Ốc
Bắc
Thi
sĩ Nga Joseph Brodsky sinh năm 1940, mất năm 1996. Tuy
được Nobel văn chương, ông kém tôi ba tuổi. Tuổi thơ của một đứa bé
Nga, và của
một đứa bé Bắc Kỳ, có chút thân quen thật kỳ cục: tôi đọc tuổi thơ của
ông, và
cứ thế tuổi thơ của tôi sống lại, tuy không hẳn giống như của ông.
Trong
bài Chiến Lợi Phẩm, ông kể chuyện lần đầu được ăn đồ
hộp: “Thoạt kỳ thủy có một hộp thịt bò. Đúng hơn, có một cuộc chiến, Đệ
Nhị Thế
Chiến; cuộc phong tỏa thành phố quê hương của tôi, Leningrad; Trận Đói
Lớn, nó
đòi mạng người nhiều hơn là những trái bom, những trái pháo, những viên
đạn tất
cả cộng lại. Và tới cuối cuộc phong tỏa, có những hộp thịt bò từ Mỹ
tới. Nhãn
hiệu Swift, tôi nghĩ vậy, có thể lầm; tôi mới bốn tuổi khi được nếm nó,
lần đầu
tiên trong đời”.
Món
ăn cũng lạ, nhưng mùi vị của nó không kéo dài như nỗi
sững sờ của cậu bé, về những cái hộp đựng thịt bò, “chính chúng nó”:
cao,
vuông, với cái đồ mở hộp. Ôi chao, cái đồ mở hộp, tuyệt vời, dị thường.
Như
bước ra từ một cuốn sách ước, chắc là ông muốn nói như vậy, khi viết:
“Chiếc
chìa khoá [mở hộp]… là một mặc khải đối với thằng nhỏ Nga: chúng tôi
chỉ biết
những con dao. (That key… was a revelation to a Russian child: we knew
only
knives).
Hãy
khoan nói tới chuyện mặc khải, tuổi thơ của tôi cũng đã
được hưởng cái cảm giác sững sờ khi nếm món đồ hộp, miếng phó mát,
miếng thịt
nguội hun khói đầu tiên trong đời.
Tuổi
thơ của tôi không trải qua một cuộc phong toả, trận đói
lớn, nhưng mà là một trận đói dài, và một cuộc phong toả thường trực.
Trận
đói dài của tôi bắt đầu khi ông già mất, tôi phải về
quê sống với bà nội. Tôi nhớ có lần, bà nội tôi ao ước giùm tôi: khi
mày 15
tuổi là có phần thịt được chia đấy cháu ạ!
Làng
tôi ở bên bờ sông Hồng. Bên kia sông là Việt Trì. Khúc
sông có tên Ngã Ba Hạc. Sau này, qua sách vở, tôi được biết, đặc sản
của vùng
sông này là một loại cá chép. Tôi chưa từng được thưởng thức, nhưng
chưa chắc
đã ngon hơn những đặc sản khác, của làng tôi. Hoặc của riêng tôi, khi
còn là
một chú bé ở đó.
Thí
dụ như món nước mắm lá chuối.
Gọi
là nước mắm, nhưng thực sự là muối hoà tan vào nước,
thêm mầu lá chuối khô.
Tôi
đã được nếm món nước mắm đó, cùng với miếng thịt luộc
đầu tiên, toàn là mỡ, lần giỗ tổ họ, tại ngôi nhà thờ ở giữa cánh đồng
chiêm
của làng.
Rồi
những lần lang thang giữa cánh đồng làng, đúng mùa khoai
lang, đào trộm một hai củ, rồi rửa sạch đất, cứ thế ăn tươi nuốt sống.
Có khi
không sẵn nước, đành dùng tay để lau đỡ bùn…
Làm
sao quên hình ảnh một người đàn bà trong làng, đi chợ
Việt Trì bên kia sống; khi trở về, gánh nặng, chân trần lội qua bãi cát
nóng
bỏng. Phải gánh như chạy, như bay trên khối lửa ở bên dưới. Khi hết
chịu nổi,
người đàn bà quăng vội tầu lá chuối, đứng lên trên, nghỉ một lát, rồi
lại bay
tiếp.
Trong
một câu chuyện ngụ ngôn, có một anh chàng thèm ăn một
trái chuối. Rồi được thỏa nguyện. Cái cảm giác tuyệt vời cứ thế theo
anh ta mãi
suốt cuộc lữ: cuộc lang thang làm người.
Rồi
anh được ăn vô số chuối, nhưng cứ lắc đầu bai bải: không
phải thứ này, không phải trái chuối đó!
Tôi
cũng có một kinh nghiệm tương tự. Đó là lần đói quá,
đang ngồi trên bờ ao, gạt mớ bèo, tôi vớ được chú ốc. Thế là nổi lửa
lên, đánh
chén ngay tại chỗ.
Vào
Nam,
tôi mê món bún ốc là vậy.
Tôi
được đi học Hà Nội, là nhờ bà cô lấy chồng Pháp. Một kỹ
sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Bà cô đẹp, cao, sang, không một chút liên can
tới cái
làng nghèo đói ven đê sông Hồng. Người ở đó không muốn bà về. Chỉ cần
tháng
tháng gửi tiền. Vì cũng là một người cùng làng, thằng cháu bị vạ lây,
thời gian
đầu sống với bà cô.
Có thể,
lúc đầu bà cô chỉ nghĩ tới thằng cháu, do tội nghiệp. Chẳng bao giờ bà
hỏi han.
Tôi cũng chẳng dám đòi hỏi gì, ngoài hai bữa cơm, rồi lo đi học. Bà cho
tôi ở
riêng một căn phòng kế bên nhà bếp. Không được bén mảng lên nhà trên.
Tôi chỉ có
một bộ quần áo đi học. Mỗi lần giặt, ủi liền, cho kịp giờ đi học. Có
những lần
quá ướt, bàn ủi không kịp nóng. Cho tới một bữa, tôi ỷ y, chạy ra
ngoài, khi
ngửi mùi khét thì đã xong một bên ống quần.
Đó là một
villa trông ra hồ Halais. Nhà của hai ông Tây, đều kỹ sư
Sở Hỏa Xa Đông Dương. Ông Tây già, là chồng
bà cô. Chức vụ chắc thua ông Tây trẻ, vì ông này có tới hai người hầu:
một
người bếp, một người bồi. Ông Tây già ăn uống đều do bà vợ. Ông bếp
già, vào
những ngày cuối tuần, chủ đi chơi, thường dắt gái về nằm trong bóng tối
hành
lang phía trước. Mỗi lần như vậy, tôi lén lên nhà trên, bò tới sát, chỉ
cách
bức tường, cánh cửa, rồi hồi hộp lắng nghe. Một lần cô gái làng chơi
biết, nói:
có người ở bên trong nhà. Ông bếp hừ, hai thằng bé, trời tối mịt, chúng
nó
chẳng thấy gì đâu.
Mỵ là tên
anh bồi. tôi không nhớ tên ông bếp già. Ông rất thù ghét Tây, tuy làm
bồi bếp.
Tôi biết từng chi tiết chiến thắng Điện Biên Phủ, là do ông kể. Chắc
cũng chỉ
từ trí tưởng tượng của ông. Hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông về
làng, chắc
chắn là khổ sở với quá khứ Việt gian. tôi gặp cả hai vợ chồng anh Mỵ,
và đứa
con gái duy nhất mới sinh được vài tháng, ở Hải Phòng, những ngày chờ
đợi tầu.
Thằng em đã về quê, ở với bà vợ lớn.
Lần đó,
anh Mỵ nói với bà cô. Bữa hôm sau, bà dẫn tôi đi mua mấy bộ quần áo. Bà
mắng:
tại sao không nói. Thấy thằng cháu im thin thít, bà như hiểu ra, giải
thích:
Tao chỉ ghét mẹ mày. Cả làng cả họ cứ xúm vào gấu váy con mụ me Tây này.
Không
những mắng, mà còn tát cho đứa cháu vài cái.
Đó là lần
bà bắt gặp hai đứa, tôi và thằng Hìu, em anh Mỵ, trời tối thui mà cũng
cố căng
mắt nhìn ra phía ngoài...
Trở
lại với mấy món đồ hộp. Lần đầu tiên nếm thử, thật tuyệt
vời. Nhưng liền đó, con ốc nhồi ngày xưa trỗi dậy, và hỏi: mày có chắc
mấy món
ăn này ngon hơn “tao” không?
Suốt
đời, trong tôi, có một cuộc tranh chấp thường xuyên như
vậy.
Nguyễn Quốc Trụ