Từ hàng ghế dành cho giáo dân nhìn lên
bàn thờ, ông lão quan
sát nơi thờ phụng Chúa của bà lão. Gọi là Chúa của bà lão là vì vợ ông
khi chưa
ngã bệnh thường hay giành lấy hết tất cả phúc đức, khôn ngoan về cho
mình, cho
nên đã có lần ông lão nói: “Tất cả là của em, nước Mỹ này là của em,
thế gian
này và nước Chúa kia cũng đều là của em”. Bây giờ bà bị bệnh nặng không
đi đứng
được, nằm một chỗ, đàn con bèn giao cho bố cái sứ mệnh cao cả là thường
trực ở
nhà săn sóc và coi chừng má chúng nó. Ông than “thoát khỏi nhà tù xã
hội chủ
nghĩa, lưu vong sang Mỹ lại sa vào một nhà tù khác tinh vi hơn”. Hai
ngày cuối
tuần ông được nghỉ “xả hơi” vì đàn con đông đảo của ông chúng thay
phiên nhau
đến săn sóc mẹ.
- Bố đi chơi đâu cho khuây khỏa thì đi
đi.
- Đi đâu bây giờ?
- Thì bố ra quán cà phê ngồi nhâm nhi
tán gẫu đỡ buồn.
Ông nói:
- Lúc chín giờ thi sĩ điện thoại rủ ra
“quán cháo lú” của
kịch tác gia, bố nói chờ lát nữa có đứa nào đến coi bệnh nhân tôi sẽ
tới. Chờ
mãi đến trưa mới có cậu út đem fast food tới, lúc đó bố chỉ còn cách
xách
laptop ra vườn sau ngồi gặm hamburger ở bãi cỏ, chứ còn làm gì được
nữa, họ về
hết rồi còn đâu.
Từ đó ông tính kế cho riêng ông.
Sáng chủ nhật thức dậy sớm, uống cà
phê xong, vào ngó bà lão
thấy vẫn còn nằm ngủ ngáy khò khò, ông bèn mặc quần áo đẹp trốn ra khỏi
nhà.
*
“Tôi trốn ra khỏi nhà
đi chơi với em. Mà đi đâu bây giờ?
Chúng ta không có một nơi ẩn náu. Cả thế gian này không có một chỗ nào
cho
chúng ta ẩn náu đâu em.
Thôi đành lại đến nhà
thờ. Nước Chúa ở khắp mọi nơi, cho
khắp mọi người. Xung quanh phần đông là những ông bà Mỹ già. Tôi thì
một mình
nên bèn nhìn lên bàn thờ Chúa mà nghĩ tới em. Hôm nay là mùa chay nên
bàn thờ
được trang trí theo phong cách năm sự thương khó. Những tấm màn màu tím
than
rất lớn từ trên cao rũ xuống chỉ mang hình vẽ vỏn vẹn một cọng gai,
loại gai
thường nhìn thấy trên đầu Jesus Christ trên đường thánh giá tới đỉnh
đồi đóng
đinh. Không rõ nhà vẽ kiểu nào, có phải là linh mục chánh xứ không, đã
trưng
bày hai cây khô với bốn cây nến. Em có để ý không, tôi thì tôi thấy ở
búp những
cọng cây khô có loáng thoáng một vài bông hoa trắng rất nhỏ, hoa trắng
rất ít
và rất nhỏ, em phải chú ý tinh mắt mới nhận ra, chứ nếu em chỉ mê mẩn
vì tình,
chỉ nghĩ tới hình ảnh khác, chỉ nghĩ tới đôi mắt của cái lão ngậm tẩu
nhìn như
không nhìn ai… thì em sẽ chẳng thể nhìn thấy mấy đốm hoa trắng bé tí
tẹo trên
búp cây khô. Hai cây khô rất đẹp nhưng tôi lại lấy làm tiếc nếu như
designer
chỉ chọn đặt một cây khô nở hoa với một ngọn nến lung linh ánh lửa ở
bàn thờ
Chúa cho ngày hôm nay và cho cả ngày mai thì sẽ trọn vẹn hơn cho tất
cả. Đó chỉ
là ý nghĩ và mong muốn của riêng tôi. Nhà thiết kế có ý tưởng và lý do
riêng
của họ. Người nữ không có cơm ăn không có áo mặc hay nhân vật nữ có
cuộc sống
đầy đủ phè phỡn trưởng giả, ai thương tâm hơn ai? Phải là thế nào đây
mới là
tội nghiệp ?
Trốn nhà đi tư tình
với em, rủ em đến nhà thờ quì trước bàn
thờ Chúa. Rủ là rủ tưởng tượng sung mãn thôi chứ giờ này em đang làm
việc bên
cạnh cái lão ngậm tẩu ở không gian miền đông nước Mỹ. Tôi một mình
nhưng tôi
vẫn cứ bắt em phải quì gối bên cạnh tôi trước mặt Chúa và nói “I do”.
Đến cái
tuổi “khọm” sắp “tỏi” tôi mới dám trốn bà lão ra khỏi nhà, mới dám bày
đặt yêu
thầm nhớ trộm, mới bắt đầu tập tành ngoại tình, mới thèm muốn cầm tay
em, thèm
muốn được em chạy đến ôm hôn ở sân bay, muốn được đưa em đi thăm Huế,
thăm Nam
định…
*
Bà phước ngồi cạnh
thấy ông lão chỉ ngồi nhìn mà không ca
hát, dì bèn đưa cho ông quyển thánh ca của nhà thờ, đã mở sẵn trang có
bài hát
cả nhà thờ đang hát, dì chỉ ngón tay vào câu ca cho ông khỏi mất công
lần mò
tìm tòi. Ông thank you sister, dì không nói gì mà chỉ hát theo mọi
người. Ông
lẩm bẩm hát theo dòng người. Dì phước đã lớn tuổi, dì trông coi trường
học của
giáo xứ, dì biết ông là người sáng sáng đi theo bà lão đến nhà thờ. Bà
lão đi
lễ, ông chỉ là người đi theo, phải đi theo bà để coi chừng mấy đứa cháu
yêu của
bà, nhưng dù sao thì ông cũng được lây cái tiếng siêng năng đi lễ nhà
thờ hàng
ngày. Cả hơn chục năm rồi chứ ít sao, đến thánh cả Joseph còn biết mặt
ông chứ
đừng nói sister hiệu trưởng.
Ethan và Nick đi đâu
cũng mang theo xe tăng tầu bò súng ống
đạn dược, có khi cả mặt nạ chống hơi độc trong chiến tranh vi trùng. Ở
nhà thờ
hai đứa thường chui xuống dưới gầm ghế mai phục, bố trí súng ống, khi
nghe giáo
dân đọc “Our father…” là tự động chúng vứt bỏ hết vũ khí, chui ra khỏi
hầm,
đứng lên, cầm lấy tay ông hoặc tay ông bà Mỹ nào đó ở bên cạnh. Hai Mỹ
con
không biết đọc: “Lậy cha chúng tôi ở trên trời…” nhưng chúng biết bài
kinh “Our
father…” Chúng còn biết bắt tay và chúc: “peace to you…” nữa. Ông nhìn
và thích
thú vô cùng. Cả mấy ông bà Mỹ già bên cạnh cũng nhìn lũ trẻ cháu ông và
cười
thích thú như ông.
Ông lão nghĩ, nếu như
trời thương, hai thằng cháu ông, mai
này lớn lên chẳng may được mời “hồi loan”, hoặc “tìm đường cứu nước”
trở về, nhảy
lên làm tổng bí thư, chủ tịch nước, chúng sẽ áp dụng chính sách quốc
phòng toàn
dân, bắt người ta khi đi lao động, con trâu đi trước cái cầy theo sau,
phải
luôn đeo khẩu súng trường dài thoòng trên lưng còng, sẵn sàng chiến
đấu. Hoặc
là thằng nào được làm tổng thống ở nước Mỹ, sẽ vận động quốc hội ra đạo
luật
buộc nhân dân Mỹ phải đem theo người cái mặt nạ chống hơi độc, khi làm
việc,
khi đi chơi, khi ngủ, cũng như khi yêu…
Nhưng mà này ông lão, nếu sau khi chúc bình an của Chúa cho
nhau xong, chúng có cầm lại vũ khí thì ông cũng cảm thông cho chúng chứ
?
*
Qua hình ảnh bà phước
Mỹ, tôi nhớ lại hình ảnh soeur
Josephine ở trường Thánh Tâm phố Hàng thao thành phố Nam định thuở xưa.
Không
biết ngày ấy do đâu mà tôi lại lọt vào học trường con gái do các bà sơ
dạy. Năm
đó tôi còn nhỏ học Cours E’le’mentair. Năm sáu nhóc học chung với cả
lớp con
gái mà tôi lại to đầu hơn cả. Cũng may suốt năm học tôi đều đứng nhất
lớp, cưỡi
đầu cả con trai ông tỉnh trưởng sở tại. Có lần quan năm tây commandant
secteur
đến thăm trường, quan tây xí xô hỏi chuyên, sơ Josephine chỉ tôi gọi
đứng lên,
quan tây bước đến xoa đầu ông lỏi, rút trong túi ra một nắm tiền đông
dương
thưởng cho nhét vào tay. Cả lớp con gái sầm xì bàn tán. Sơ Josephine
cũng cười
tươi hãnh diên. Tôi thì ngẩn người ra như một thằng ngố. Cũng trong lần
đến
thăm trường ấy mà đồn hiến binh tây đóng ở căn nhà cổng tu viện phải
dọn đi nơi
khác. Hồi mới chiếm lại thành phố, tây đóng đồn hiến binh ở đó để lính
lê dương
không giám đến phá phách dòng tu, nay tình thế đã có phần ổn định, rút
đi chỗ
khác cho nhà dòng được yên tĩnh. Và học trò chúng tôi mới được đi ra đi
vào
cổng chính phố Hàng thao thay vì phải chui qua cổng phụ ở phố Hàng sũ.
Nhưng
niên học sau bọn con trai chúng tôi cũng không còn được học ở trường
Thánh Tâm
nữa mà phải qua học bên trường con trai E’cole Servir. Và cũng từ đó
tôi không
bao giờ còn được trông thấy sơ Josephine kính yêu của tôi nữa.
Tôi mang món tiền “tây quăng” về đưa cho bố, hình như đó là
khỏan tiền “thu nhập” đầu tiên tôi kiếm được trong đời. Nhưng có một
điều lạ,
trong số học trò con gái có hai cô em chơi thân với nhau đều tỏ vẻ thán
phục
tôi, nhiều lần trò chuyện hai người con gái ấy đã nói là họ rất muốn
học giỏi
được như tôi. Hai cô đều có tên tây và tên Việt, nhưng tôi chỉ nhớ tên
Việt của
họ. Nhớ đến nỗi sau này, mấy chục năm sau này, khi cần chọn cho mình
một bút
hiệu, phụt nhớ, tôi đã dùng hai chữ tên của hai cô bạn học thời xa xưa
ấy. Tên
hai cô bạn nhỏ dính chặt vào trong trí não tôi. Cũng như tên của sơ
Josephine
mãi mãi cho đến già tôi vẫn nhớ mồn một. Lạ thế, bao nhiêu bạn học khác
không
nhớ, bao nhiêu các bà sơ khác cũng không hề nhớ một mảy may nào, nhưng
sơ
Josephine, thì hiển hiện trong trí nhớ tôi. Bây giờ đã lão, dĩ nhiên sơ
Josephine còn lão bà nhiều hơn nữa, nhưng nghĩ tới, hình ảnh sơ vẫn là
tươi trẻ
phúc hậu đẹp đẽ lòa xòa trong bộ y phục nữ tu với chiếc mũ cánh trắng
trên đầu.
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sơ Josephine đã qua đời, tôi nhớ tới sơ là
nghĩ ngay
đến hình ảnh sơ thuở ấy. Và bây giờ ngồi dự lễ nhà thờ bên cạnh bà
phước sister
Mỹ, nhớ lại, cũng vẫn là hình ảnh sơ Josephine tươi trẻ ngày nào mặc dù
tuổi
tác thì sơ Josephine hơn bà phước hiệu trưởng trường học nhà thờ nhiều
lắm.
*
Grandparent Day ông
lão đến trường tham dự buổi học với hai
đứa cháu, còn đang lớ ngớ tìm lớp, sister đến vỗ vai ông chào hỏi và
giúp ông
tìm ra ngay lớp học. Hôm đó hai đưa cháu thay phiên nhau vẽ bàn tay ông
úp vào
bàn tay của nó xong tô mầu, hai bàn tay hai mầu khác nhau, rồi nó vẽ
ông có râu
ria đầy đủ chỉ trông không giống ông mà thôi. Chúng còn phỏng vấn ông
những câu
rất hóc búa, trong đó có câu “ông yêu ai hơn trong hai người bố nó và
mẹ nó”
ông khôn lỏi trả lời “Ông yêu cả hai bằng nhau”. Rồi câu tiếp “Bố của
ông và mẹ
của ông ai là người nghiêm khắc hơn”, ông cũng vẫn khôn lỏi “Cả hai đều
nghiêm
khắc như nhau”. Nhà trường chụp hình ông cháu, cô giáo nói hãy cười
lên, cả ông
cả cháu đều cười. Khi nhân được hình, mẹ chúng nó mua một cái khung rất
đẹp cài
hình vào rồi để trên bàn của ông. Ngày nào ông cũng nhìn thấy ông, thấy
Ethan,
thấy Casey cười. Casey cười mỉm, Ethan cười ngoác miệng nghịch ngợm,
không hiểu
anh ta còn nhớ môn võ liếm đất cổ truyền ? Riêng ông, nụ cười trên môi
ông sao
thấy như xa xôi hoang vắng. Chẳng lẽ lúc đó, lúc vui với những đứa cháu
thương
yêu, ông chợt nhớ tới một người nào, ông chợt nhớ tới một nhân vật hư
cấu nào.
*
Ông lão lái xe ra khỏi nhà thờ, phải
về thôi, không chừng
giờ này bà lão đã thức dậy, đang chờ phục vụ, “đồng chí thủ trưởng đang
đợi
đồng chí cần vụ” ở nhà, cứ ở đấy mà vung vít.
Ba con vịt con đứng chơi giữa đường,
ung dung, đủng đỉnh… Ba
nàng mới lớn, bộ lông còn vàng vàng và lú nhú. Hình như ba nàng mới từ
công
viên thoát ra đây, có vẻ nhởn nhơ, coi đường sá là của mình, coi xe cộ
chạy vùn
vụt trên đường không ra gì, coi thên hạ như “ne pas”…Ông lão phải dừng
xe lại
thôi, bấm còi nhè nhẹ không ăn thua có lẽ vì ba nàng không thích cái
lối mắng
mỏ bằng máy kiểu mỹ. Ở Mỹ nghe nói: thứ nhất là đàn bà trẻ em, thứ hai
là chó
mèo, thứ ba là cây cỏ, thứ tư là chim muông cá kiểng… Chắc vịt gà ngan
ngỗng
thả rông ở công viên cũng thuộc giai cấp quí tộc thư tư, cũng thuộc
loại chim
muông cá kiểng cần được tôn trong bảo vệ vì cũng là tài sản quốc gia,
tài sản
xã hội chủ nghĩa thiêng liêng. Dừng xe một lát chờ quí cô nương tránh
lên lề
đường cho bản thân tôi nhờ, nhưng các nàng không vội… “đi đâu mà vội mà
vàng,
mà vấp phải đá mà quàng phải dây, đủng đỉnh như chúng chị đây…”
Trong khi ông cố nhẫn nại nhường nhịn
ba cô, thì cái bà lái
xe đằng sau, có lẽ không thấy việc làm tôn trọng luật lệ và tôn trong
văn minh
của ông nên bấm còi xe thúc giục! Trước tình thế ấy, ông phải làm sao
đây. Ông
mới đi lễ nhà thờ về, mới đi gặp người tình của ông về, ông đang cần
phải về
nhà gấp vì chủ của ông đang đợi…Ba nàng phía trước, một bà phía sau, có
hiểu
cho lòng ông không ?
Cuối cùng thì ba cô (ông cũng chỉ đoán
mò, vì thấy cả ba đều
xinh đẹp, chứ đâu đã phân biệt được đực cái) cũng lên vỉa hè đứng nhìn
xuống
đường xem ông tháo chạy. Về tới nhà quả nhiên bà lão đã… bò ra tới bếp.
Ông hết
hồn vì rằng nàng đã nhiều lần ngã lăn đùng ra bếp không ngồi dậy được
đến khi
được cứu. Những lần xảy ra sự cố như thế nhân dân nó biết nó phê phán
bố chúng
nó thiếu quan tâm nhiêm vụ.
*
Sau nhiều tháng ốm đau liệt giường
liệt chiếu, bà bỏ cả đạo,
chủ nhật phục sinh là lễ buộc, ông đưa bà đến nhà thờ. Ông dẫn bà vào
chỗ của
người tàn tật, lúc đầu bà không chịu có lẽ vì xấu hổ không muốn người
khác thấy
mình tàn tật, nhưng rồi ông dỗ dành: “nước Mỹ họ đã chuẩn bị cho bà đủ
thứ , từ
chỗ đậu xe đặc biệt dành riêng, đến chỗ ngồi rộng rãi tiện nghi ở nhà
thờ, rạp
hát, xe bus, tầu điên… chỗ nào bà cũng được ưu tiên, sao bà không hưởng
? Không
biết nước Mỹ họ đã làm gì ác đức mà đến nông nỗi phải trả nợ đời đến
thế, lo
cho người Mỹ già đã đành, nay phải cung phụng cho di dân như bà đủ thứ
tiện
nghi. Chắc tại vì bà là đồng minh trong chính sách quốc tế toàn cầu !”
“Này em, hôm nay em có thấy cây khô đã
có nhiều, rất nhiều
hoa trắng nở ra ở đầu cành. Không chỉ một hai cánh trắng nhỏ xíu khó
thấy như
bữa trước, mà là xum xuê. Rất dễ thấy. Ai cũng thấy. Cả nhà thờ đều sẽ
nhìn
thấy. Không chỉ riêng anh. Nhưng anh vẫn sẽ chỉ cho em. Để anh và em
cùng nhìn
thấy hoa trắng đã nở rộ trên cành cây khô…”
Những tấm màn màu tím vẽ gai góc cũng
đã được thay thế bằng
những tấm màn trời xanh, biển xanh, với làn sóng bạc mát mắt.
Bà lão ngồi ghế dành riêng cho người
què, nhưng ông lão chưa
què nên ông ngồi ở hàng ghế sau để lo săn sóc cho bà phía trước. Ngồi ở
hàng
ghế dành cho người què linh mục sẽ phải mang mình thánh Chúa đến tận
nơi mời bà
xơi, mang rượu nho tức là máu thánh Chúa đến tận miệng mời bà uống. Bà
không
đến với Chúa được thì Chúa đến với bà vì Chúa lòng lành vô cùng.
Thực phẩm của trời thì như thế, còn
thực phẩm trần gian ở
nhà thì bây giờ bà lão hoàn toàn phải ăn theo tiêu chuẩn ông lão định
mức. Bà
không được lựa chọn, kén cá chọn canh, ông lão cho gì bà hân hoan mà
hưởng .
Nhưng trình độ bếp núc của ông rất giới hạn, có khi food to go cho
tiện. Đàn
con cũng rất hay giúp bố, mỗi khi có dịp tạt qua nhà thăm bố mẹ, anh
chị nào
cũng ghé tiêm ăn mua một hai món gì đó đem tới, bà lão ốm đau ăn uống
qua loa,
còn bao nhiêu ông lão thanh toán. Do đó bà lão càng ngày càng gầy đi,
xuống một
trăm pounds rồi xuống chín chục… trong khi đó ông lão phải ăn cố cho
hết đồ ăn,
trọng lượng cơ thể tăng dần lên tới hai trăm pounds, mập ú, đi đứng
dềnh dàng.
Có lần ông lão nói với bà:
- Em đừng có chết. Em chết sau bố. Mà
bố thì thọ tới 94
tuổi, cô thầy bói riêng của bố nói bố sẽ sống khỏe tới chín mươi tư
tuổi lận.
Bà lão nói:
- Ý bố muốn em chôn bố chứ gì, bài cũ
hát hoài.
- Đúng vậy. Bố thích khi mình “tỏi” có
đủ ba người nhào vào
ôm hòm gỗ khóc lóc thảm thiết…
- Bố đào đâu ra những ba người rỗi hơi
như thế ?
- Thì chỉ là bố thích được như thế
thôi mà. Còn thực tế thì…
một người có lẽ cũng đừng hòng, chẳng thấy em què giò đó sao, què làm
sao mà
“diễn” nổi cái vai sầu bi như thế. Người số một đã thấy khó thực hiện
rồi…
- Này, yêu cầu đừng dùng chữ què nghe
ghê quá, không nhớ lũ
con nó dặn dò bố đừng bao giờ dùng lời nói nặng với má sao?
- Ờ, không thích thì thôi, nhưng què
thì nói là què, có làm
sao đâu, dễ gì tự nhiên được mang cái tước hiệu handy craf…
- Thế còn người thứ hai, thứ ba… là ai
vậy ?
- Đến ngày đó ai có lòng tới khóc lóc
thì em sẽ biết, sẽ
thấy, chứ bố làm sao mà thấy được nữa!
Rồi ông lão nói sang chuyện khác:
- Nếu em chết trước lũ con nó sẽ không
mua đồ ăn đem tới nữa
đâu, chúng mua là mua cho mẹ, vắng mẹ rồi chỉ còn bố thì bố lái xe ra
quán ăn
mấy hồi… Vắng em là bố bị “thất thu” ngay…
Bà lão xịu mặt:
- Bạc ! Chỉ ăn !
Đến khi bỏ tiền vào rổ, ông cũng lấy
trong bóp ra một đồng
đưa vào tay bà vì ông biết bây giờ bà không có tiền rủng rỉnh như hồi
còn khỏe
mạnh. Hồi bà còn khỏe mạnh bà nắm giữ việc chi tiêu trong nhà, ông khỏi
phải
bận tâm lo lắng, ông đóng vai người vô sản chuyên chính một xu teng
không có
trong túi vì mọi việc đã có nhà nước lo. Bây giờ bà nằm đó, ông phải
lãnh trách
nhiệm trước lịch sử, từ việc đi chợ nấu nướng rửa chén bát nồi niêu ly
tách đũa
thìa dao thớt… phát seo cả hai bàn tay, đến việc lau nhà, giặt đồ, cắt
cỏ, lái
xe, ký check trả tiền bill, làm bác sĩ khám bệnh kiêm y tá chích
thuồc…Lantus,
30 units, chích bụng dưới lỗ rốn, mỗi buổi sáng lúc chín giờ. Vạch áo
ra cho bố
xoa alcool. Già rồi có gì mà mắc cỡ. Kim tiêm Mỹ chích ngọt không, đâu
có đau.
Bố là một y tá cừ khôi. Ông “đốc” Cổn cũng phải công nhận, chứ cô
Teneese khen
là đương nhiên.
Ông làm tất cả mọi việc trong nhà. Hồi
trước ông gọi bà là
cai ngục và ông tự nhận mình là tù khổ sai, bây giờ ông làm cai ngục bà
làm tù,
bà phải chờ ông ban phát thứ gì thì được thứ ấy, tù không được phép đòi
hỏi, kể
cả việc chi cho bà một đồng dollar mỹ bỏ vào quĩ chi tiêu nhà thờ. Ông
lão nói:
- Bố cho em tiền bỏ vào quĩ nhà thờ.
Bà lão cầm đồng tiền nhưng có vẻ ngơ
ngơ, ông lão phải giảng
giải vào tai bà:
- Nhà thờ phải chi tiêu nhiều thứ, nhà
thờ cũng phải trả
tiền điện, nước, gas, cắt cỏ, hoa lá, máy lạnh máy sưởi, hút bụi… thì
mỗi người
phải góp vào chứ. Nhà Chúa cũng cần có những nhu cầu tiện nghi thông
thường, ở
nước chậm tiến kém phát triển nhu cầu thấp nhưng ở nước công nghiệp
phát triển
cao thì nhu cầu cũng cao hơn, nhà Chúa ở đây cũng cần chi tiêu nhiều
hơn. Tiền
này bố cho em để em góp mua ticket vào cửa nước thiên đàng. Bố lo cho
em đủ
thứ, lo cho em đời này và lo cho em cả đời sau nữa.
Khi chúc bình an cho nhau, bắt chước
mấy ông mấy bà Mỹ già
họ hôn môi nhau thắm thiết, ông lão cũng sang trọng như tây, lật mặt bà
ngửa
lên rồi hôn ngược như trời giáng trên trán bà, hai tay ông vuốt nhè nhẹ
hai bên
tai bà, rồi ông thì thầm lời nói yêu đương muôn thuở cố hữu của ông:
“cục nợ”.
Hình như bà lão cảm động vì được gọi là cục nợ, hai tai bà run run. Ông
lão
nhìn thấy rõ những sợi lông tơ trên làn da trắng muốt xanh xao nơi tai
nơi cổ
của bà một thoáng gợn sóng cánh đồng cỏ may dưới chân núi Mây tào.
Mấy thằng cháu yêu của ông lão khi tới
giây phút chúc bình
an cho nhau, chúng còn biết quẳng vũ khí, còn ông, ông chỉ biết bắt
chước người
ta hôn nhau, ông chỉ biết bắt chước người khác thôi à ? Thế có khi nào
ông biết
bắt chước con cháu ông không ? Ông thật đáng ở tù. Ông thật đáng giam
vào ngục
thất cấm cố, khổ sai, chung thân. Ông thật đáng bị bà nội chúng nó quản
lý. Rồi
ông còn đáng cho “bà trẻ” của chúng nó nhốt ông mãn đời! Một gông cùm
ông đã
chịu không thấu, chui đầu vô một gông cùm nữa, thử hỏi ông chịu được
bao lăm
dưới hai cái ách thống trị đó ?
Những người yêu ông đều phải chịu cực
nhọc vất vả vì ông
nhưng ông cứ lơ mơ không biết tới. Bà lão nhà ông có hai nốt ruồi trên
hai vai
nhưng ông đâu có biết. Ở với nhau mấy chục năm, con đầy nhà, cháu đầy
đàn, ông
vẫn vô tình không biết bà vợ ông có hai nốt ruồi trên hai vai. Mãi đến
khi
người tình của ông chỉ cho ông thấy hai nốt ruồi trên hai vai cô và kể
ông nghe
về chuyện tướng số vận mạng.
Từ thời thơ ấu, má bảo cái nốt ruồi
trên vai con sẽ làm con
khổ suốt đời. Rồi con sẽ phải gánh vác bao nhiêu việc nặng nhọc cho
chồng, cho
đời. Nay cái nốt ruồi vẫn còn đó. Y khoa ngày nay có thể giúp “tẩy” cái
chấm
đen đó khỏi làn da một cách dễ dàng, nhưng bác sĩ sau khi làm xét
nghiệm đã nói
“nó không lan rộng, không chảy máu, không độc hại… thì việc gì mà đụng
tới nó”.
Cô nói đùa chê bác sĩ này dở nhưng ông lại khen ông bác sĩ này giỏi.
“Đúng, nó
không gây thù gây oán gì với cô, nó tự nhiên mà có ở chỗ đó, nó vô tội,
thì tại
sao lại tẩy nó đi, tại sao lại cắt nó đi, tại sao cô lại muốn tiêu diệt
nó”.
Rồi ông tiếp: “Cô muốn thay đổi số mạng bằng cách đó sao? Xóa đi một
nốt ruồi
là sẽ thay đổi được thân phận ư ? Không cần phải làm như thế. Gánh nặng
là do
cô “ôm” vào, đâu phải tại nó đem đến, mà gánh năng có khi lại rất dễ
chịu, rất
thú vị thì sao…”
Thế rồi khi về nhà săn sóc cho bà lão,
nhớ tới hai cái nốt
ruồi trên hai vai người tình, ông lão mới chú ý đến vai của bà. Và ông
giật
mình thấy trên vai bà cũng có nốt ruồi, hai chấm hồng ở hai bên vai.
Ông ngớ ngẩn
hỏi bệnh nhân:
- Em… cũng có nốt ruồi trên vai à ?
Rồi ông sờ tay trên những chấm hồng
ấy, ông ngớ ngẩn thêm
một lần nữa:
- Sao em không nói, sao em không khoe
với bố từ ngày ấy, từ
ngày cưới ấy ?
Bà lão bực mình, đang đau ốm què quặt,
tự nhiên lại hỏi bà
những chuyện vớ vẩn không đâu vào đâu, nghe ngứa cả tai, bà lão lậu bậu:
- Việc đó là việc của ông. Ông phải
biết tới nó. Sao tôi lại
phải nói, sao tôi lại phải khoe cái đã làm tôi khổ suốt một đời.
Tình hình gay cấn, khi nào bố bố em em
là hòa bình, khi nào
ông ông tôi tôi là căng thẳng rồi đó. Ông lão lặng thinh rút lui. Mỗi
khi cảm
thấy tình hình căng thẳng là ông tìm đường rút lui. Ông luôn luôn là kẻ
bỏ
chạy. Ông luôn luôn là kẻ thua ngay từ khi cảm thấy bắt đầu gay go. Ông
rất sợ
gay go. Ông rất sợ phải đối kháng. Thậm chí ông còn rất sợ to tiếng.
Ông là kẻ
sợ đàn bà, ông là kẻ sợ vợ. Ông luôn luôn áy náy sợ làm họ buồn lòng và
ông
cũng luôn luôn là kẻ làm họ buồn lòng.
Về phòng riêng, ông nhớ tới bà nuôi
tù, ông lão nhấc điện
thoại gọi ra nước ngoài. Lát sau có tiếng trả lời, ông hỏi ngay:
- Chú muốn hỏi em một việc, em có nốt
ruồi trên vai không,
nốt ruồi mà người ta cho là số phận gánh vác ấy. Có không ?
Đầu dây có tiếng trả lời:
- Có. Có từ hồi nhỏ. Hai chứ không
phải một. Hai chấm hai
bên vai. Mà sao tự nhiên chú lại hỏi chuyện đó. Bộ hồi đó chú không để
ý nhìn
thấy nó sao ?
Ông lão ngẩn ngơ lòng. Thì ra không
phải một mà là nhiều
người lo gánh vác cho ông, nhiều người vất vả khó nhọc vì ông. Vậy mà
từ trước
tới nay ông cứ như một kẻ dửng dưng thờ ơ lãnh đạm. Ông hưởng thụ mà
chẳng nghĩ
gì tới nỗi vất vả của người săn sóc mình. Ông là một kẻ vô tâm, bất
nghĩa. Ông
chính cống là một kẻ bạc tình !
*
“Em cũng là cai ngục.”
“Em áp giải tôi từ tây sang đông, từ
đông sang tây, từ nam
ra bắc, từ bắc xuống nam, từ nơi này tới chỗ khác, suốt mười bảy năm
ròng qua
mười tám trại tù. Em áp giải tôi theo chu kỳ ngũ hành kim mộc thủy hỏa
thổ. Em
áp giải tôi đi vòng quanh nước mỹ, đi vòng quanh thế giới. Em dắt tay
tôi đến
tận điện Hòn chén, về tận đền Trần. Em đánh đu trên vai tôi qua những
cánh đồng
sình lầy và những vườn hoa sặc sỡ thơm tho. Em đòi tôi tập bơi cho em
từ địa
ngục sang thiên đàng rồi bơi lại từ thiên đàng sang địa ngục. Em cột
chặt tôi
trong vòng tay em êm ái và những bận rộn không ngơi.
Em cho tôi cái gì thì tôi được thứ ấy.
Em hẹn tôi đến sân
bay và khi gặp nhau em cũng chủ động chạy nhanh đến hôn môi tôi tự
nhiên trước
mặt mọi người. Cả đời tôi chưa có ai hôn tôi ở nơi công cộng và tôi
cũng chưa
bao giờ hôn ai ở nơi công cộng như thế. Khi ở Việt nam thì không giám
làm vậy
vì không ai làm vậy, chạy sang tới Mỹ tôi chưa có người tình kiểu Mỹ
nào, cho
nên tôi vẫn là một kẻ nhà quê.
Đừng nói đến kiểu Mỹ, ngay kiểu ta,
tôi cũng vẫn chỉ là một
kẻ ngố, hai mươi tuổi viết quyển truyện tình đầu tay cũng chưa có lấy
một người
tình thật sự, chưa có một mối tình thật sự mà chỉ là những sao chép,
cóp qua
cóp lại, nghe hơi bắc nồi chõ, lấy chuyện tình của người ta, của bạn bè
xung
quanh, có khi họ cũng chỉ phịa ra cho lãng mạn cuộc đời… làm nền cho
tác phẩm
của mình! Bất chợt em hôn tôi, em hôn tôi đằm thắm dịu dàng, tôi thấy
như thế
suốt cuộc không vận năm giờ đồng hồ qua năm ngàn dặm bay từ miền tây
sang miền
đông nước Mỹ.
Em đúng là cai ngục thứ thiệt của tôi
đó.
Em chủ động gọi thức ăn và rượu vang
cho tôi. Thì đã bảo cai
tù cho gì tù nhân được nấy. Không đòi hỏi. Không phản đối. Chấp hành
thôi. Thậm
chí, khi tôi cần di chuyển em gọi tắc xi, nói cho tài xế biết nơi tôi
đến, trả
tiền trước, rồi ôm hôn tôi, xong mới nhét tôi ngồi vào xe. Dặn dò không
được đi
lang thang mẹ mìn nó bắt đem sang Cu ba bán cho ông Fidel, em không
chuộc được.
Lại dặn thêm xong việc nhớ về sớm. Về thẳng nhà. Tắc xi tới cửa em sẽ
trả tiền.
Đừng lo. Không lo. Xe chạy rồi em còn đứng nhìn theo.
Đi làm việc ở đâu em cũng mang tôi
theo. Khi em dự hội họp,
tôi ở lại phòng khách sạn với cái laptop mà tưởng tượng. Sự thật và hư
cấu, mỗi
thứ đều chín mươi chín phần trăm. Và chơi game boy, chờ em về. Mọi việc
đều đã
được sắp xếp, lập trình. Em yêu anh vô cùng. Anh yêu em vô cùng. Yêu
không biết
thế nào mà nói.”
*
“Anh không được làm gì cả. Anh không
được có cái ý nghĩ kinh
doanh trong đầu. Anh không được làm xuất bản. Anh “chế” ra cái gì đó
rồi mặc kệ
trời đất trăng sao muốn mưa nắng dãi dầu thế nào cũng được. Có người
làm cho
anh. Có người lo cho anh. Nếu mà anh phải bận tâm đến những việc khác
sẽ không
tốt cho việc của anh. Anh chỉ phải làm mỗi một công việc mà anh phải
làm, và
cũng chỉ có anh làm được việc đó mà thôi, người khác làm việc đó sẽ
khác. Anh
có hiểu không ? Anh có hiểu em nói gì không ? Vậy thì anh phải nghe em.
Vậy thì
anh phải ở không. Vậy thì anh phải không được làm gì khác cả, ngoài cái
việc
của chính anh. Anh có sứ mệnh ở không. Ở không để làm việc đó.
Các con anh họ đã nói anh chỉ được làm
mỗi một việc là không
làm gì cả. Đúng không ? Anh đã chiều chuộng vợ anh. Anh đã chiều chuộng
các con
anh. Anh đã làm họ vui lòng. Đúng không ? Và em cũng được anh chiều
chuộng. Em
cũng được anh cho em hạnh phúc. Vậy hãy nghe em đừng làm việc gì khác
ngoài
công việc chính của anh. Những người thân yêu xung quanh anh luôn luôn
làm cho
anh vui và luôn luôn làm cho anh khổ. Em cũng thế, em cũng là người
thân yêu
của anh và em cũng muốn làm cho anh vui, em cũng muốn làm khổ anh.
Em là thân yêu của anh, vì chính anh,
đã liều mạng làm một
việc sai nguyên tắc, đã giữ gia đình em, mẹ em, chị em em ở lại bên này
thay vì
bị lôi kéo, bị đẩy sang phía bên kia. Việc này ít người biết và có lẽ
chính anh
cũng không nhớ, nhưng em và gia đình em đều ghi nhớ. Bởi vì từ đó chúng
em đã
được sống theo cách sống của mình. Cả gia đình em đều coi anh là người
trong
nhà. Riêng em, đến nay, vì những chuyện tưởng tượng, (k.s.m.), em còn
bắt anh
phải là người trong nhà của em. Vì thế em săn sóc anh. Vì thế em yêu
anh. Vì
thế em làm khổ anh”.
*
“Tôi trốn ra khỏi nhà đi chơi với em.
Mà đi đâu bây giờ?
Chúng ta không có một nơi ẩn náu. Cả thế gian này không có một chỗ nào
cho
chúng ta ẩn náu đâu em.”
Trong mỗi người đều có một khoảng
trống. Trong tôi cũng có
một khoảng trống. Năm hai mươi tuổi tôi gọi nó là cái hố, mỗi người đều
bị một
cái hố trong lòng. Tôi nghĩ là trong em cũng có khoảng trống. Từ bao
năm nay
khoảng trống đó vẫn tiềm tàng trong em, nó không rõ rệt, nhưng nó là
như thế.
Em đã từng tìm cách lấp khoảng trống đó trong em, và có lúc em đã tưởng
em lấp
đầy được, nhưng em ạ, lấp một cái hố trên đường đi có thể được, nhưng
khoảng
trống trong lòng con người ta thật khó biết ra sao.
Em càng làm vườn, trồng cây, tưới hoa,
em càng xúc tuyết,
càng xây tường, càng quần quật vất vả bao nhiêu thì khoảng trống đó
càng lúc
càng hoang vu thêm ra. Em càng khổ công bồi đắp cho ngôi nhà sàn trên
đồi của
em bao nhiêu thì ngôi nhà đó sẽ càng hoang vu hơn nữa. Tôi biết như vậy
vì rằng
khoảng trống trong tôi cũng càng lúc càng hoang vu như thế.
Có lúc tôi cũng đã tưởng em sẽ là
người lấp đầy khoảng trống
trong tôi, nhưng thời gian đi qua tôi đã nhận ra rằng em cũng đã làm
cho khoảng
trống trong lòng tôi rộng thêm mà em không biết! Bởi vì ai yêu tôi cũng
đều làm
cho lòng tôi tan nát cả. Càng yêu tôi nhiều càng làm cho lòng tôi lún
sâu thêm.
Cái hố cuộc đời tôi mỗi lúc mỗi sâu
thêm, càng ngày càng sâu
thêm. Để có thể tỉnh táo mà làm ra được những thứ mình muốn làm ra, và
để tồn
tại, tôi luôn luôn phải chống lại tình yêu. Có lẽ cái hố sẽ chỉ không
còn nữa
khi nào tôi không tìm cách lấp đi.
Em cũng vậy, sẽ có một lúc nào đó
khoảng trống trong lòng em
được lấp đầy, cái lúc nào đó em không tưởng tượng được, và em sẽ lấp
đầy không
phải bằng những cách em vẫn làm, mà bằng những thứ em đã tự để vuột
khỏi tay
em.
Lòng em sẽ không còn khoảng trống.
Tiết trời sẽ làm nẩy nở ra những bông
trắng tinh khôi trên
những cành cây có lúc tưởng đã khô. Mà tiết trời thật sự thì không đoán
mò
được, không cãi qua cãi lại được, lại càng không nên khắc nghiệt. Mọi
thứ đều
đã có tiên tri từ khi khởi đầu, tiên tri từ lúc mới thử lửa…
Thảo Trường
…(trích chương 4, tiểu thuyết Cơn Sốt
4, sắp xuất bản)