế bố. Hỏi, có người trả lời, Lý
Phật
Sơn đó.
Chắc
còn nhiều người
nhớ tên Lý Phật Sơn, người bình Kim Dung trên tờ Tiền Tuyến ngày nào.
Những
lời bình nhuốm mùi "thiền", cộng thêm kiến thức sâu rộng của anh, làm
say
mê người đọc. Tuy là báo quân đội, nhưng thật khác hẳn tờ Quân Đội Nhân
Dân
của miền bắc, Tiền Tuyến là một tờ báo bán chạy, thuộc loại "top ten"
trong
số rất nhiều nhật báo của Sài Gòn lúc đó. Không chỉ có lời bình của Lý
Phật
Sơn, còn tạp ghi của Lô Răng, còn truyện fơi ơ tông của Thanh Tâm
Tuyền,
truyện trinh thám phóng tác của Hoàng Hải Thủy, và nhứt là, còn truyện
dài
Bà Phi gây sôi nổi trong giới văn nhân, cả dân sự lẫn "quân quyền", của
Thảo
Trường... Trong Tạp Ghi, Lô Răng cũng đã thổ lộ, sức ép ở trên xuống tờ
Tiền
Tuyến, và cá nhân ông, vì truyện Bà Phi, nhưng không vì thế mà ông yêu
cầu
tác giả tự kiểm duyệt, hay chính mình ra lệnh đục bỏ những đoạn gây rắc
rối.
Thảo Trường chắc chắn phải cảm được cái sự tri âm tri kỷ đó.
Nhưng
Lý Phật Sơn là
một tay trốn lính. Đó mới là cái sự lạ, phân biệt hai cách đối xử thật
cách
biệt giữa "tình người", giữa "thổ ngơi" của hai miền đất, giữa cái gọi
là
lý tưởng = đời sống, và lý tưởng = ý thức hệ, hay nói gọn lỏn là như
thế
này: lòng yêu những người có tài, của những người đã chọn nghề binh như
Lô Răng, hay như Lưu Kim Cương, chẳng hạn. Chúng ta tự hỏi, cái kho
tàng,
hay di sản âm nhạc của Việt Nam, sẽ mất đi, hoặc thiếu đi bao nhiêu bản
nhạc của Trịnh Công Sơn, nếu anh chàng cận thị này phải cầm cây súng,
thay
vì cây đàn? Với những người lính nhà nghề như Lưu Kim Cương, hay như Lô
Răng,
một tên lính lóng cóng như Trịnh Công Sơn, hay Lý Phật Sơn, chỉ làm bận
tay,
và có khi còn làm cho họ chết oan!
Nhìn
rộng ra, chúng
ta
tự hỏi, bao nhiêu "nhân tài" đã thoát khỏi cuộc chiến, qua những chính
sách
như hoãn dịch vì lý do học vấn, cho đi du học những người đậu cao, cho
về
ngành chuyên môn những người có tay nghề. Do thổ ngơi của một miền đất,
từ
đó đẻ ra lòng yêu, trọng nhân tài, không phải chỉ như một chính sách,
mà
còn như tình người. Đó là điều mà Lô Răng không nói ra, ở trong những
bài
tạp ghi của ông, khi chọn ngay toà soạn Tiền Tuyến làm nơi trú ngụ cho
một
Lý Phật Sơn.
Bản
thân tôi cũng đã
được hưởng một chút "ân tình" đó. Là dân sự, nhưng lúc nào trong người
cũng
có một cái thẻ nhà báo, của một tờ báo nhà binh, tức tờ Tiền Tuyến, do
chính chủ bút Lô Răng ký. Nhờ nó, tôi tha hồ đi quá giờ giới nghiêm.
Nhưng
đi quá giờ giới
nghiêm làm cái khỉ gì cơ chứ?
Số
là "cô bạn" của
tôi
thì ở mãi bên Chợ Lớn. Tôi thường là chọn ca trực đêm, để dễ bề nói dối
bà
xã. Khi bớt việc, trao Đài cho một nhân viên phụ, thế là "chàng", trong
túi
thủ thẻ nhà báo quân đội, giấy chứng nhận hợp lệ tình trạng quân dịch,
người
và xe cứ thế phóng thẳng một mạch qua Chợ Lớn, ngồi cho tới khuya, ỷ y
nếu
có quá giờ giới nghiêm, đã có lá bùa hộ mạng, chứng nhận đây là phóng
viên
tiền tuyến của báo quân đội, đang đi công tác!
Ôi,
làm sao quên được
cảm giác, khi về, vắng tanh, phóng xe như điên trên đường phố Sài Gòn,
mà hồn của mình thì vẫn luẩn quẩn ở một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi,
Chợ Lớn,
nơi có căn nhà, có "giàn thiên lý, có người tôi thương"!...
Kỷ niệm lô
cốt.
Lô
cốt tại quê tôi,
như ký ức ngày nhỏ còn giữ được, có từ lúc quân đội Pháp nhẩy dù xuống
đồng
bằng Sơn Tây, (hình như là vào năm 1946 thì phải), và lập hệ thống đồn
bót
dọc theo đê. Cùng với dân làng, mấy mẹ con rời làng, con đê, sông Hồng,
chạy vào phía sâu trong, tức phía núi Tản Viên, rồi khi tiếng súng đã
im,
tình hình yên ổn trở lại, dân làng tìm cách mò về, riêng gia đình tôi,
chạy
ngược lên Vĩnh Chân, Phố Ẻn, thuộc Phú Thọ. Rồi cũng thất tán mỗi người
một
nơi. Khi trở về làng, mấy năm sau, tôi nhìn thấy cái lô cốt, lần đầu
tiên.
Làng
tôi có ông giáo
Dực (hay Giực), thầy dậy của bố tôi, rồi của tôi. Ông là người từ đâu
tới,
lấy một bà cô của tôi, rồi "dừng bước giang hồ", không hiểu là do nhan
sắc của bà cô, hay là do Cô Ba, tức nàng phù dung. Do biết tiếng Pháp,
những ngày Tây chiếm đóng, ông thường lên bót gặp viên trưởng đồn, như
là một người đại diện cho dân làng. Có một lần, ông dẫn tôi theo, và
tôi
nhìn thấy một ông Tây, lần đầu tiên.
Trẻ
con vùng này hầu
hết là học trò ông giáo Dực. Ông là một người rất tự kiêu, như một kỷ
niệm
mà tôi còn giữ mãi: Khi ông già tôi bị giết do tai họa đảng phái, bởi
một
người học trò của ông, người học trò này cũng đã học ông giáo Dực, ông
bảo tôi: Bố mày bị giết vì thù oán cá nhân, chứ không phải học trò giết
thầy. Cái thằng giết bố mày, dưới mắt nó, chỉ có tao đáng là thầy dậy
nó
thôi.
Nhưng
không phải ông
giáo Dực, mà là một người con trai út của ông, tức chú Trực, mới là
người gần gũi với tuổi thơ của tôi, tại quê làng.
Lớn
hơn tôi vài tuổi,
tài hoa nhất mực, nào nghề đàn, nghề chụp ảnh. Chú là người đã dậy tôi
hát,
những bài hát đầu đời như "Anh Kim Đồng ơi, anh Kim Đồng ơi", "Mơ Liên
Xô".
Chú dậy tôi chơi đàn măng đô lin, chơi cờ tướng, gần như tất cả những
thú
vui ấu thời này đã theo tôi ra Hà Nội, rồi vào nam, rồi ra hải ngoại,
rồi
lên không gian ảo. Nhờ giỏi toán, giỏi đàn, tôi đã được Ông Tây, chồng
của
Cô Dung tôi để ý, thương hại, bảo bà cô của tôi lo cho ăn học, tại Hà
Nội,
và những ngày sau 1954, khi đã về Pháp, ông bà vẫn gửi tiền cho tôi
đóng
học phí, những ngày di cư. Riêng cái món cờ tướng, nó làm tôi mê mẩn,
theo
tôi vào trong kỳ thi, và, lẽ dĩ nhiên, vào trong tù.
Tôi
rớt tú tài phần
hai, kỳ một, là vì cờ tướng. Vào trường thi, tôi không làm sao tập
trung, bởi vì trong đầu chứa đầy những quân cờ, những nước đi của một
con mã, con pháo, hoặc con xe...
Nói
tóm lại, tôi nợ
Chú Trực của tôi nhiều lắm.
Khi
trở về, gặp lại,
biết được hoàn cảnh thương tâm của ông, tôi mới nhận ra, tất cả những
giấc mộng của ông, đã được thực hiện, một phần nào, ở tôi, ở thằng
cháu.
Chú
Trực còn một
người
anh, là Chú Thức, Học giỏi, sinh viên Hà Nội. Sau đó, ông theo Việt
Minh,
lên rừng, chưa thi thố được một chút tài năng, thì chết vì bịnh sốt
rét.
Chú Trực cũng đã từng được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, trong lần đi qua làng
lên
chiến khu, nhận làm học trò, và xin gia đình cho theo ông. Nhưng ông
giáo
Dực từ chối, viện cớ không có ai lo cho ông những ngày hiện tại và khi
về
già.
Về
lại quê nhà, tôi
mới hiểu ra, ông đã "giành" [theo nghĩa giành giựt, không cho không
cách mạng], cho người con trai út một việc: làm gián điệp
cho
Tây, mà "thuật ngữ" hồi đó gọi là làm Việt gian.
Do
tài đàn hát, chụp
hình, chụp ảnh... Chú Trực trở thành điểm gặp của thanh niên, trai
tráng trong làng, và trong vùng, lẽ tất nhiên, trong số đó, có nhiều
người là du kích. Chẳng ai nghi ngờ, khi nhờ chụp hình, Chú đã dành
riêng cho mình một tấm, và mang nộp cho Phòng Nhì Pháp, ở tỉnh lỵ Sơn
Tây. Chỉ tới khi du kích bị bắt nhiều quá, và tình cờ, một người du
kích nguỵ trang làm người đi mua
đồng nát, thấy chú Trực ghé Phòng Nhì, sự việc mới đổ bể.
Đang
đêm, du kích từ
bên kia sông, về bắt Chú mang đi. [Thằng em út của Gấu cũng bị đưa ra
hậu phương, trao cho ông bác, theo kiểu này]. Nhưng sau đó, Chú được
thả, do
có
người bà con làm Cách Mạng, thứ gộc, bảo lãnh. Nhưng chú không về
làng,
biệt tích luôn, thay tên đổi họ, lấy vợ, đẻ con. Chỉ tới khi Chú làm
đơn
xin vô Đảng thì lý lịch cũ mới lộ ra. Đám Cách Mạng trong làng tôi yêu
cầu
đưa Chú Trực về lại làng, để quản lý. Người vợ của Chú xin Đảng cho ly
hôn,
và xin cho đứa con "từ chối" ông bố Việt gian.
Về
gặp, ông nhắc, hồi
ở Hà Nội, tôi có chép tất cả những bản nhạc nổi tiếng lúc đó, và gửi về
tặng ông. Ông giữ mãi làm kỷ niệm. Sau có thể vì hoạt động gián điệp,
ông đưa lại tập nhạc cho đứa em trai của tôi. Tôi nghĩ, ông biết, sẽ có
ngày ông
bị Cách Mạng thủ tiêu, nên trả lại kỷ niệm của một thằng cháu đã vào
nam,
cho gia đình nó.
Liệu
ông tin rằng,
thằng cháu sẽ có ngày trở về?
Lần
gặp lại, nhìn
ông,
xót xa quá, tôi quên hỏi.
Tập
nhạc, thằng em
tôi, vì chẳng bao giờ nghe nhạc, nên đã để gián và mối xơi hết.
Trở
lại với cái lô
cốt. Cũng tại đây, tôi nhìn thấy con người (theo quốc gia) đánh con
người (theo cộng sản), lần đầu tiên.
Cháu có muốn
ra Hà Nội học không?
Trong
những câu
chuyện
về lòng biết ơn ông thầy hồi học mẫu giáo, tiểu học trường làng, có
một,
về một ông học trò vinh qui bái tổ, gặp lại, sung sướng, biết ơn, và
hãnh
diện "khoe" với ông thầy làng về sự thành đạt của mình - trong đo, lẽ
dĩ
nhiên có công đầu của ông thầy làng - bằng một câu hỏi, tuy vẫn có ý tự
khoe
mình, nhưng thật là tuyệt vời:
-"Thưa
Thầy, Thầy còn
nhớ con không?"
Tôi
tin rằng, ông
thầy
chẳng thể nào nhớ, cái ông mũ cao áo dài đó là ông nào. Bởi vậy, mới có
cái
câu hỏi "phô ra" lòng biết ơn của một ông học trò, để che bớt đi cái
khoản
mũ cao áo dài của mình.
Trong
Tuyển Tập Tạp
Ghi, Phan Lạc Phúc kể lại, thời lên tám, đang học lớp Dự Bị, thì một
bữa, ông bác đi xe ô tô về làng. Ông anh của ông vốn nhát, trông thấy
"nó" – cái
ô tô - là trốn biệt. Còn ông, nhờ bạo dạn, không những không sợ "nó" mà
còn dõng dạc đọc một bài học, khi ông bác ra lệnh. Thế là ông bác gật
gật
cái đầu ra vẻ hài lòng, "Cháu có muốn ra Hà Nội học không?"
Ông
bác sau đó lên xa
đi, và đứa cháu "tò mò đi theo mùi khói xăng, theo dấu những vết xe mà
lòng
bắt đầu mơ tưởng những chân trời mới lạ..."
Lạ,
lạ thật... bởi vì
tôi cũng có những kỷ niệm tương tự như ông, về cảm giác lần đầu nhìn
thấy cái xe hơi, và câu hỏi, "Cháu có muốn ra Hà Nội học không?" của
tôi cũng xêm xẹm, tuy có khác vài chi tiết nho nhỏ. Người hỏi tôi,
không phải là một
ông bác, mà là một bà cô lấy chồng Pháp. Tuy bà cô tôi hỏi, nhưng chính
ông Tây chồng bà mới là người biến câu hỏi thành một "hiện thực" lâu
dài.
Sau
đây là đoản văn
viết về hình ảnh cái xe hơi xuất hiện lần đầu tiên trong đời một thằng
nhỏ Bắc Kỳ. Bài hình như được viết cho một số báo Văn, đặc biệt về Hà
Nội, sau
in lại trong tập truyện đầu tay, "Những Ngày Ở Sài Sài Gòn", xuất bản
tại
Sài Gòn, năm 1970.
Trái
tim trong
thành phố
Trước
hết, tôi không
phải là người sinh trưởng tại Hà Nội. Quê tôi ở Sơn Tây, một tỉnh cách
xa Hà
Nội độ bảy tám chục cây số. Đối với một người miền Nam, khoảnh cách đó
chỉ
bằng quãng đường từ Sài Gòn đi ngã ba Trung Lương, thời gian di chuyển
chừng
trên dưới một tiếng đồng hồ. Nhưng ở Bắc, cuộc kháng chiến chống Pháp
bắt
đầu bằng chính sách tiêu thổ kháng chiến, đường xá cầu cống bị tiêu
huỷ,
quãng đường Hà Nội – Sơn Tây do đó cũng chịu chung số phận.
Làng
tôi ở ven sông
Hồng. Khoảng năm 1946 khi quân Pháp nhẩy dù xuống đồng bằng Sơn Tây sau
đó thành lập chính quyền quốc gia, gia đình chúng tôi chạy tản cư xa
dần sông Hồng, ngược lên vùng Việt Bắc. Ít lâu sau, chúng tôi tìm cách
dinh tê. Về Tề,
tôi theo học lớp Nhất trường tiểu học quận, và khi đậu tiểu học, tôi
được
ra Hà Nội học.
Muốn
đi Hà Nội, từ
làng tôi phải đi bộ dọc theo con đê, tới khi con đê gặp quốc lộ số một,
nối
liền Trung Hà, địa đầu của tỉnh Sơn, với tỉnh lỵ, rồi với Hà Nội. Do
đường
xấu, từ Sơn tới Hà Nội cũng phải mất một ngày trời.... Đối với tôi,
những
chiếc xe hàng cọc cạch từ từ bò trên con đường nhựa nham nhở kia, chẳng
khác gì những con cua, khi tới gần nghe tiếng máy nổ, ngửi mùi xăng
nhớt,
những kinh ngạc, lạ lùng, bỡ ngỡ... làm thằng bé nhà quê quên đi những
thú
vui đồng nội...
Hà
Nội như thế, đối
với tôi, là kỷ niệm về một cây kem lạnh buốt răng, là hình ảnh hiệp sĩ
bịt
mặt Zorro, người rừng Tarzan...
Vào
nam, tiếp tục
học,
ra trường, đi làm, cảm thấy nhớ Hà Nội như tuổi thơ vĩnh viễn qua đi,
chẳng
làm sao có lại. Những năm mới lớn luôn tìm cách trở lại Hà Nội không
phải
chỉ để thì thầm trong những lúc cô đơn, mơ mộng, mà còn là để viết
trong
những lá thư tình đầu tiên trong đời. Khi cảm thấy được yêu, có cảm
tưởng
như đã quên được rồi, Hà Nội, hoặc Hà Nội đã hiện thân ở nơi người yêu,
"Anh
yêu Em bởi vì anh yêu Hà Nội," ôi những cái "bởi vì" thật ngông cuồng
và
cũng thật đáng yêu của một thời trẻ dại...
Cách
đây ít lâu, hồi
còn độc thân, một bữa theo một người bạn về khách sạn ngủ. Phòng ngủ có
gắn
máy lạnh. Nửa đêm, chợt thức giấc, nghe tiếng máy lạnh chạy, trong
khoảnh
khắc, tôi bỗng có cảm giác lạnh giá như đang sống lại một ngày, và
tiếng
máy lạnh chạy rào rào kia chẳng khác gì tiếng gió bấc thổi ở nơi quê
nhà.
NQT
|