Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
HOME
Góc
Sài Gòn
|
Lần cuối, Sài Gòn
Viết,
một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối
tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11
tuổi, học
trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên
kia nhà
cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ
cái tên
có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm
xuyết của
một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng
những cảnh
chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một
tờ báo
Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".
Một
tiệm sách có tấm bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá
khứ, vừa làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi thường đứng tỳ tay
nhìn
xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ cô bé trở về nhà trên đường đón
em học
trường mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng. Ngay ngã
tư có
tiệm Thanh Xuân, nơi hân hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học bạ,
nhờ vậy
tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được họa sĩ Ngọc Dũng thương tình
chuyển
thành phác họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ ba tháng hè
kéo
nhau tới nhà anh T. ăn bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những buổi
chiều
hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo dài...
Khi
gặp lại, cô bé đã đậu tú tài phần một, được ông bố khắc
nghiệt cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi theo chuyến xe đò sớm
nhất
vượt quãng đường mấy trăm cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ
hai đi
làm, trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà phê Tùng, tiếng hát
Sylvie
Vartan, "J'attendais que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé xuất
hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng xa gần giữa vườn
thông,
trước ống kính máy chụp hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng
sở. Khi đó
tuy ông Diệm không còn, nhưng Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh
trừng địa
chủ nên bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.
Khi
về, cô bé có thói quen để cô em vô nhà, còn cô chạy đến
bên phông tên ngay bên đường cách nhà chừng mười bước để rửa chân, thật
ra để
đùa nghịch cùng những giọt nước. Những cử chỉ, dáng điệu của cô làm tôi
sau này
vẫn thường băn khoăn tự hỏi, không biết cô bé đi đón em tan trường về,
hay
ngược lại. Những giọt nước bị đôi bàn tay nhỏ bé ngăn chặn, bắn tung
tóe, trầm
bổng, trở thành muôn vàn nụ cười trên môi, trên má, trên tóc, càng thêm
long
lanh nhờ ánh mắt tinh nghịch, nhờ nụ cười, tôi gặp lại hình ảnh tuyệt
vời này
trong phim "Lần cuối nhìn Paris", như thể chính cô bé của tôi đã khám
phá ra, đã tìm lại cho cả Châu Âu, cho cả loài người, một thành phố
Paris bị
chiếm đóng vừa được giải tỏa, và nữ tài tử Liz Taylor chỉ lập lại những
cử chỉ
thật đàn bà của một cô bé con-người nữ muôn đời ở trong tôi.
1965.
Những ngày viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời
gian xa cách làm những giọt nước chín mùi, biến thành những chữ. Cô bé
đã lớn,
đã bước vào những năm cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần tham gia
biểu
tình, bãi khóa. Đã có người yêu đón đưa những lần tới lớp, những giờ
tan
trường. Đã bị bà Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò có hại cho thanh
danh nhà
trường như vậy. Đã bãi học không phải để tham gia biểu tình, nhưng để
đi chơi
với người yêu. Lợi dụng thành phố đang trong cơn nhốn nháo, cả hai theo
chiếc
xe lên nghĩa trang Bắc Việt để thì thầm những lời yêu đương giữa những
nấm mồ
và lắng nghe những người đã chết kể về từng gốc cây ngọn cỏ. Cô bé đã
quên
những buổi chiều đùa nghịch ngày xưa, có thể vì vậy mà phông tên nước
cũng
chẳng còn, có thể vì cô biết rằng chẳng còn ai mỗi lần tan sở vội vàng
đạp xe
tới cho kịp nụ cười của cô, nhưng vẫn giữ thói quen bọc những cuốn tập
bằng
những tờ giấy xanh có một cái tên rất đỗi trớ trêu là những tờ giấy
dầu, kèm
thói quen cất giấu những lá thư ở giữa hai lần bìa, như thể những bài
học lạnh
lùng, những công thức khó nhớ sẽ che chở giùm cho cô những tình cảm
bồng bột,
trước con mắt tò mò, soi mói của người khác, như thể những dòng chữ
nóng bỏng
trong thư nếu không làm cho cô học bài dễ dàng, ít ra nó cũng làm cho
cô bớt cô
đơn, trống trải. Cô viết: "Làm sao có thể quên được một người đã nói
yêu
mình, lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón H. trên đường tới trường
Gia
Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn, buổi sáng sớm sau bao năm trời xa
cách, H. đã
tự nhiên ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu." Lần khác cô viết: "Có
những đêm H. giật mình thức giấc, có thể vì nước mắt đầm đìa trên gối.
H.
thường khóc trong khi ngủ, mỗi lần quá cô đơn và nghĩ đến anh."
1965.
Những ngày cuộc chiến tuy chưa dữ dội nhưng đã hứa hẹn
những điều khủng khiếp. Người Mỹ đổ quân xuống bãi biển Đà Nẵng, liền
sau đó là
lần chết hụt của tôi tại nhà hàng Mỹ Cảnh. Tất cả những sự kiện đó, mỉa
mai
thay, chỉ làm cho bóng ma chiến tranh thêm độc, đẹp, thêm quyến rũ và
trở thành
những nét duyên dáng không thể thiếu của cô bé. Của Sài-gòn.
Chỉ
có những người vội vã rời bỏ Sài-gòn ngay những ngày
đầu, họ đã không kịp sửa soạn cho mình một nỗi nhớ Sài-gòn. Còn những
ai ở
trong tâm trạng sắp sửa ra đi, đều tập cho quen dần với cơn đau sẽ kéo
dài. Đều
lựa cho mình một góc đường, một gốc cây, một mái nhà... để cười hay để
khóc một
mình. Một mẩu đời, một đoạn nhạc, một bóng chiều, một giọt mưa, một sợi
nắng...
để gọi thầm trong những lúc quá cô đơn. Để mai kia mốt nọ, trên đường
tha
phương cầu thực, nơi đất khách quê người, những khi ngọn gió heo may
bắt đầu
thổi, những khi ngồi bó gối bên trời, nhìn lá vàng rơi đầy, lấy tay che
thời
gian không nổi, hay những đêm tàn nghe bếp lửa réo gọi... sẽ nhâm nhi
những
cọng cỏ tưởng tượng của quê hương. Ôi,"Ôm em trong tay mà đã nhớ em
ngày
sắp tới" (1). Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonard, nơi có bót Hàng Ken,
chú bé di cư ngày nào ngơ ngác, rụt rè làm quen, tự mình khám phá
Sài-gòn. Gần
gốc cây chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã
man một
người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào trong bót.
Chú bị ăn
bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh vợ, mắc mớ chi tới mày. Đồ
con nít
Bắc kỳ di cư, vô đây làm tàng. Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm
quen thành
phố, được thời gian gọt giũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết
là chừng
nào trên khuôn mặt cô bé. Trên khuôn mặt Sài-gòn.
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong,
nay sống lại,
chỉ để kể về nó.
1967.
Có những đoạn đời, tôi sống thường trực bằng cái chết
của những người thân. Một lần, thời gian em tôi chưa tử trận, tôi đi
coi xinê,
khi ra về thấy em tôi giữa đám người ngồi gần màn ảnh. Và cái cảm giác
bàng
hoàng khi nghe tin còn kèm theo nỗi hối hận, chua xót, khi nhận ra sự
thật: Tôi
đã giấu giếm quá kỹ những tình cảm ruột thịt đến nỗi khiếp sợ khi phải
đối diện
với nó. Những lần trốn nắng gắt Sài-gòn, tôi chui vào rạp xinê tìm một
chỗ
trống xa màn bạc, làm như vậy biết đâu đứa em trai vẫn ngồi đâu đó phía
trên
kia, và tôi cố tìm cách thù ghét Sài-gòn thay vì thù ghét chiến tranh,
cố tin
rằng em tôi chỉ cận thị chứ chưa hề tử trận, cố tìm cách trở về quãng
đời êm ả
khi anh em còn đi học, khi thành phố chưa bị cái đói, cái rét của một
miền đất
xa xôi ám ảnh, đe dọa. Con đường Phan Đình Phùng vẫn còn phông tên
nước, và
chiến tranh đang kết thúc ở ngoài kia, ở ngoài Sài-gòn.
Em
tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người
lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió
thoảng
lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi
trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về
phía
trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong
tràng AK
từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà
nằm luôn
trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra
vì sợ
làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi
phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm
niệm,
chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi
theo
với chuẩn uý."
Có,
có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ
một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về
nghĩa
trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo
sanh, người
chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết
thân
thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...
Em
tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ
của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn
Chuối,
ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent,
miệng còn
dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con
tầu,
chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào
dài. Hai
anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những
đống
rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa
trêm mặt
sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh
Hội, và
đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của
bà mẹ,
từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt
thất
vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng
không nuôi
nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít,
chằng
chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm
trợ giáo,
cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con
với anh
Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung
với Doãn
Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác
thành
tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.
Một
Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn
Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm
khách
quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris
Match, với
mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình
một cậu bé
mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua
đi
rồi mà!"
Đó
là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu
và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có
đủ thì
giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng
kỳ trên
nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ,
như một
an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô
Kim nào
đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn
chết
trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của
em
tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình
trà
"ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."
"Sao
không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã
có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt
lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của
những
cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ.
Nhớ bùn.
Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ
ngã tư
đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng
Thích Quảng
Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về.
Nhớ những
ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học
trường Kiến
Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán
cà phê
Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn
Tao Đàn.
Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang
trở thành
người lớn.
Nhớ,
nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay
chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như
những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam
mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong
mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn đang âm ỉ cháy. Tôi
đốt lên ngọn nến của tôi để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Buổi
sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong
quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca
xưa mà
sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày
tháng Tư
nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm
khát,
mong sao được là nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ
biển cả,
từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà
Cộng sản
miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương
đang nhỏ
lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời
không biết
hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...
Và
tôi bỗng thấy bớt nhớ Sài-gòn.
Phút
cuối nhìn lại Sài-gòn, tôi có cảm tưởng mọi nhà, mọi
người đang tiễn tôi bằng tiếng hát Thanh Tuyền, như một lời nhắn nhủ:
"Nếu
mai không nở thì anh đâu biết Xuân về hay chưa..."
1989.
Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể
lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những
cơn đau
đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita
- đã
lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một
nhà bác
học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú.
"Tác
phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn
song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong
chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở
vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của
Koestler. Tôi
đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng
Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự
do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu
người,
trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời
ấu thơ
của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần
thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự
thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm chua xót: Một giấc mộng, dù lớn
lao dù
lý tưởng cỡ nào, cũng không thể làm sống lại, một sợi nắng ấm của
Sài-gòn:
Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở
trong
tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo
đường cũ
xưa, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với thành phố, bởi cái
phần đời đó
mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt
giữa tác
giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc
lại
Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều
bị trù
yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc,
Hà-nội.
1954.
Những ngày đầu kinh ngạc bỡ ngỡ, cố làm quen Sài-gòn.
Chú nhỏ mồ côi cha, một mình lủi thủi xuống tầu, bỏ lại thành phố vừa
mới kịp
yêu mến. Tiếng còi mười giờ chạy dài trên con phố Tràng Tiền, đuổi theo
chú bé
đến tận con tầu khổng lồ. Ngơ ngác nhìn biển lạ lần đầu. Cơn say sóng
dật dờ.
Ngay cả trong giấc mơ, chú vẫn còn trông thấy thấp thoáng đâu đó, những
trái
sấu vàng vương vãi trên con đường từ hồ Halais tới nhà trường gần bên
Bờ Hồ. Vẫn
đứa trẻ lớn lên tại Sài-gòn nhưng lúc nào cũng ngây thơ, cứng đầu,
khăng khăng
mặc cả cùng quá khứ, nỗi mất mát chỉ có thể đền bù bằng một tình yêu
lớn lao
đầu đời: "Anh yêu em bởi vì anh yêu Hà-nội". Ôi những cái "bởi
vì" ngông cuồng đáng yêu của một thời thơ dại.
Cả
tới khi mối tình tan vỡ vẫn xót xa gượng cười, bởi thành
phố tuổi thơ có bao giờ phản bội?
Và
trộn vào giấc mơ tuổi thơ, là cơn mộng đời rực rỡ. Sẽ trở
thành nhà văn. Sẽ viết một truyện dài nối liền được hai thành phố.
Cơn
mộng đời dẫn tôi tìm lại Koestler, qua bản dịch tiếng
Pháp, những ngày học Chu Văn An, khi nhà trường còn nằm phía sau trường
Pétrus
Ký, miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Đọc và gần như thuộc
lòng một
số câu văn, để trau giồi ngoại ngữ, thâu thập tri thức, tập tành suy
tưởng. Rồi
dần dà theo tuổi học, tuổi đời, tôi lần tới những câu của Camus, con
người nổi
loạn, những khẩu hiệu làm rung động loài người (Bí mật của Vô sản là
cái chết
của Tư bản, thí dụ vậy), những trang nhật ký của Roquentin...
Cùng
với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong
tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà
văn.
Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St.
Petersbourg
thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một
góc bàn
tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ
đại, biến
đổi thế giới, làm lại loài người.
Hay
một London
của Dickens, một buổi chiều đầy sương mù, chú bé Oliver Twist đói lả
người, như
tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách đến trường, đêm đêm làm bồi
bàn, thời
người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt Nam.
Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long
nơi tôi
tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo,
chưa
biến thành nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành
riêng cho
đám quân nhân Hoa Kỳ.
Ngày
mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée)
Ôi
Sài-gòn, một Sài-gòn hư tưởng, một Bouville, một London,
của riêng tôi đó!
Koestler,
enfin, retrové, cuốn "Le Zéro et
l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến đi không xa, trong mớ sách "ký
gởi" - một hình thức mới của sách vỉa hè- tại một tiệm phía bên kia cầu
Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may mắn sống sót sau những ngày tháng
Tư, trở
thành những nạn nhân đầu tiên thay con người Sài-gòn dãi dầu mưa nắng
Trong số
những người đang lục lọi quanh tôi, có kẻ chỉ tò mò lật vài trang đầu,
tìm tên
chủ nhân, có thể kèm theo đó là một lời đề tặng của chính tác giả cuốn
sách. Cả
hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ sách kỷ niệm đổi lấy một vài mớ
rau, một
hai lon gạo.
Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn
chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những
Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn
bè, đến
khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn
mang sự
thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng
ta
quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính
tương lai
và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu
những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm
lớn khác
- một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ
ràng
Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là
những bản
sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có
tham vọng
văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát
giải
thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ
mong
người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn
vào sinh
viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai,
ông này
lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học
ở Paris.
Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không
có quá
độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lolita, của một người bạn thân.
Tôi
gặp K. khi anh từ một trại cải tạo ở miền Bắc về, tại
chợ sách phía sau rạp Đại Nam, điểm không hẹn mà gặp của những kẻ chỉ
cần nhìn
lại một cuốn sách cũ là cảm thấy bạn bè vẫn còn đủ, Sài-gòn vẫn là
Sài-gòn.
Bẵng thật lâu, trước chuyến đi xa chừng nửa năm, tôi gặp lại anh, lúc
này làm
nghề bán sách dạo. Anh thận trọng ghé chiếc xe đạp với chồng sách cao
ngất
ngưởng, vào lề đường, rồi đến bên tôi, thường là buổi chiều, tại cà phê
"Bà Lê Chân", cũng một quán đặc biệt vỉa hè Sài-gòn, của một anh bạn
xưa thi sĩ. Chủ quán cười cười như để bào chữa cho vai trò mới mẻ của
mình: Quán
là khởi đầu của mọi khởi đầu. Và khởi đầu, cho dù buồn, vẫn còn hơn kết
cục
vui. (Le début même triste, c'est mieux que la fin heureuse. Cantique
des
cantiques). Câu nói của anh còn là lời trách móc nhẹ nhàng cái tật của
tôi, khi
viết, thường hay lấy một câu của một nhà văn nước ngoài làm khởi đầu.
Quán, nơi
tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào
cũng nhớ
hoài, giống như sự trừng phạt. Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
Le
domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
"Niên học cuối của Lan Hương ở bậc Trung Học, bắt đầu
bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà-nội..."
1965,
cùng với truyện ngắn đầu tay, "Những ngày ở
Sài-gòn", đăng trên tuần báo Nghệ Thuật, tôi đã mơ tưởng một truyện dài
nối liền được hai thành phố. Làm như cuốn sách nhỏ bé có thể xoa dịu
cái xấu
của cả một miền đất. Thiên nhiên, mặt hồ, mặt ao... in hằn vẻ khắc
nghiệt của
số phận từng con người, khiến họ chỉ nhìn thấy nỗi khổ đau, chỉ làm cho
họ thù
ghét trước khi tìm cách yêu thương nhau. Làm như những chữ mỏng manh
yếu ớt có
thể làm sống lại người cha thân yêu đã mất tích vì tai họa đảng phái
ngay những
ngày đầu mọi biến động và cũng là ngày đầu mọi khổ đau của một bà mẹ
cùng bốn
đứa con, người chị lớn nhất mới 9 tuổi. Người cha mất tích đúng ngày 30
tết năm
1945, sau này mấy anh chị em vẫn lấy mâm cơm giao thừa làm mâm cơm
cúng...
Giờ
này, tôi chỉ còn nửa giấc mơ. Hà-nội đã chết trong tôi
từ lâu, cũng như trong một số người thân quen. Thanh Tâm Tuyền chắc
cũng rõ điều
này, khi viết xong "Bếp Lửa", nhưng anh cố tình chống trả sự thật tàn
nhẫn, trong bài viết khi cuốn sách được tái bản lần cuối tại Sài-gòn,
trước khi
lịch sử sang trang: "Tôi đã loay hoay, hì hục viết một Bếp Lửa khác".
(Một Hà-nội khác, theo tôi). Nhưng rồi chính anh cũng phải giận dữ để
cho một
nhân vật thốt lên: "Hà-nội là cái quái gì".
Hà-nội
cũng đã chết với Mai Thảo trong "Đêm giã
từ...": "Tôi nhìn xuống Hà-nội. Địa ngục ở đó".
Hà-nội
chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn
bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Đó còn là nỗi sợ hãi đời
sống,
và mong muốn có một người cùng chia xẻ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là
phản ứng
của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với
nắng ấm
Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh buốt.
Hình như
bằng những xôn xao, những mơ hồ như vậy khi tôi viết cho Lan Hương
những dòng
cuối cùng: "Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ
chúng
ta thương nhau nhiều quá".
Hà-nội
giá lạnh dần trong tôi theo hơi ấm toát ra từ hai bàn
chân của đứa em trai, chuẩn úy Nguyễn Quốc Sĩ, sĩ quan khóa 23 Thủ Đức,
biệt
phái tiểu đoàn Địa Phương Quân canh giữ phi trường Sóc Trăng, tử trận
ngày 23
tháng 11 năm 1967, trước biến cố Mậu Thân một năm, sau khi ra trường
chưa đầy 7
tháng, chưa kịp lãnh lương theo đúng cấp bậc. Chưa kịp ghi địa chỉ cấp
báo thân
nhân. Mấy người sĩ quan cùng đơn vị chỉ nghe nói Chuẩn Úy có một người
anh làm
công chức Bưu Điện tại Sài-gòn, ngoài ra còn viết văn, viết báo. Và tôi
biết
tin em tôi tử trận qua tờ công lệnh gởi tới Đài Phát Thanh Sài-gòn, nơi
tôi
thỉnh thoảng gởi bài cộng tác, và qua hệ thống điện đàm nội bộ, giữa
hai Đài Vô
Tuyến Điện Sóc Trăng-Sàigòn, trong căn phòng kế bên văn phòng tôi làm
việc.
Trong
những giờ phút thê lương ngồi bên xác đứa em tại nhà
hội Thị Xã Sóc Trăng, nghe những người lính cùng đơn vị của đứa em kể
lại những
giây phút cuối cùng của người chỉ huy, nhìn hai hàng nến, lá quốc kỳ,
viên sĩ
quan đứng cứng người như pho tượng trước chiếc quan tài trong kẽm,
ngoài gỗ,
tôi có cảm tưởng đứa em đã đem cùng với nó giùm tôi tất cả những kỷ
niệm còn
sót lại về một thành phố đã có lần hai anh em cùng rời bỏ: Hà-nội
maudit!
1958.
Học xong Trung học tôi thi vô Trường Quốc Gia Bưu Điện
vừa mới được thành lập sau một năm lân la làm quen cái không khí đầy
nao nức
của tương lai như đang giục giã ở ngay đầu ngã tư của cuộc đời, ở đại
giảng
đường Đại Học Khoa Học. Bạn thử tưởng tượng một học sinh nghèo, sống
chui rúc ở
cuối con hẻm Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám người nghèo khổ bám quanh thành
phố,
khi chiến tranh chưa dồn dập đem những tiện nghi đến tận giường ngủ, xó
bếp,
rồi lấy đi một số người thân, quanh năm chỉ biết xài đèn dầu, uống nước
giếng.
Đám thanh niên, ngoài những lúc tự an ủi lẫn nhau bằng những mối tình
tưởng
tượng, bằng những tiếng hát nhái theo giọng Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch
quanh cây
đàn ghi ta bên cạnh giếng nước, vào những lúc con xóm sau một ngày mệt
lả, mặc
tình cho bóng đêm và muỗi đói hành hạ; buổi sáng chỉ còn cách kéo nhau
ra mấy
dẫy nhà lụp xụp, mặc tình ngắm nghía mấy cô gái họ vẫn thường trầm trồ,
mỗi lần
thoáng thấy bóng. Các cô lúc này xắn quần cao, thoăn thoắt giữa đám rau
muống
xanh um phủ kín mấy vũng nước đen ngòm, nguồn lợi thứ nhì sau mấy ao
cá, một
nơi chốn hẹn hò khác nữa của các cô cậu choai choai, và của đám con
nít; bỗng
một ngày đẹp trời, thấy như Alice lạc vào xứ thần tiên, lạc vào trường
Đại Học
Khoa Học.
Phở
hồi đó ba đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người
dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi
chưa nếm
mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc
Việt. Những
buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình
giấu giếm
cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi
chợ Phú
Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà
già Bắc
Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi
liềm,
tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm
tưởng cả
con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của
nó: Tô
phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi phở có chút hiền từ của khói
nhang, của
những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và
dùng
điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào
cũng lao
về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất
tả chạy
quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp
nhìn thấy
một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía sau
lưng đòn
gánh. Khi đã đi làm, có lương tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng
đời xô
đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe
vòng
vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh
cuốn
Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân, khu Tân Định. Thứ bánh
cuốn mỏng
tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm
miếng đậu
phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa. Chủ nhật đổi món bún
thang dậy
mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba
giọt cà
cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn
tuyệt vọng
chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực,
sau những
ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra
chính đó
là kẻ thù... Nhìn bước đi thời gian trên khuôn mặt xinh tươi của mấy cô
con gái
bà chủ tiệm, mới ngày nào còn tranh giành đồ chơi, còn tị nạnh đùn đẩy
nhau
trong việc phục vụ khách, bây giờ đã biết đỏ mặt trước mấy cậu thanh
niên. Tự
nhủ thầm hay là tới 79 đợi một tô phở đặc biệt sau khi len lỏi qua các
dẫy bàn
chật cứng thực khách, cố tìm một cái ghế trống. Hay tới quán bà Ba Bủng
để rồi
lưỡng lự, giữa một tô bún ốc; cố tìm lại hình bóng con ốc nhồi ngày
xưa, tại một
vùng quê của xứ Bắc Kỳ xa lơ xa lắc, chỉ muốn quên đi, chỉ muốn chối từ
nhưng
cuối cùng khám phá ra, trong đáy sâu âm u của tâm hồn, của tiềm thức,
của quá
khứ, hiện tại, tương lai, của hy vọng, thất vọng, của hạnh phúc, khổ
đau... vẫn
có một con ốc nhồi ẩn náu dưới mớ bèo trên mặt ao đầy váng; giữa một tô
bún
riêu, hay một tô bún chả thơm phức vẫn còn chút dư vị chợ Đồng Xuân,
mới ngày
nào được về Hà-nội ăn học. Ôi tất cả, chỉ vì thèm nghe cho được cái âm
thanh ấm
áp của mấy đồng bạc cắc reo vui suốt con hẻm Đội Có, Bà Trẻ cho, ngày
nào, ngày
nào...
Bà
Trẻ, vợ một người em ông Ngoại, khi còn con gái nổi tiếng
đẹp, thông minh, học giỏi, được ra tỉnh học, đột nhiên bị gia đình gọi
về quê
gấp. Bà đã đành vùi dập giấc mơ trở thành cô giáo, để đi lấy chồng,
đúng ra là
để làm vợ thế cho bà chị ruột, vợ ông Nghị, lúc đó bệnh nặng nằm chờ
chết. Để
nuôi nấng, dạy bảo đứa con gái còn đang ẵm ngửa của bà chị, đúng ra, để
giữ mớ
của cải bên chồng không cho lọt ra ngoài, đúng hơn, không rớt tới đám
con của
mấy bà vợ trước.
Sự
hy sinh của bà không được đền đáp. Cô con gái sau này vẫn
thường tỏ ra hỗn hào, ý rằng bà sống nhờ của cải, tiền bạc của mẹ ruột
cô ta,
chưa kể nỗi ganh tỵ, sau biến thành hận thù, rồi được Cộng Sản cho phép
biến
thành nợ máu của mấy cô cậu thuộc đời vợ thứ nhất, thứ nhì. Họ tố bố
địa chủ
hãm hiếp mẹ nông dân, tố mẹ ghẻ, ngoài tội hành hạ đánh đập con chồng,
bóc lột
công sức lao động, ngoài ra còn thêm tội giấu giếm tài sản, tiền bạc,
của
cải... Bà Trẻ cuối cùng may mắn đem đứa con trai độc nhất, ông chồng,
cô con
gái bà chị xuống được Hải Phòng, rồi vào Nam.
Ông
Nghị, tướng người cao lớn, mấy đời vợ, mấy dòng con,
không kể con rơi con rớt, con làm phước. Bà Trẻ kể cho tôi nghe về một
cặp vợ
chồng hiếm hoi, đã nhờ vả ông. Và đứa con gái, kết quả của mối tình
"thả
cỏ", của một bữa rượu say sưa bên mâm thịt cầy trong lúc người chồng
giả
đò mắc bận đi ra bên ngoài, đã bị câm ngay từ lúc lọt lòng. Nghe bà kể,
tôi mơ
hồ nhận ra nỗi thất vọng của một người đàn bà đã hy sinh một cách vô
ích tuổi
trẻ, nhan sắc, sự thông minh và luôn cả lòng tốt, tính vị tha của nình.
Cậu H.
vì không thể là đứa con của hạnh phúc, cho nên không được thừa hưởng
tính thông
minh của người mẹ, vóc dáng cao lớn của người cha, nhưng vẫn giữ nguyên
được
truyền thống của những người đàn ông trong họ, luôn coi người đàn bà là
chủ
trong gia đình. Cậu luôn tỏ ra bất lực trước người chị cùng bố khác mẹ,
một cô
gái tuy chưa đến tuổi lấy chồng mà đã là gái già. Những lần bị đay
nghiến hành
hạ quá mức, cậu chỉ phản ứng bằng cách đập đầu vào tường. Âm thanh của
sự nhẫn
nhục không chịu dừng lại ở ngưỡng cửa chiến tranh: Trong những năm miền
Nam
ngày đêm bị Thần Chết réo đòi mạng, cậu H. đã áp dụng khí giới hữu hiệu
nhất mà
cậu có, là tự hành xác để được hoãn dịch. Cậu nhịn ăn, nhịn ngủ, uống
cà phê
đen đậm đặc, cố làm cho xuống cân, phổi có vết nám... Không chịu ngừng
lại mà
còn vượt xa hơn nữa, tới miền đất của phúc phận, nghiệp duyên: Cuộc
sống gia
đình hạnh phúc những năm sau 1975, theo Bà Trẻ, là do Đức Phật đã hiểu
thấu nỗi
khổ đau, lòng ăn chay, niệm Phật của bà, nhưng tôi cho rằng Ngài đã bị
những
tiếng đập đầu binh binh của cậu H. làm giật mình, nhìn xuống cõi đời ô
trọc
này.
Tôi
viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn.
28.3.1966.
"Tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại
của tình yêu". Ôi chao, tôi đã có lần viết về cái cảnh thất thểu dưới
mưa
chạy theo một cô bé con nơi đường Cộng Hòa, trước cổng trường Đại Học
Khoa Học,
và cái cảm giác giận dữ, mệt mỏi theo tôi hoài, còn dai dẳng hơn cả mối
tình.
Hãy
viết về Sài-gòn cho chẳng riêng ai mà cũng là cho tất cả
mọi người. Hãy viết về một thành phố trong cơn hối hả tìm một người
thân tưởng
đã mất tích, cuối cùng đã mất gần như tất cả những đứa con thân yêu còn
lại.
Hãy viết về một thành phố tưởng như nông nổi tạm bợ, tưởng như lúc nào
cũng
muốn có tất cả, muốn sống một lần, ngay lập tức, ngay tại đây... nhưng
có khả
năng cảm hóa, biến đổi tất cả những con người đã từng sống trong nó,
thành
những tín đồ của một thứ đạo giáo, đạo Miền Nam, đạo Sài-gòn. Hãy viết
về những
bạn bè thân yêu, đã lang thang nơi chân trời, đã nằm sâu dưới đáy mồ
biển cả,
nơi rừng sâu nước độc, đã thất lạc... mà địa chỉ cuối cùng còn giữ
được:
Sài-gòn.
NQT
Chú
thích: Được viết tại trại tị nạn Sikiew, Thái Lan. Lần
đầu xuất hiện trên báo Làng Văn, Canada (năm 1993, hình như vậy)
|