*
   
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách








Đói và Đất Bắc. 

 Nhà thơ Joseph Brodsky sinh tháng Năm 1940 tại St. Petersburg. Khi Đức quốc xã xâm lăng Nga-xô, ông được hơn một tuổi. Hơn một tuổi, nhớ gì được, nói chi nhớ được gì, nhưng đây là cuộc vây hãm dài nhất lịch sử cận đại, từ ngày 8 tháng Chín năm 1941 đến 27 tháng Giêng 1944. Cuộc vây hãm 900 ngày thành cái tên của nó (thực sự chỉ có 872 ngày). Con số người dân thành phố chết, chỉ riêng trong năm 1942, là 650 ngàn người, phần lớn do đói, bịnh và pháo.

 Ông kể, "Tôi còn nhớ khá rõ cảnh tượng mẹ tôi đẩy chiếc xe, trên có một đứa bé là tôi, qua những con phố ngập tuyết. Chập tối, trên trời, những đợt sáng phòng không quét qua quét lại. Đó là tuổi thơ của tôi… Mẹ tôi đếm coi ai đã chết, ai còn sống; có người cứ thế lịm đi, ngay trên giường của mình. Những lần cha tôi từ mặt trận trở về, ba má tôi thường nói về những chuyện đó…"

 Khi được hỏi, họ có nói chuyện người ăn thịt người, thời gian thành phố bị vây hãm, ông trả lời, "Họ có nói. Lẽ tự nhiên."

 Lẽ tự nhiên…

 ***

 Năm 1954, khi rời đất bắc, Gấu mang theo khá nhiều kỷ niệm về cái đói. 

 Nửa thế kỷ sau, trở lại, lẫn trong những tình cảm xót xa, bùi ngùi của bà chị, là một số kỷ niệm về cái đói của bốn chị em mà bà vẫn còn giữ.

 Mấy mảnh trấu trong bình trà, ngày đoàn tụ? 

 Hay là bà chị sợ đứa em đi quá xa, quá lâu, có thể quên mất mùi vị của một miền đất? 

 ***

  Bà chị nói: 

 "Em có còn nhớ, một lần, mợ [mẹ] đi vắng, chị ở nhà thổi cơm bằng nồi đất, em ngồi bên cạnh bếp, chị đi đâu ra bên ngoài, rồi chị nghe em kêu, "Chị ơi, chị ơi, cái nồi cơm nó nứt ra kìa….". 

 Hơn nửa thế kỷ, khi trở về, đứa em mang theo câu trả lời: cái nồi đất nứt ra làm đôi vì không chịu nổi lượng gạo nở thành cơm mà nó chứa đựng. Sức chứa của nó nhỏ hơn, so với cơn đói của mấy chị em. 

 Một trong những lý do đứa em vào Nam, là để mang đi một phần cơn đói, như vậy những người thân yêu còn ở lại có thể chịu đựng được phần còn lại.

*****

  2. Trái tim trong thành phố

 Em vẫn là của anh? (Are you still mine? Unchained Melody) 

 Hãy hủy diệt, nàng nói. (Marguerite Duras)
 

 Trước hết, tôi không phải là người sinh trưởng ở Hà Nội. Quê tôi ở Sơn Tây, cách xa Hà Nội chừng bẩy, tám chục cây số. Đối với một người dân miền Nam, khoảng cách đó chỉ băng quãng đường từ Sài Gòn xuống ngã ba Trung Lương, thời gian di chuyển chừng trên dưới một giờ đồng hồ. Nhưng ở xứ Bắc, cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu bằng chính sách tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống; đường xá cầu cống đều bị huỷ diệt để ngăn chặn bước tiến của địch quân, nhà lầu bị triệt hạ khiến cho địch hết còn chỗ đóng quân hay đặt địa điểm quan sát, đặt súng lớn… Quãng đường Hà Nội - Sơn Tây do đó cũng chịu chung số phận. 

 Trong những năm chiến tranh, đất Bắc bị phân hai, một vùng "địa phương" do Việt Minh chiếm giữ, gồm những tỉnh thượng du Việt Bắc; một vùng "Tề" do Pháp và chính quyền quốc gia kiểm soát, gồm những tỉnh thuộc đồng bắng sông Hồng, trong đó có vùng ven đê sông Hồng thuộc tỉnh Sơn Tây. 

 Làng tôi ở ven sông Hồng. Khoảng năm 1946, khi quân Pháp từ trên trời nhẩy dù xuống cánh đồng làng tôi, rồi sau đó thành lập chính quyền quốc gia, gia đình tôi chạy tản cư vào sâu phía trong, phía chân núi Ba Vì, nơi ngày xưa Đức Thánh Tản mang người yêu về để ở, lần lần chạy ngược lên Phú Thọ. Ít lâu sau, thấy quê nhà tạm yên, gia đình chúng tôi tìm cách "dinh tê", nghĩa là về Tề. 

 Về Tề, sau khi đậu tiểu học, tôi được ra Hà Nội học tiếp… 

 Hà Nội như thế đối với tôi một đứa trẻ nhà quê, kỷ niệm cây kem lạnh buốt răng lần đầu được liếm láp (kỷ niệm bừng sống lại, lần đọc Garcia-Marquez, khi ông mở ra "Trăm Năm Cô Đơn" bằng cái cảnh pháp trường, và tử tội, trong những giờ phút chờ đợi hành quyết, đã nhớ lại cái cảm giác lạnh buốt lần đầu sờ tay vào cục nước đá…); những phim Tarzan, Zorro lần thứ nhất được xem (chung kỷ niệm với nhà thơ Nobel văn chương người Nga, Joseph Brodsky); những hồi chuông xe điện cho tới bây giờ thỉnh thoảng còn rộn ràng… 

Vào Nam, tiếp tục đi học, tốt nghiệp, đi làm, kiếm được tiền nuôi thân, nuôi gia đình, bắt đầu nhớ Hà Nội, khi chợt nhận ra rằng đã thực sự mất nó, như tuổi thơ đã vĩnh viễn qua đi. Những năm mới lớn, còn nhiều mơ mộng, trí nhớ luôn tìm lại Hà Nội, cố tìm lại tuổi thơ không phải để thì thầm sau này, khi đã đứng bóng, mà là để kể cho một người khác, để viết trong bức thư tình đầu tiên trong đời. Khi cảm thấy được yêu, cảm thấy hạnh phúc có thực, một đôi lần có cảm tưởng chẳng cần tới Hà Nội, hoặc Hà Nội đã được hiện thân ở nơi người yêu. "Anh yêu em bởi vì anh yêu Hà Nội" (ôi, những cái "bởi vì" ngông cuồng, đáng yêu của một thời trẻ dại), hình như đã viết như vậy, một lần nào đó ở trong thành phố Sài Gòn, trong một lá thứ mầu, chữ viết thật nắn nót, thật thật…

 Càng về già, càng nhận ra, không chỉ nhớ Hà Nội như hình ảnh đẹp của một thời đã mất, mà còn nhớ như một vết thương, hình ảnh kết tinh của cả một miền đất nghèo khổ đang trở nên cằn cỗi… Nhớ bãi cát nóng bỏng nơi làng cũ, và hình ảnh một người đàn bà trong làng, từ con chợ bên kia sông trở về, với gánh nặng oằn vai, chạy lết trên mặt cát, tới khi gan bàn chân hết còn chịu nổi, vứt tầu lá chuối rồi đứng lên trên, rồi lại lết chạy tiếp… Nhớ miếng cơm chín phần ngô hoặc khoai, ngụm cháo dọc khoai, ngứa cào cổ họng, chỉ muốn nôn ra, nhưng vẫn cố nuốt, ngụm cháo cám, tranh ăn cùng loài vật… 

 Cách đấy ít lâu, hồi còn độc thân, một bữa đi chơi khuya, theo một người bạn về khách sạn ngủ; phòng ngủ gắn máy lạnh, nửa đêm chợt thức giấc, nghe tiếng máy lạnh chạy rào rào, cảm giác như đang sống trong mùa đông cũ, và tiếng rào rào kia đúng là tiếng gió bấc thổi ở nơi quê nhà…

 Nguyễn Quốc Trụ 

 Ghi chú: Phần hai bài viết đã được viết trước năm 1975, lần đầu xuất hiện trên báo Văn, tại Sài Gòn; sau được in lại trong Những Ngày Ở Sài Gòn, tập truyện, nhà xuất bản Đêm Trắng, Sài Gòn, 1970. Tác giả có sửa lại. 

NQT