Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
HOME
Góc
Sài Gòn
|
Sài Gòn nghĩa là gì?
"Đời của mi, ngay ở đây, tại
nơi chốn
vất đi này,
mi đã làm hỏng nó…"
"Hãy nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất"
(Lawrence Durrell)
-Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ.
Khi viết xong tập đầu của một
bộ bốn cuốn,
về thành phố Alexandrie (Quatuor d’Alexandrie: Justine, Balthazar,
Mountolive,
Clea, lần lượt xuất bản từ 1957 tới 1960), Lawrence Durrell (1912-1990)
đã viết
thư cho bạn mình là nhà văn người Mỹ, Henry Miller; bằng một câu nói
nổi tiếng,
ông định nghĩa tác phẩm của mình: "Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một
trong những thủ đô lớn lao của con tim: Thủ đô của hồi tưởng."
Tất cả là giả tưởng. Chỉ có
thành phố là
có thực. Trong Lời Tựa cho cuốn Jusrine, Henry Miller viết: Đây là một
thành
phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự nguyện, sinh ra tại (dẫy núi)
Himalaya,
tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy Lạp, chỉ người đó mới có thể
làm cho
nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai dàn dựng (décor): nó là một
thực thể,
một sinh vật sống động, mang hơi hám ma quỉ, được tạo nên bằng máu
thịt, đất
đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền thoại." "Những nhân vật làm nên
cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác thường: tôi có thể đoan
trước rằng
họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu châu. Trong họ, có tất cả bụi
bặm và
những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông."
Henry Miller coi câu chuyện kể
trải ra,
không phải như diễn tiến của một cuốn tiểu thuyết bình thường: nó như
soi nhiều
tấm gương cùng một lúc; nó uốn éo trong một chất thiêng: ánh sáng. Một
thứ ánh
sáng siêu nhiên, tắm đẫm hồi tưởng.
Trong Lời Tựa, toàn tập, ấn bản
tiếng Anh,
tác giả viết: Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu thuyết, được đọc như là một
tác
phẩm đơn (a single work) dưới tiêu đề chung là Tứ Khúc Alexandria. Cũng
có thể cho
nó một tiểu đề là: một từ của sự liên tục (a word of continuum, liên
tục không
gian-thời gian theo Einstein). Theo G. Steiner, Durrell đã chuyển viễn
tượng
(thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách tự sự. Ông nhìn thành phố Alexandria theo
bốn chiều.
Cuốn Justine xuất bản năm 1957.
Đây là một
thời điểm rất có ý nghĩa với những độc giả người Việt, nhất là người
Việt di
cư, và đã từng sống ở Sài Gòn vào thời kỳ đó. Justine đã là một trong
những đề
tài được đem ra thảo luận của nhóm Sáng Tạo, trong nỗ lực đả phá cái cũ
(đặc
biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn), và cổ xuý cho một cái mới. Cá nhân tôi
tin rằng,
mấy ông trong Sáng Tạo "mê" Alexandria của Durrell, là bởi vì vừa mới
mất Hà Nội! Phạm Công Thiện cũng rất mê Durrell, nhưng qua một bài viết
của ông
mà người viết đọc từ thuở nảo thuở nào, ông chỉ mê Justine, cô điếm
thượng lưu
của thành phố này thôi.
Nhưng đâu phải một mình ông!
Những trích đoạn, là về thành phố Alexandria,
nhưng khi đọc chúng, Jennifer tôi tưởng tượng, đây là nói về Sài Gòn:
Chính thành phố phải chịu xét
đoán; nhưng
chúng ta, những đứa con (của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être
jugée; mais
c’est nous, ses enfants, qui devons payer le prix.)
Sài Gòn là một máy ép tình yêu;
thoát ra
khỏi, là những kẻ bịnh hoạn, những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất
cả những
kẻ dục tính bị tổn thương nặng nề.
(Alexandrie était le grand
pressoir de
l’amour; ceux qui en réchappaient étaient les malades, les solitaires,
les
prophètes, tous ceux enfin qui ont été profondément blessés dans leur
sexe).
Nàng là ai? Cái thành phố mà
chúng ta đã
chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh,
những vết
thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Lũ đàn ông chúng mình, đều được
tạo ra
bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn
(Tout homme est fait de boue et de daimon, et la femme ne peut pas
nourrir ces
deux côtés de sa nature à la fois: Mọi người đàn ông đều được tạo nên
bằng bùn
và quỉ ma, và một người đàn bà do bản chất, không thể nuôi nấng cả hai
khía
cạnh này cùng một lúc).
Chú thích:
Theo tiếng Hy Lạp cổ, daimôn có
nghĩa là
"thiên tài che chở" (le génie protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ
ma (démon), và còn được chỉ những nhân vật "trung gian" giữa thần và
người. (Chú thích bản tiếng Pháp, dịch từ tiếng Anh, của Roger Giroux,
nhà xb
Buchet-Chastel, 1959, lần tái bản tháng Năm, 2000)
Sài Gòn nghĩa là gì?
Ấn bản đặc biệt, dành cho thân hữu và những người yêu sách đẹp
*
Tặng thêm bài thơ
*
POEMS (1905-1915)
THE CITY
You said: 'I'll go to another
land, I'll
go to another sea.
Another city will be found, a better one than this.
My every effort is doomed by destiny
and my heart - like a dead man - lies buried.
How long will my mind languish in such decay?
Wherever I turn my eyes, wherever I look,
the blackened ruins of my life I see here,
where so many years I've lived and wasted and ruined.'
Any new lands you will not
find; you'll
find no other seas.
The city will be following you. In the same streets
you'll wander. And in the same neighborhoods you'll age,
and in these same houses you will grow grey.
Always in this same city you'll arrive. For elsewhere - do no
hope-
there is no ship for you, there is no road.
Just as you've wasted your life here,
in this tiny niche, in the entire world you've ruined it.
C.P. Cavafy
*
Give me another life, and I”ll be
singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
Brodsky
*
Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ
hát
ở Cà Phe Quán Chùa. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.
Bạn
nói: “Tớ sẽ đi tới một
biển trời khác,
Và sẽ kiếm thấy một Sài Gòn
khác, bảnh hơn Sài Gòn này.”
Mọi cố gắng của tớ thì đều bị
số phận trù ẻo
Và trái tim của tớ – như một
người chết – bị chôn vùi.
Tớ còn phải nức nở than van
bao lâu nữa, trong cái thành phố thối rữa như thế này?
Nhìn đi đâu, về hướng nào,
Thì cũng vẫn những điêu tàn
đen đủi, là cuộc đời của tớ mà tớ nhìn thấy,
Ở một nơi trong bao tháng năm, tớ hoang phế đời mình."
Bạn sẽ
chẳng tìm thấy một
biển trời mới mẻ nào đâu, nghèo mà ham!
Sài Gòn sẽ tò tò bám theo bạn,
như một con đỉa đói!
Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao (1) nào con
hẻm
72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ, nào Xóm Ken bên kia Thủ Thiêm
Vẫn những chòm xóm đó mà bạn cứ
thế mà mòn mỏi, tàn tạ đi
Mớ tóc xam xám, rồi muối tiêu, rồi bàng bạc, rồi
trắng toát!
Vẫn Sài Gòn mà bạn sẽ
tới!
Ui chao đừng hy
vọng, đừng
trông mong,
Chẳng có tầu, mà cũng chẳng có đường.
Như bạn tàn tạ cuộc đời
của bạn, ở đây.
Ở Sài Gòn-Toronto này!
(1)
… nào, đâu,
thư viện Gia Long, thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc
bộ, có
quán cà phê Làng Văn, đêm nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm
thơ, và
cũng chẳng bao giờ là thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:
Em đi áo lụa
mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ
cuối đường...
Góc Đa Kao, Sài Gòn
Justine
Hãy
chừa riêng ra cho anh,
những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi
les blessures de
l’amour partagé
avec Justine).
Lũ
đàn ông chúng mình, đều được
tạo ra bằng
bùn và quỉ ma của Sài Gòn.
|