Con gái tôi ngủ
và mẹ nó cũng ngủ luôn. Nhưng tôi chỉ ngủ thiếp đi một lát. Tôi thức
giấc
trước nên được nhìn ngắm nó ngủ. Tôi hết cả bài ru, thuộc có bao
nhiêu
đâu, tôi sẽ lên thành phố tìm mua cho con tôi những quyển sách viết về
ca dao
tục ngữ, và những bộ sưu tập về điệu ru, câu vè dân gian cho nó mang về
Mỹ. Khi
con gái thức dậy, nó hỏi:
- Trong lúc con
ngủ, mẹ có nghe con mớ nói gì không?
- Không, cô ngủ
say rất lâu.
- May quá, chỉ
sợ ngủ mê nói hớ ra những chuyện giấu mẹ.
- Có chuyện gì
phải giấu mẹ, con lớn rồi mà.
- Thì những
chuyện tình ái lăng nhăng.
- Tình ái đâu
phải là chuyện lăng nhăng. Tình nào cũng đáng quí trọng cả. Con ạ.
- Biết nói như
thế nào với mẹ đây.
- Con khỏi cần
nói. Sang bên đó rồi mẹ cũng sẽ biết. Cũng như chuyện của mẹ, rồi con
cũng sẽ
biết. Sang Mỹ con cho mẹ ở đâu?
- Con ở đâu mẹ ở
đó, xa cách nhiều rồi, khổ đau nhiều rồi, bây giờ miễn sao có mẹ có
con, ở đâu
chẳng được.
Con gái tôi thu
xếp mọi việc xong mới trở về Mỹ giao cho văn phòng dịch vụ làm hồ sơ
bảo lãnh
mẹ qua đoàn tụ với con gái.
Tôi làm thủ tục
ly dị với chồng nhưng ngôi nhà thì tôi không để lại cho ông ấy. Tôi mất
hết của
cải rồi nên tôi phải bán cái tài sản còn lại ấy đi để có tiền ăn xài.
Tôi tìm
đến căn nhà ở làng phế binh cũ gặp vợ chồng thợ tẩm quất mù. Tôi nghe
nói vợ
chồng anh kiếm được nhiều tiền để ra, muốn mua một căn nhà lớn hơn căn
nhà tôn
mục nát. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp vợ chồng anh, nay thấy họ, tôi
ngạc nhiên
vì cả hai vợ chồng đều sáng sủa đẹp đẽ ra. Cả vợ lẫn chồng đều mặc đồ
đẹp. Anh
phế binh mù đói rách ngày nào nay trông như một…Việt Kiều về thăm quê
hương.
Anh ta cởi trần phơi ra bộ ngực và bờ vai nẩy nở khoẻ mạnh như cầu thủ
bóng
chuyền, anh mặc một chiếc quần soọc đẹp có nhãn hiệu Mỹ ở bên cạp, chân
đi dép
da cũng là đồ ngọai chứ không phải “dép lốp đi vào vũ trụ” như ngày
xưa. Chị vợ
cũng xinh đẹp nhưng bụng chị đã nhô ra, chị mặc áo kiểu và mỏng,
quần sợc
trắng, đi giầy nike…Tôi chỉ vào bụng chị, chị cười:
- Sáu tháng rồi,
chỉ ráng đi làm 2 tháng nữa là phải nghỉ đẻ.
Chị hỏi thăm vợ
chồng tôi và mời tôi ngồi, thấy anh mù đứng dựa tường, tôi cầm tay anh
tính dìu
anh tới ghế ngồi thì chị vợ bước ngay tới gỡ tay anh ra khỏi tay tôi,
nói:
- Cứ để nhà tôi
tự đi đứng một mình được mà chị, anh ấy thuộc lòng tất cả rồi, chị khỏi
cần dẫn
dắt.
Tôi hiểu ngay
tâm địa người đàn bà đối diện cũng như tôi hiểu rõ hơn ai hết tâm địa
tôi. Tôi
nghĩ tới bàn tay của anh “chiến sĩ lái” thưở chúng tôi còn hợp tác làm
ăn ở bên
chiến trường Cam Bốt, những lần tôi ngồi bên anh trên xe tải chuyển
hàng lậu,
bàn tay ấy đã xục xạo khắp người tôi, trong khi tay kia anh vẫn điều
khiển bánh
lái, miệng anh vẫn truyện trò. Bàn tay anh tung hoành khắp chốn đến nỗi
tôi
nghĩ rằng có khi chính ông chồng tôi, có chỗ, cũng chưa có dịp sờ tới.
Phải
hiểu rằng đi buôn lậu, nhất là khi chuyển hàng lậu là sợ lắm, anh ta đã
làm cho
tôi quên đi sự sợ hãi! Rồi thời gian sau, lăn lộn trên miền đất viễn
chinh, anh
ta đã học được ngón nghề xoa bóp tẩm quất và tôi cũng đã có nhiều lần
nằm cho
anh ta ra nghề. Tôi nhìn nhận rằng anh ta giỏi nghề và rất dễ thương
trong cung
cách làm việc và ứng xử. Vợ chồng anh làm ăn phát đạt bằng nghề đấm bóp
dạo là
đúng thôi. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Nhưng nay, bàn tay kia,
tôi không
còn đụng tới được nữa và cái bàn tay ấy cũng không còn cơ hội mò mẫm
xục xạo
vào những chốn xưa kia.
Chị vợ vào việc
ngay, chúng tôi, hai người đàn bà, không có đàn ông trong việc này, bàn
chuyện
đổi nhà, tôi bán cho chị ngôi nhà của tôi và chị sang lại cho tôi căn
nhà của
chị. Sang lại là vì căn nhà chiến lợi phẩm này vợ chồng tôi được cấp
phát theo
chính sách “hóa giá” sau đó bán cho vợ chồng chị tá túc. Nay lại đến
lúc chị có
tiền mua ngôi nhà lớn hơn cần bán đi căn nhà nhỏ này thì chúng tôi lại
thoả
hiệp. Vợ chồng chị, sắp có con, sẽ dọn sang ở nhà tôi, còn tôi sẽ dọn
sang ở
căn nhà của vợ chồng chị. Chồng tôi sẽ ở đó. Còn tôi đi Mỹ. Vấn đề phải
thương
thảo trả giá là số tiền chênh lệch chị sẽ trao cho tôi sau khi
trừ đi
số tiền
trị giá của căn nhà bẹp. Chúng tôi, cũng vẫn là hai người đàn bà, không
có đàn
ông, còn thỏa thuận với nhau về khoản tiền phải “bồi dưỡng” cho
các chức
việc trong các cơ quan nhà nước có công chuẩn thuận việc mua bán
này.
Công cuộc thương
thảo trải qua mấy lần gặp gỡ mới xong, khi thì tôi sang nhà chị, khi
thì chị
sang nhà tôi. Hôm cuối cùng làm giấy trao tiền, chị còn hỏi tôi nhường
chochị
con ở trong nhà, chị cũng sắp cần tới một đứa ở. Tôi
nói:
- Nó đi lấy chồng rồi
còn đâu.
- Trời, còn nhỏ
thế sao đã lấy chồng.
- Nhỏ gì, mười
bảy, mười tám tuổi rồi. Hồi nó mới đến ở còn nhỏ xíu, nuôi ăn mấy năm
lớn tồng
ngồng, nẩy nở, dậy thì ra. Bố mẹ nó bán cho thương gia Đài Loan đem về
nước làm
vợ, được đâu hai ngàn đô la làm nhà mới rồi.
- Sang bên đó làm
nô lệ “xếch” chứ vợ chồng gì!
- Tức là
làm…đĩ ấy hả ?
- Làm vợ cho cả
nhà, báo đăng thế, họ nuôi ăn đồ tầu béo bở, ở một căn phòng trên gác,
đàn ông
trong nhà ai cần tới thì tiếp. Có cô phải phục vụ tới 9 người, bố già
hen xuyễn
ho khù khụ thì lo đấm bóp rửa ráy lau chùi cho ông cụ, đàn con trai
cường tráng
thì nó ào tới xong rồi xách quần đi, lại thêm thằng cháu mới đến tuổi
thành
niên, cô ấy tiếp mệt nghỉ không hết việc! Mỗi tháng họ trả lương gửi
tiền về
cho bố mẹ… cũng giống như chính sách “xuất khẩu lao động” của nhà nước
ta hợp
tác với nước ngoài ấy mà!
- Thế lỡ có con
thì sao, biết của ai ?
- Họ không để
cho có bầu, nếu lỡ có là phải phá, có bầu đẻ đái… mất năng xuất lao
động!
- Tội nghiệp con
bé không rõ sa vào tay nhà nào ở bên đó. Bố nó sau cách mạng, biên chế
trong
Mặt Trận Tổ Quốc, chỉ làm tay sai, không có đặc quyền đặc lợi gì, nhà
nghèo quá
phải cho con đi ở, lớn lên lại đem con đi bán… Ông ấy than với tôi
người ta “đi tây đi tầu đi nga đi mỹ đi hung đi tiệp…” xuất cảnh tứ
tung, gửi tiền về cho
gia đình mua nhà mua xe, còn ông chẳng được đi đâu, nên thấy có đường
giây đưa
người đi Đài Loan bèn tới nhà xin cho con gái về, để lo cho nó…xuất
cảnh cho
bằng thiên hạ.
Giấy tờ xong,
tiền bạc xong, hai bên dọn nhà qua lại. Vợ chồng anh tẩm quất chơi toàn
đồ
“xịn”, phần nhiều là đồ dùng của khách Việt Kiều quăng cho khi họ về
Mỹ. Nhà
tôi dọn sang bên ấy toàn là “đồ cổ”, nhất là mấy khoản của ông chồng
tôi săn
nhặt. Suốt những năm vào giải phóng Miền Nam, ông thượng úy chỉ lo thu
vén nhặt
nhạnh những thứ của “đế quốc” tháo chạy bỏ lại. Từ miếng tôn, tấm vỉ
sắt lót
đường, cái bàn nhôm, cái ghế bành da, đến chiếc nón sắt giã cua, đôi
giầy bốt
đờ sô, cái chăn cái màn, cái muỗng cái nĩa, cái cuốc cái xẻng…thậm chí
còn có
cả một cái vỏ trái bom napal bằng nhôm, rỗng, cưa ra dùng làm xuồng…
“hầm bà là
hằng” dọn sang chất đầy căn nhà trệt chiến lợi phẩm chiếm được tại làng
Thương
Phế Binh Cộng Hòa ở Thủ Đức. Xung quanh vách ông treo đầy rẫy những
bằng khen,
những huân chương kháng chiến hạng nhất hạng nhì hạng ba, huân chương
chống Mỹ
cứu nước… Riêng cái ghế bành da không biết ông chôm được từ đâu mang
về,
nhưng
cứ nghe ông kể thì cái ghế bành da này là của một tướng Mỹ 2 sao,
Tư
lệnh Sư đoàn 1 Không Kỵ, ngồi điều động những đoàn “ngựa sắt
bay” trong
cuộc chiến Việt Nam. Tôi thấy hồi mới chiếm Miền Nam loại bàn ghế này
bị đám
người hôi của rinh từ các căn cứ Mỹ đem ra ngoài xa lộ bán rẻ như bèo,
không có
sức mà hốt. Tuy nhiên ông chồng tôi thì khoái cái ghế này lắm, trải qua
năm
tháng bị lôi đi bầm dập khắp chốn, khi nó về tay ông, tôi đã thấy có
mấy miếng
vá bằng băng keo. Ông đặt cái ghế bành da ngay chính giữa gian nhà, có
lần ông
đè tôi lên ghế, bấm nút cho thân ghế ngả ra, vừa làm tôi ông vừa nói
“thế này mới
sướng”. Tôi nằm dưới nhìn qua vai ông thấy quả bom treo trên xà nhà
ngay trên
đầu mình…Mai này khi thế chiến bùng nổ, nhân loại sẽ chìm trong hỏa
ngục, ngày
tận thế sẽ đến, nước ngập lên tới đỉnh núi…ông sẽ bám vào chiếc xuồng
vỏ bom
này mà qua cơn đại hồng thủy, thoát hiểm, tồn tại, sống sót, để lưu lại
cho hậu
thế một bí thư chi bộ Đảng đầu tiên cho nhân loại mới… Ghế Mỹ, bom Mỹ,
nhà
Ngụy…cái gia tài cướp chính quyền ấy xin để lại cho ông, những kỷ vật
của
một thời chinh chiến, như một vòng hoa cho người cách mạng! Còn
tôi, tôi
xin lạy… cả nhà nhà nước, lạy… cả nhà Đảng, tôi đi !
Bán nhà tôi ôm
được một khoản tiền lớn đủ tiêu dùng trong những ngày chờ xuất cảnh.
Một hôm
ông chồng tôi nói:
- Tiền bán nhà
em chia cho tôi chút đỉnh tiêu xài chứ, ẵm cả coi kỳ quá, chẳng còn
chút lưu
tình gì…
Tôi nghe nói có
lý bèn chia cho ông một khoản nhỏ, ông cầm tỉnh bơ, mở ra đếm cẩn thận
rồi mới
nhét vào túi. Ông nói:
- Sang Mỹ thỉnh
thoảng em cũng phải gửi về cho tôi vài ba trăm đô cứu trợ nhé!
Tôi nói:
- Cái đó chưa
biết, đô la kiếm ở đâu ra mà có để gửi về, sang bên đó biết làm gì, một
chữ
tiếng Anh bẻ đôi không biết.
- Cái thằng tình
nhân của em nó phải bao em chứ, sĩ quan Cộng Hòa sang bên ấy lãnh lương
Mỹ thiếu
gì tiền !
- Ông là một
thằng điếm cho vợ đi làm tiền à ?
- Xin lỗi ạ! Ly
dị rồi mà. Tôi biết là em sang bên đó sẽ chóng phất, em vốn thông minh,
hồi xưa
ở ngoài Hà nội, còn bé sống trong trại mồ côi với các nữ tu em học
tiếng Tây
làu làu, lớn lên em học tiếng Nga dễ ợt, em nói ngoại ngữ thao thao
không ai
bằng, năng khiếu ấy sang Mỹ em cũng sẽ nhanh chóng thành bà Mỹ.
Lại buôn
lậu…
- Này đừng có mà
nói bậy nói bạ. Ông bảo tôi không lưu tình, ông không kể đến cái khoản
tuy đã
ký giấy ly dị rồi nhưng trong khi chờ đợi chưa đi, tôi cũng vẫn để ông
xài tôi
thoải mái, tình nghĩa đến thế còn gì.
- Em phụ tôi chứ
tôi có làm gì phụ em đâu nào.
Một hôm tôi trở
lại ngôi nhà cũ thấy anh mù ngồi một mình trước hàng hiên, anh vểnh tai
nghe
ngóng, tôi lên tiếng anh nhận ra tôi ngay:
- À …chị.
- Bà ấy đâu?
- Đi nhà bảo
sanh đêm qua rồi.
- Đẻ chưa?
- Không biết.
- Ở nhà một mình
à?
Anh ta gật đầu
rồi ngẩng mặt lên ngu ngơ nhìn. Tôi cũng nhìn xung quanh, nhà vắng
không người,
tôi cầm tay anh kéo vào trong nhà, cái bàn tay bữa trước tôi tưởng là
đã mất
chẳng còn bao giờ bắt được…Anh mù cũng chẳng để tôi phải chờ đợi hay
mời mọc,
anh vòng tay ôm tôi dí vào xó nhà. Hai cánh tay vòng sau lưng tôi và
hai bàn
tay quỉ quái bắt đầu xục xạo, những bàn tay trên xe tải đêm mưa biên
cương xưa
kia. Anh và tôi khụyu xuống trong kẹt cửa. Tôi quì phủ phục dưới đất
nghe đường
chuyển của hai bàn tay lần mò. Anh ta đẩy tôi tông vào xó cửa binh,
binh,
binh…u cả đầu. Mà cũng tại tôi rúc vào xó chứ anh ta mắt mù có thấy
đường
gì đâu. Người mù không phải chịu trách nhiệm gì về chuyện thế gian này,
kẻ sáng
mắt gây ra tất cả. Nhưng mà thằng mù này ghê thiệt. Anh ta vừa yêu vừa
thì thầm
“anh nhớ em quá”. Trước mọi người anh ta phải gọi tôi là chị xưng em,
nhưng vào
những lúc căng thẳng anh ta gọi tôi là em xưng anh! Rồi sau đó trật tự
lại vãn
hồi. Cung cách du kích chiến này khác hẳn với thái độ thong dong của
chàng. Với
chàng, phải có tiện nghi, có thời giờ, có phi pháo, có hỏa lực, có yểm
trợ… giường cao đệm êm, gối ôm gối cặp, gương soi đèn chiếu… phải
chính
qui và hiện đại.
Thừa dịp chị ta
đi đẻ, tôi liên tục lẻn đến nhà chung chạ với anh mù, dịp may hiếm có
không
ngờ. Sẽ chẳng được lâu. Thời cơ sẽ hết. Những bàn tay kia sẽ chẳng còn
là của
tôi. Nhưng tôi không ngờ chị ta đẻ dễ và về nhà sớm thế. Ngày thứ ba,
tôi vừa
chạy vù vào kiếm anh, mới chỉ chộp được bàn tay anh thì chị ta lù lù từ
trong
nhà bước ra. Chị bắt quả tang tôi đang ôm tay chồng chị. Chị kêu ré
lên rồi ngã
sấp xuống đất. Tôi và anh mù vực chị ta ngồi lên chiếc ghế. Chị tỉnh
lại chửi
tôi nát nước, nào là “con đĩ cướp chồng người”, nào là “con Việt Cộng
cái từ
bắc vào nam cướp của giết người nay lại còn cướp cả thằng mù của tao”,
chị chửi
tôi rồi quay sang chửi anh chồng “thằng Việt Cộng mù đứng đường vô ơn
bạc
nghĩa…” Chị chửi rồi chị khóc. Khóc rồi lại chửi.
Chị còn nhắc tới
một câu nói nổi tiếng của ông tổng thống của chị: “Đừng nghe những gì
cộng sản
nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Thấy tôi đứng xớ rớ, chị hét lên:
- Con “đĩ ngựa”
xéo ra khỏi nhà tao.
Tôi lùi dần ra
cửa, nhìn vào tôi thấy anh ta quì xuống đất ôm lấy chân vợ. Chị đạp
chồng ngã
lăn ra, anh ta lại lồm cồm bò dậy, lại quì xuống ôm chân chị. Người
thanh niên
đẹp đẽ tuấn tú mà tôi đã quì mọp phủ phục cho anh dày xéo nay lại quì
phủ phục
ôm chân người đã chửi tôi là đĩ. Chị gào lên chửi anh là “quân duy vật
giả dối,
đồ cộng sản lưu manh!” Bị thất tình chị trở thành tay chống Cộng kịch
liệt.
Tôi đi nhanh ra
khỏi căn nhà. Nước mắt tôi trào ra. Tôi nghĩ tới chồng tôi. Chồng tôi
chửi tôi
là con “đĩ ngựa” thì tôi cảm thấy sung sướng, chị ta chửi tôi “đĩ ngựa”
tôi
thấy nhục. Tôi có làm gì…ác đâu, tôi chỉ muốn hưởng những gì làm cho
tôi hạnh
phúc. Tôi lại nghĩ tới chàng. Chỉ có chàng là không dùng tới những lời
lẽ lăng
mạ tôi.
Một tuần lễ sau
chị ta bị ra máu đưa vào bệnh viện thì chết. Hôm đám tang tôi tới nhà…
chia
buồn. Hàng xóm xúm vào giúp cho anh ta chôn cất vợ. Tôi thấy anh ta đội
khăn
tang, ôm một hài nhi còn đỏ hỏn nhưng người ta cũng quấn trên đầu nó
một mảnh
vải trắng để tang mẹ. Một bà hàng xóm nói nhỏ vào tai tôi:
- Cũng may cho
bà đấy, cái nhà này xui lắm rồi, bà dọn đi nên thoát chết, chị ta
ở đâu
mới đến ở vài tháng đã lãnh quả thay cho bà…không biết rồi bố con nó sẽ
sống ra
sao. Thằng bố mù, thằng con mới lọt lòng mẹ cũng mù luôn, lại không
nghe được,
không khóc được. Trời ơi sao khổ quá vậy!
Tôi nói:
- Thì lại nhờ
đến Sở thương binh xã hội. Anh ấy là thương binh tàn phế mà.
Nghe ra tiếng
tôi anh ta mừng rỡ, nói nhỏ:
- À em… chỉ có
em dẫn tôi đi lên thành phố được thôi.
Tôi suỵt khẽ cho
anh ta im. Tôi có thể nằm cho anh ta đấm bóp chứ tôi làm sao mà
dẫn dắt
anh ta đi hành nghề tẩm quất kiếm tiền được. Tôi là kẻ quen ăn quen
chơi, không
thích lao động. Chỉ có vợ anh ta làm được việâc đó, nhưng nay chị ấy đã
nằm
kia.
Tôi nghe tiếng
kèn bát âm réo rắt não ruột. Hồi lâu không nghe tôi nói gì anh ta hỏi:
- Em…à chị còn
đó không ?
Tôi nói nhỏ:
- Đang lễ an
táng, chuyện đó để lúc khác nói.
Tôi mở tấm khăn
cúi nhìn vào hài nhi trên tay anh. Nó nằm yên không nhúc nhích. Tôi
lặng lẽ rời
khỏi đám tang. Tiếng kèn vẫn sụt sùi não ruột đuổi theo tôi.
Một mối tình xót xa của hai kẻ khốn cùng nhất, giữa hai chế độ, trong
hoàn cảnh hậu
chiến, đã
kết thúc, để lại cho đời một đứa trẻ, vừa mù, vừa câm, vừa điếc
!
***
*****
Một ngày trước
khi tôi lên máy bay xuất cảnh, bố mẹ con bé dẫn nó tới thăm vợ chồng
tôi. Phải
gọi là cô hay gọi là chị chứ không là con bé ngày nào nữa. Chị đã
là
người đàn bà từng trải dạn dầy. Ông Mặt Trận nói:
- Cháu nó từ
nước ngoài dẫn chồng về thăm quê hương, tôi đưa cháu tới chào ông bà.
Tôi hỏi:
- Thế chồng nó
đâu ?
Ông “mặt trận”
nói:
- Ông ấy nằm
nghỉ ở khách sạn bên Chợ lớn, chẳng là đi máy bay về bị mệt.
Họ còn cho chúng
tôi quà ngoại là sâm Đài Loan uống cho bổ. Tôi nhìn cô gái chợt nhớ tới
những
ngày bắt nó đấm bóp rồi mới cho coi TV. Lại còn không cho ngồi trên
ghế mà phải ngồi dưới nền gạch bông với lũ trẻ lối xóm. Nay thì chị ấy
đã
khác xưa.
Trong câu chuyện chị ấy kể chồng chị không phải là anh thương gia Đài
Loan ở
Chợ Lớn mà là…bố của anh ấy, anh sang Việt Nam tìm người cưới về làm vợ
cho bố
anh ở bên đảo. Nay mọi chuyện yên vui, bố anh ấy tức chồng chị dẫn chị
về thăm
Việt Nam một phen. Họ còn khoe tôi những tấm hình vợ chồng chị chụp khi
đi du
lịch trên núi Dương Minh San nơi có lăng Tôn Trung Sơn và giang
san triều
đình của Ông Bà Tưởng Giới Thạch, hình đôi vợ chồng chụp ở Lâm khẩu, ở
Nhật
Nguyệt đầm, ở cầu 7 góc, ở Cao Hùng… Toàn hình mầu đẹp đẽ sặc sỡ. Chị
còn cho
biết ông chồng chị trước năm 1975 đã từng là sĩ quan cấp cao của Đài
Bắc,
chuyên về lý thuyết “Chủ nghĩa Tam dân” và “Lục đại chiến”,
sang
Sài gòn làm cố vấn “Chính Trị Tác Chiến” cho quân đội Cộng Hòa, nay còn
giữ được
Bằng Tưởng Lục của Tổng cục chiến tranh chính trị do ông Trung tướng
Tổng cục
trưởng ký tên và đóng dấu, có chụp hình chụp ảnh lưu niệm đàng
hoàng.
Chồng chị biết nhiều về đường phố Sài gòn và các nơi khác ở Miền Nam.
Chị nói
tuy ông ấy nay hơi lớn tuổi nhưng nhờ các toa thuốc của các vị hoàng
đế Tầu đại bổ nên ông vẫn…cường tráng lắm. Tôi cũng… mừng cho chị ấy
xuất
cảnh lấy
được chồng đàng hoàng chứ không phải đi làm đĩ hay nô lệ “xếch” như
nhiều người
lo ngại. Ở bên Tầu, chị tha hồ mà coi phim bộ, ngồi trên ghế bành da mà
coi
phim mệt nghỉ, đâu có khổ như ở bên ta. Biết đâu mai này thời cơ nó
đến, ông
nhà đi làm đại sứ ở Việt Nam, chị sẽ là bà đại sứ hay còn gọi là phu
nhân đại
sứ, vinh thân phì gia.
Chuyến bay vào
giữa đêm, tối đó tôi chào chồng tôi để sửa soạn ra sân bay thì ông ấy
dở chứng.
Tôi điệu nghệ mời ông lần chót nhưng ông lại không chịu. Ông…quì xuống
ôm chặt
lấy chân tôi khóc rưng rức, ông khóc thảm thiết như người ta khóc
vợ chết
vậy, khiến tôi cũng mủi lòng nước mắt dàn dụa. Tôi hỏi ông tại sao, ông
chỉ lắc
đầu không nói và lại càng khóc to hơn, ông vẫn…quì phục ôm chân tôi mà
hôn túi
bụi từ trên xuống dưới từ dưới lên trên. Ông hôn cuồng nhiệt như muốn
ăn tươi
nuốt sống con mồi. Ơ hay cái ông này, từ trước tới nay có bao giờ…Tây
như thế
này đâu, bây giờ sắp chia tay hai người hai ngả, đường đời vạn nẻo, thì
ông lại
sinh tật… đổi mới! Phải chi hồi nào tới giờ ông cứ bình thường như
thiên hạ,
đừng bày đặt “cách mạng cách miếc”, ai sao tôi vậy, ai làm kiểu nào tôi
làm
theo, sống kịp với trào lưu thì có gì phải đổi mới nới cũ.
Tôi quýnh quáng
vì thời gian cấp bách, còn nhiều thủ tục xuất cảnh trước khi lên phi
cơ, văn
phòng dịch vụ đã dặn dò không được trễ. Tôi dìu ông đến chiếc…ghế bành
da của
ông nhưng ông không ngồi lên mà vẫn cứ phủ phục dưới đất. Ôi, tại sao
đàn ông
họ lại cứ thích quì dưới chân đàn bà mà hôn mà khóc nhỉ ? Tôi bối rối
không
biết giải quyết ra sao, tôi cũng khóc hu hu. Ông không lên ghế bành làm
tướng
tư lệnh Mỹ thì tôi phải tụt xuống đất với ông, tôi cũng quì sụp với
ông. Hai
đứa quì dưới đất ôm nhau khóc lóc thảm thiết. Người lái xe của văn
phòng dịch
vụ đến đón tôi, thấy vợ chồng quì dưới đất ôm nhau khóc thì tỏ vẻ ái
ngại. Anh
ta nói:
- Sửa soạn đi
kẻo trễ chuyến bay, còn phải tính đến khoản lỡ dở dọc đường nữa bà chủ
ạ.
Tôi quệt nước
mắt:
- Xin cho chúng tôi
năm phút nữa được chứ ạ.
Anh ta xách túi hành
lý nhỏ của tôi ra xe. Con gái tôi nó dặn dò là hãy ra đi tay không.
Sang bên đó
nó sẽ lo cho đủ hết, kể cả quần áo và các thứ đồ dùng lặt vặt. Nó nói
hãy để
lại tất cả. Kỵ nhất là đừng có mang theo tranh sơn mài, cho không ai
lấy, mà để
lại thì garare nhà nó đã chật. Phải rút kinh nghiệm năm 1975 bà con
miền Bắc
vào thăm bà con miền Nam mang theo chiếu và bát sành ăn cơm vì nghe báo
đài nhà
nước nói trong ấy nghèo “không có bát mà ăn, không có chiếu mà
nằm!” Bột sắn cũng đừng mang theo, quan thuế Mỹ lại tưởng lầm
bạch phiến
báo động tùm lum rắc rối sự đời. Tiền bạc còn thì để lại cho bố. Khoản
này tôi
không nghe lời nó, tiền đô la của tôi, tôi mang đi hết. Tiền bạc thì có
nặng nề
gì mà ngại, chịu khó một tí sang bên đó còn có chút đỉnh dằn túi mà
thuê…xe
xích lô đi tìm người tình.
Tự nhiên tôi hết
khóc và ông chồng tôi cũng nín luôn. Cả hai đều đứng dậy. Tôi bước đến
bên ông,
ôm ông hôn nhẹ nhàng như tôi vẫn thấy trong phim truyện của Mỹ.
Chồng tôi
đứng bất động. Khi tôi bước ra cửa, ông nói
nhanh:
- Em nhớ thỉnh
thoảng gửi… tiền về cho tôi !
Trên đường lên
phi trường, người lái xe hỏi tôi:
- Sao bác
trai không đi cùng
mà ở lại ?
Tôi nói:
- Ông ấy còn
bận việc nhà nước, còn yêu chủ nghĩa xã hội, còn nhiệm vụ Đảng, không
nỡ rời bỏ
quê hương.
Anh ta nói:
- Tôi làm nghề
chuyên đưa người qua sông, tôi không qua sông được, nhưng vẫn mong ai
qua được
thì qua, qua được người nào đỡ người đó. Chúc bà thượng lộ bình
an.
6.
Cuối cùng thì
tôi cũng sang được nước Mỹ. Cuối cùng thì tôi cũng tìm đến được cái xứ
sở có
chàng cư ngụ, cái xứ sở mà bên nước tôi và có lẽ nhiều nước nữa trên
địa cầu
này rất nhiều người thèm muốn được đến cư ngụ.
Mới ngày nào tôi
còn là “cháu ngoan Bác Hồ”, quàng khăn đỏ, cầm cờ đỏ. Mới ngày nào tôi
còn là
nữ thanh niên xung phong, rồi là nữ bộ đội, là nữ đảng viên, cầm
súng AK
theo đoàn người vô Nam chống Mỹ cứu nước! Vì tôi thuộc thành phần giai
cấp vô
sản, bị bóc lột. Mẹ tôi đi ở đợ, không có chồng nhưng có con là tôi. Lý
lịch của
tôi là như thế.
Nhưng phải kể
trước đó nữa, gia đình tôi sinh sống nhiều đời ở thủ đô Hà nội, năm
1954 cha mẹ
tôi bị triệt hạ vì thành phần tư sản mại bản, các anh các chị tôi lưu
lạc tứ
tán ở các nông trường hoặc khu kinh tế mới miền núi. Chỉ có tôi còn bé
được bà
vú nuôi nhận làm con đem đi chỗ khác nên thoát thân ở lại và dần dần
nhập cuộc
biến thành đứa con gái mặc quần áo kaki của chế độ. Sau này tôi mới
biết được
cái dĩ vãng ấy. Vú nuôi tôi và cũng là mẹ tôi mãi đến khi Bà sắp qua
đời, mới
nói cho tôi biết quá khứ dòng dõi của tôi. Bà kể rằng sau khi gia
đình
tôi bị triệt hạ, Bà đã bế tôi đến xin tá túc trong một nhà dòng nữ tu
để mẹ con
có cơm ăn . Các nữ tu cũng bị làm khó dễ, người nào không chịu được thì
trở về
quê quán, người nào kiên trì giữ vững ý nguyện tu hành ở lại thì bị bắt
làm tất
cả những công việc của một người dân ngoài đời. Các nữ tu cũng phải lao
động
sản xuất, đi cầy đi cấy, đi may đi dệt, đi hốt rác đổ thùng… việc gì họ
bắt làm
các nữ tu cũng làm hết. Và có người đã được công đoàn cấp giấy khen
“lao động
tiên tiến”, “bàn tay vàng” thợ dệt… Nhà dòng cũng còn phải tham gia
phong trào
văn nghệ tự biên tự diễn của thành phố, báo đăng hình nữ tu dòng “Mến
Thánh
Giá” biểu diễn vũ điệu “Hội Nghị Diên Hồng” trên sân khấu, cô nữ tu mặc
võ phục
tuốt kiếm hô “ Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến…” Và vì thế nhà
dòng mới
đứng vững và tồn tại được giữa lòng cái xã hội chỉ chăm chăm tìm mọi
cách tiêu
diệt các tôn giáo.
Mẹ tôi núp trong
đó nuôi dưỡng tôi đi học và lớn lên. Nhưng Bà không giữ được tôi cho
riêng Bà
mà phải để cho tôi gia nhập vào các tổ chức khu vực và thành phố. Khi
tôi biết
được quá khứ đời mình thì tôi đã trở thành tôi như thế đó.
Cái quá
khứ ấy khi còn ở trong nước tôi chỉ nói cho một mình chàng biết.
Tôi muốn
chàng rõ gốc gác đích thực của tôi để chàng không nghĩ tôi là một người
cộng
sản “bôn sệt”! Nhân dịp đó chàng cũng nói cho tôi rõ cái quan niệm của
chàng về
chiến tranh và hoà bình. Chàng bảo tôi rằng cuộc chiến không thể kéo
dài mãi,
cần phải chấm dứt nó, ở trong nước cũng như ở ngoài nước nhiều người đã
nghĩ
như vậy. Nhưng để chấm dứt cái cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã tốn quá
nhiều
xương máu ấy thì phải có một bên thua. Ai chịu làm bên thua đây ? Bên
nào chịu
nhục đây ? Không tìm ra cách giải quyết ! Cho đến năm 1975, tội lớn
nhất của
Việt Cộng là đã thắng trận, và chiến công lớn nhất của Việt Nam Cộng
Hòa là
thua trận ! Chiến tranh chấm dứt nhưng nhiều người Việt Nam không thể ở
lại quê
hương, buộc lòng phải tìm nơi khác cư trú, và theo thông thường của
lịch sử
những người ra đi là mất. Còn những người ở lại hay không đi được sẽ bị
hủy
diệt. Chế độ Cộng Sản trong nước cũng sẽ bị hủy diệt và những người ở
lại sẽ bị
hủy diệt theo với nó để cho một tương lai khác. Cái tương lai khác cho
Việt Nam
ấy phải cần tới thời gian gấp hai lần thời gian chế độ Cộng Sản tàn phá
giống
nòi. Nghĩa là, chàng nói với tôi, cần tới cả trăm năm để cho cái ám khí
quỉ
quái phai nhạt đi và để cho luồng sinh khí mới phục hồi. Đừng quên với
điều
kiện là trong thế kỷ ấy cần phải có một chính sách giáo dục dựa trên
nền tảng
dân tộc, nhân bản và khai phóng. Rồi chàng bảo tôi đi hay ở cũng thế mà
thôi.
“Cả em nữa, em ở đâu thì cũng sẽ mai
một”.
Tôi suy ngẫm mãi
lời chàng chỉ ra cho tôi và tôi hiểu được chàng nhiều hơn.
Tôi nghe máu
trong huyết quản mình dị ứng với những lề lối của những cung cách văn
hoá xung
quanh. Người mà tôi dị ứng trước nhất là anh chồng bộ đội của tôi. Tôi
đã lấy
anh vào cái thời kỳ con gái gào thét lên những khẩu hiệu chính trị. Tôi
bị cuốn
hút theo cuộc sống của đoàn âm binh. Lấy anh, sống với anh, làm theo
anh, và
sòn sòn có con với anh một cách rất là vô thức. Anh hơn tôi nhiều tuổi,
anh lại
đi cầm súng bắn nhau trước tôi nhiều năm, cho nên lúc nào tôi cũng coi
anh như
kẻ dẫn đường, ngay cả việc vợ chồng tôi cũng hùa theo anh. Không coi
chính sách
ba khoan ra gì cả. Gặp là lấy. Lấy là chửa. Đầu năm đẻ. Cuối năm lại
đẻ. Vừa đẻ
xong mới trở về nhà chưa kịp hoàn hồn anh ta đã lại vật ra, nói kiêng
cữ cái
gì, lỡ bị điều đi Nam thình lình thì sao, tôi líu ríu theo sự chỉ đạo
của anh,
để cho anh sử dụng liên tu bất tận…Đẻ đứa thứ ba hoảng quá phải đi bệnh
viện
xin…cột lại.
Vào Miền Nam,
nhìn xã hội khác lạ hẳn, tôi mới thấy trong tôi có cái gì… vỡ ra!
Nhìn
xung quanh cũng vậy, tôi thấy nhiều kẻ bị trói lâu ngày nay họ muốn
bung ra và
nhiều đứa đã bung ra. Theo đuôi cuộc xâm lăng Căm Bốt, chợt kiếm được
nhiều
tiền một cách dễ dàng và trở thành giầu có, tôi mới khám phá ra rằng
cuộc sống
không phải như cái khuôn mẫu giả dối người ta đặt ra bắt mọi
người phải
theo. Và tôi nổi dậy.
Biến cố sét đánh
kinh hoàng tiếp theo là lúc tôi gặp…chàng trong nhà tù. Người tình
không phải
là anh đàn ông vẫn ngủ với tôi, anh ta cũng không phải là người chồng.
Người
tình, người chồng, phải là chàng, người tù khổ sai nhưng vẫn có phong
cách
riêng không phải là tù. Tôi không hiểu được tại sao người ta lại có thể
đang
tâm nhốt một người như chàng. Tôi cũng không hiểu và cũng không thể
giải thích
được vì sao mà tôi mê mẩn chàng đến thế. Oâi, tôi ước ao đổi tất cả để
có được
chàng cho riêng mình.
Nhưng chỉ ước ao
thế thôi chứ đời tôi kể như đã lỡ! Tôi đã là một người cộng sản rạc
rầy, vùng
vẫy thoát ra khỏi nó mang theo rất nhiều thương tích. Tôi đã bỏ chồng,
bỏ con.
Tôi đã ngoại tình, đã lăng loàn “đĩ ngựa” với đời, trong khi tôi chỉ
muốn đĩ
ngựa với chàng, bởi vì tôi nghĩ yêu ai là…đĩ với một mình người
đó. Tôi
đã bỏ quê hương ra đi tha phương xứ người ! Tôi không còn có thể trở
lại làm
một cô gái của Hà Thành ngàn năm văn vật, nơi dòng họ tôi truyền đời và
là nơi
tôi được sinh ra. Cũng như tôi không còn có thể tìm lại được Mẹ Vú của
tôi, Bố
Mẹ đẻ của tôi, anh chị em của tôi… Tất cả đều đã mất hết. Và chàng,
chàng cũng
đã an bài trong gia đình của chàng. Sang tới Mỹ thì tôi mới thấy rõ
được sự ấy.
Tôi không thể “mua” được chàng, tôi càng không thể giật được chàng.
Không,
không cách nào tôi có được chàng. Mãi mãi…
Tôi lìa bỏ quê hương được gần một năm thì con gái tôi nó nhận được
email của bố
nó gửi cho như sau:
“Gửi con gái,
Bố nay chỉ
có một mình. Bố một mình vì mácon đi rồi. Bố một mình vì con đã là
dân nước
khác. Bố một mình vì hai em con vẫn còn ở trong tù. Và bố đã xin nghỉ
việc ở
kho quân nhu. Đi sớm về sớm, con ạ.
Ai muốn
làm gì thì làm. Nhưng bố đã mua lại ngôi nhà của mẹ con bán cho anh
thương binh
mù, nghĩa là một lần nữa dọn nhà. Anh ta trở về căn nhà tôn cũ của anh
ta trong
làng phế binh, sống nương tựa vào một người đàn bàï làm nghề chủ
chứa.
Đứa bé thì người ta đã đem gửi nó vào viện mồ côi. Bố dọn trở lại ngôi
nhà có
vườn tiêu, nay đã xây dựng lại “đàng hoàng hơn to đẹp hơn gấp mười lần”
ngôi
nhà của má con cũ từ thời tư bản chủ nghĩa.
Đời sống
của bố bây giờ “tiêu chuẩn” cũng khá cao, không thua gì các anh lớn.
Nói má con
đừng hỏi bố tiền ở đâu ra, cứ xem đó là thành quả cách mạng. Ở
bên đó mẹ
con đùm bọc nhau mà sống, má con còn trẻ đẹp, chưa đến tuổi ăn tiền già
thì
trong khi chờ đợi hãy ăn tiền bệnh. Hóa ra má con mới đích thực là kẻ
“chống Mỹ
cứu nước” trọn cuộc đời.
Bố vẫn hút
thuốc lào và uống rượu rắn. Ở không nên những dịp lễ lớn, bố mặc quân
phục
kaki, đi giầy da đen, đeo lon đỏ, cài huân chương vàng, đội mũ “cát
két”, tham
dự, ngồi trên lễ đài nhìn xuống, có lúc nghĩ rằng cuộc chiến tranh dai
dẳng vừa
qua thật kỳ lạ. Gần nhà mình, bên kia xa lộ có cái nghĩa trang đã bị
phá phách,
pho tượng “Thương Tiếc” nổi tiếng một thời đã bị triệt hạ, sau đó phía
bên này
đường mọc lên một cái nghĩa trang khác với tượng đài “Liệt Sĩ” to hơn
làm bằng
vữa. Hôm qua bố đi tham quan cái nơi chốn bố sẽ dọn đến lần tới đó,
nhìn những
nấm mồ san sát nhau bố nghĩ nhờ trời mình có ngôi nhà “to đẹp” như các
“anh
lớn” ở đời này, nhưng chẳng thể chen chân vào nơi Lăng tẩm hay nghĩa
trang Mai
Dịch ở mãi tận ngoài Hà nội mà trú ẩn cho đời sau. Bèn thầm van
vái mai
này đừng xảy ra nữa một cuộc cào bằng ở bên này xa lộ như đã xảy ra ở
bên kia
xa lộ. Trước sau gì cũng đến phiên cả mà thôi .
Dù bố có
thế nào đi nữa thì bao giờ con cũng vẫn là con của bố. Không sửa lại
được,
không nói khác được. Và con còn là con của gia đình có công với cách
mạng. Có
điều bây giờ đất nước thống nhất thì gia đình ly tán, muốn đoàn tụ phải
lưu
vong. Nhưng bố rất hãnh diện vì con, không chỉ có má con hãnh diện vì
con.
Khi nào có dịp
về thăm quê hương thì con cứ về nhà… bố mà ở, tiện nghi
“hiện đại”
còn hơn phòng khách sạn năm sao tiêu chuẩn quốc tế trên Sài gòn. Bố có
điện
thoại cầm tay, tại nhà thì có téléphone, máy vi tính… Mặc dù bố chẳng
biết một
tí tiếng Tây, tiếng Mỹ, tiếng Tầu, tiếng Nga… nào để mà đọc được những
trang
trên màn hình, nhưng khởi đầu sự nghiệp cách mạng là một kẻ ở đợ, mù
chữ, được
“bình dân học vụ” vỡ lòng, “ i ngắn có chấm, tờ dài có ngang”, đến bây
giờ lên
mạng internet, thì kể như là có… tiến bộ! Nhà cửa bày biện sang trọng
kịp trào
lưu là theo đúng nội dung “khoa học kỹ thuật” trong “ba dòng thác cách
mạng” mà
thôi con ạ!
Bố tạm “chấm cơm” ở
đây, mong hai mẹ con được sung sướng.”