Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
HOME
Góc
Sài Gòn
|
Những
ngày ở Sài Gòn
(1965)
Tặng Phạm Năng Cẩn
Nơi
tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building, bất
động sản của người Pháp; tôi là chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy
móc, trông
coi đường dây liên lạc vô tuyến điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài
Gòn tới
những thành phố lớn, thủ đô các quốc gia trên thế giới. Do hoàn cảnh
địa dư,
buổi sáng tôi có thể chào buổi chiều, "Good Evening", với một đồng
nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi có thể hỏi thăm hoặc bông đùa
đôi câu
với một nữ điện thoại viên ở Hongkong, hoặc Tokyo… Buổi chiều, tôi có
thể biết
thời tiết một Paris buổi sáng; tôi hỏi thăm những đồng nghiệp không bao
giờ gặp
mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa đông ở nơi xa xôi đó có gì tương tự
với
những ngày giá lạnh của miền quê hương cũ… Chiến tranh ngăn chặn quá
khứ một
quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả
những ước mơ
khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức mà từng
đứa lựa
chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập
Yoga, ăn cơm
gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận cùng
bằng
câu, "Bao giờ thì hoà bường?" Không bao giờ anh dùng từ "hoà
bình", như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng
của tôi, người bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân
vật của
Koestler, gã tù nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất
thời
đại, "Bebout les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì
"debout", "Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành
"Tùng lên, tùng lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát
bấy, khi tôi hỏi tìm gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những
trang khiêu dâm). Tường tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng
tượng trên
thế gian không còn đàn bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã
chót
già, nhưng chết vì cuộc chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không
phải
chúng tôi muốn tiếp tục, "Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép
bất
cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người" (1).
Chiến tranh, đó không phải thứ khổ đau mà có khi con người
phải tạo ra như một cái cớ để đương đầu, để tìm kiếm một thứ hạnh phúc
biết đâu
ở phía sau, ở phía bên kia niềm khổ đau. Chiến tranh đó là một thứ khổ
đau được
nhân lên không biết bao nhiêu lần, không xây dựng mà là hủy diệt, ngăn
cỏ mọc,
huỷ những lời nói yêu thương, hạnh phúc, những tình tự… Mai nói bằng
một giọng
đều đều, "Anh Tam vẫn tỏ vẻ ghét chiếc mũ sắt nặng nề. Người ốm nhom,
mắt
cận thị, anh mặc áo thung, đội chiếc mũ sắt đứng trước gương ngắm
nghía, một
lát sau anh quay nhìn Mai, nói đùa, "Chết như thế này không ổn, nặng
quá…
không phải ý nghĩa của cái chết, mà là cái chết trở thành một đồ vật
nặng
nề…", hôm đó anh dẫn mấy người lính đi tuần tra quanh vùng đóng quân,
một
người lính giẫm phải mìn… Mai lật từng tấm vải trắng phủ mặt những xác
chết
nhưng không thể nhận ra một trong những tử thi đó, là anh Tam của Mai
ngày xưa.
Thần Chết như chơi trò đố tìm với Mai, và đã xóa hết những dấu vết quen
thuộc,
như muốn đánh lừa, hoặc muốn che giấu Mai một ý nghĩa nào đó, hoặc một
lời dặn
dò của người đã chết… Phải tưởng tượng xác chết giá lạnh kia, là người
thân
thương ngày xưa, phải tưởng tượng khoảng trống kia là cái miệng vẫn
tươi cười,
khoảng sâu hoắm cao hơn chút nữa là đôi mắt long lanh nhìn Mai tuần
trước… Phải
hiểu rằng chết là như thế đó, và đời sống lúc này phải kết thúc như
vậy, không
có cách nào khác. Anh Thụ, người con trai độc nhất của bác Mai, anh Tam
và Mai
là bạn từ hồi nhỏ, cả hai người con trai đều luôn luôn chiều chuộng săn
sóc
Mai, đứa con gái ốm yếu, gầy còm, vừa cất tiếng khóc chào đời, mẹ đau
nặng,
phải tập sống bằng nước cơm, suốt đời không biết mùi sữa mẹ, thay vào
đó là mùi
vị căn bệnh phong thấp quái ác, mỗi lần thời tiết thay đổi, hai chân tê
cứng
không làm sao cất bước… Anh Thụ đi lính, anh Tam bắt chước, anh Thụ
chết trước
độ một năm, anh Tâm theo luôn, hai nấm mồ, cái hàng trước, cái hàng
sau, cùng
một hàng dọc… Ngày Mai đậu Tú Tài, anh Tam được tin liền bảo Mai, "Anh
sẽ
tặng Mai một món quà thật đặc biệt", món quà đặc biệt của anh Tam là
chiếc
nhẫn… Lần đầu tiên anh làm Mai sợ. Mai yêu anh Tam nhưng không hiểu
tình yêu là
gì. Mai, đứa con gái biết ý nghĩa của cái chết trước khi biết ý nghĩa
của sự
sống, biết mọi người đều phải chết trước khi biết mọi người có thể
sống, có thể
yêu thương nhau. Mai có người yêu trước khi có tình yêu. Bây giờ, những
lần đọc
tiểu thuyết, đi coi chiếu bóng, thấy người ta yêu nhau, người ta tình
tự, vuốt
ve, hôn nhau… Mai chưa hề có diễm phúc hưởng chúng, chưa hề có tình yêu
đó. Mai
có một tình yêu khác, một người yêu khác.
Mai
thôi làm việc. Những dòng chữ cuối cùng nàng viết cho
tôi trước khi từ biệt, là trên mẩu giấy ghi điện đàm mạch Sài Gòn – Hoa
Kỳ: một
người lính Mỹ đang nói chuyện với người yêu: "I love you" –
["Don’t say anything. Let’s me think good about you before leaving"
(Đừng nói gì hết. Để Mai nghĩ tốt về anh trước khi từ biệt).] Tiếng nói
người
lính đầy những lệ, người yêu của anh đang nói những lời vĩnh biệt…
***
Niên
học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng
những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi
thức giấc
sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi
sáng
nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết. Những địa danh như
Hà Nội,
Việt Trì, Sơn Tây, Ba Vì, Yên Bái, Đồn Vàng… chẳng gây ở nơi Mai một
xúc động
nhỏ nhặt, nhưng đã trở thành một phần của thân thể tôi, và tiết trời
giá lạnh
đã đốt cháy nén hương làm tất cả sống dậy. Những buổi học trong rừng,
trên
những căn nhà sàn miền thượng du Bắc Việt, xen lẫn tiếng thầy giáo
giảng bài có
tiếng chim kêu kỳ lạ, tiếng người hú gọi nhau vang âm khắp thung lũng,
ngày nào
tản cư rời xóm làng miền quê nội ngoại ven sông Hồng, đi sâu mãi vào
vùng núi
Tản Viên Ba Vì, đi bộ suốt đêm, một chiếc chiếu gấp đôi choàng qua vai
làm ấm
ngực, đứa trẻ vừa đi vừa ngủ gật, một lần đi qua một khu rừng thông,
tiếng
thông reo, và còn reo mãi cho tới bây giờ. Những buổi chiều một mình
lang thang
trên những ngọn đồi vùng Phú Thọ, những khóm sim mọc hỗn độn trên những
ngọn
đồi chập chùng chạy dài mãi phía xa, lẫn dần vào bóng chiều đã xẫm,
(bây giờ,
đôi lần tình cờ đọc câu, "qua những đồi hoa sim, mầu tím hoa sim tím cả
những chiều hoang biền biệt", toàn thân bị dĩ vãng ấu thời chiếm đoạt,
run
đến nổi gai ốc…). Những buổi sáng thơ thẩn trong rừng lần theo một
tiếng chim
lạ, hoặc loay hoay dò theo một vết nứt tìm giò măng dưới mặt đất… những
năm tản
cư trở thành những năm du lịch miền núi đồi thượng du Bắc Việt. Những
giếng
nước do những viên đá sắp xếp, buổi sáng hơi nước bốc lên nghi ngút,
nhúng tay
sâu, hơi ấm theo bàn tay thấm vào hết người. Mùa hè chợt tới, những
dòng suối
trong vắt, nước lạnh buốt, những viên sỏi dưới dòng suối long lanh như
những
viên ngọc, đàn gà rừng mầu sắc rực rỡ bay tán loạn khi thấy bóng người,
sườn
núi phía trước sương mù che phủ trắng xoá, lấy hai tay để lên miệng làm
loa,
cất tiếng hú, âm thanh vang rền, đập đi đập lại, một hồi lâu sự yên
tĩnh mới
trở lại, tuổi thơ của tôi không có gì đáng phàn nàn…
***
Hà
Nội những năm đầu bậc trung học. Hình bóng một đứa bé vừa
đi vừa cúi nhặt những trái sấu vàng rụng rải rác trên đường từ nhà đến
trường.
Một bà cô lấy chồng ngoại quốc. Đứa cháu buổi sáng đi học sớm, bà cô ló
đầu ra
ngoài khung cửa sổ trên tầng lầu, vo tròn tờ giấy bạc ném xuống cùng
câu dặn dò
thường lệ, "Tan học về đúng giờ, không được la cà dọc đường, nhớ coi
chừng
xe cộ, không được ra bờ sông tắm…". Càng về già nụ cười của bà cô càng
thêm đằm thắm. Đất nước chia đôi, bà theo chồng về Pháp, và ôm chặt đứa
cháu
vào lòng, mắt đẫm lệ, "Bây giờ cháu phải về quê với họ hàng nhà mình,
các
chú các bác đều theo kháng chiến, cháu sẽ không phải khổ…". Đứa nhỏ rời
Hà
Nội, xách chiếc va li nhỏ về tới gần làng, đứng cuối bờ đê, nhìn về
phía có hai
cây cau cao vút, nhìn thật lâu, khi đêm xuống xóa nhòa cảnh vật, bất
giác cất
tiếng hú, âm thanh đập xuống mặt sông, phụ thêm tiếng sóng vỗ vào bờ đê
làm ù tai,
rồi dội đi thật xa, đó là những lời từ biệt cuối cùng.
Hà
Nội. Những buổi sáng mùa đông đứng co ro ở một góc đường,
miệng mở tròn, nhìn một cách thích thú làn hơi nóng từ trong người tỏa
ra như
những đợt khói tròn, rồi trở thành trắng xóa. Những buổi tối lén bà cô
đi xem
phim, một lần trở về muộn, bị mấy đứa trẻ đánh giầy lột hết tiền bạc.
Một lần
bị Tây say rượu rượt đuổi, tiếng la hét của gã ngoại nhân phảng phất
điều chi
thật thê lương, ngậm ngùi. Tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán
rau muống
sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân
hình rũ
rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ
quạng tìm
cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người
đàn ông
ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố,
đứa bé
bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải… thỉnh thoảng trong giấc
mơ, nó
gặp lại người đàn ông đã chết, cả hai đều không thể quên con phố cũ…
Mai,
Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa
biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại
thấy đâu đó
trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc,
tiếng còi
mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội,
những lá
cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang
nghiêm
và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn
một hạt
bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và
chút giá
lạnh đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường
sẽ im
lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ
quên, trừ
một hai cặp tình nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể
cho em
nghe về một thành phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi
bay trong
gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm
trên cát
nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời.
Hà
Nội, thành phố có hương thơm và mặt trời ve vuốt, thành
phố mà Cẩn nói, được dựng lên cho những nhớ nhung và mơ tưởng của một
thời trẻ
dại, "con đường Trường Thi, hai hàng me bên đường vào khoảng tháng sáu,
tháng bẩy như thế này, lá me bắt đầu rụng để lộ những nhánh cây nhỏ,
những đứa
trẻ háu ăn đã vô ý tưởng là những quả me, và ngó lên bằng cặp mắt thèm
thuồng.
Mùa hè vàng nắng không còn, nhưng những ngày cuối mùa nóng, người dân
Hà Nội có
thói quen trước khi ngủ mở tất cả những cánh cửa sổ để đón gió mát, đột
nhiên
trong đêm khuya, có những cơn gió lạ từ đâu chợt tới, thổi thốc những
chiếc lá
khô bay phấp phới, và người lớn vội vàng trở dậy đóng bớt cửa sổ, "đó
là
những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu mùa thu trở về."
Mùa
Thu, những đứa trẻ xâu những đôi guốc, dép vào một mẩu
dây, rồi một tay cầm cặp, một tay xách xâu guốc dép, chúng đi thành
từng đàn,
tranh nhau cười nói, vung tay múa chân, khi đi qua nhà một đứa trong
bọn, bọn
trẻ đứng từ phía ngoài, lăng xâu guốc dép, ném chiếc cặp thật mạnh vào
tận
trong nhà, rồi sau đó thảnh thơi, hớn hở chạy theo bè bạn, mùa hè:
những xe
phun nước chạy chầm chậm, những tia nước bắn tung toé lên mặt đường
nóng bỏng,
lũ trẻ chạy theo sau ngửa mặt hứng; mùa lạnh: những người cảnh binh mặc
áo dạ
tím, những đứa trẻ không còn dám tháo bỏ giầy dép ra khỏi chân, sợ
những lần vô
ý vấp ngã, những ngón chân sẽ tê điếng có khi cả giờ đồng hồ. Hoặc là
tôi phải
quên, hoặc bắt buộc phải nhớ: sống tức là sống trong nỗi nhớ Hà Nội.
Chúng tôi:
những đứa trẻ rời bỏ Hà Nội và trở thành những con bệnh, mỗi lần thời
tiết thay
đổi, trở nên lạnh, hoặc những đêm đi chơi về muộn trong một Sài Gòn đã
thuộc về
chúng tôi, lúc bấy giờ gió nhiều, những hơi thuốc nhỏ nhoi chẳng đủ ấm,
thế là
tiếng lá cây xôn xao, không gian, thời gian, cảnh vật… tất cả biến
thành những
sợi dây trói, kéo lũ chúng tôi trở lại Hà Nội, chúng tôi trở thành
những kẻ
mộng du, đêm đêm trở dậy đi đi lại lại trong Hà Nội…
Mười
một năm đã qua, những đứa trẻ đã lớn, chiến tranh tiếp
tục và ngày càng khủng khiếp, ghê rợn, có những đứa trẻ đã chết (đã trở
về Hà
Nội). Trong tập Notes của Tuấn, xen lẫn những ghi chú về Sartre và
Heidegger,
Cẩn tình cờ đọc thấy câu: Hà Nội, pole positif de la douleur (Hà Nội:
cực dương
của nỗi đau): Lãng sống đời khổ hạnh, tập không yêu không ghét đời
sống, thật
vậy không, hả Lãng: Ta là kẻ đã đạt…? Có phải mày đã đạt, và nhìn bạn
bè bằng
cặp mắt bao dung, hiền từ pha chút thương hại. Những đứa bạn lúc nào
làm ra vẻ
sắp sửa ra đi, sắp sửa lên đường, lưng còng xuống vì gánh nặng lịch sử,
lịch
sử: nơi chốn tự nhiên của sự hung bạo (lieu naturel de la violence).
Vưu làm
thơ, tôi còn nhớ được hai câu: Xin lấy máu làm dầu soi sáng/Cho con
cháu mình
soi tỏ mặt nhau. Vưu, kẻ phóng đãng… còn tôi kẻ mơ ước viết một cuốn
sách nối
liền hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn…
Mai,
Mai… để anh kể cho em nghe về một thành phố thỉnh
thoảng buổi sáng có sương mù…
Mai
thôi làm việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu
thang, trong khi chờ thang máy, đột nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ
lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và
bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác sĩ người Pháp chữa trị cho tôi, khi
còn nằm
trong nhà thương Grall: Như vậy là chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi?
(Est-ce
que la guerre est finie pour moi?).
Tôi
chờ đợi khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở trước cổng
nhà thương nhìn ra ngoài đời và chiến tranh đã hết.
Nguyễn
Quốc Trụ.
|