Lê Minh Hà
...
Cô đơn sấu rụng ngoài ngõ vắng
Con sóng nào vẫn vỗ về vào đam mê...
Hà Nội đêm trở gió (Lời Chu Lai - Nhạc Trọng Đài)
Tôi
muốn ngồi dậy. Vầng trăng còn bị vướng đâu đó đằng sau
một đám mây ở khoảng mênh mông bị chắn bởi khung cửa sổ và tôi muốn
nhìn thấy
nó. Nhưng tôi vẫn nằm im. Trong căn phòng mười sáu mét vuông của tôi
dội lên
tiếng thở của chồng con tôi. Đã có một đêm mất ngủ, tôi nằm nghe những
tiếng
thở đó và nhận thấy chúng bao giờ cũng lệch nhịp nhau. Tôi đã gắng thở
theo
nhịp thở hoặc của chồng, hoặc của con. Nhưng kết quả là không thể. Đêm
ấy cũng
là một đêm có trăng. Tôi đã nhìn trăng như thế nhiều năm.
Tôi
đã thôi không chống chọi lại sự mất ngủ sau khi người
chồng đầu của tôi mất một năm. Căn phòng nhỏ tôi đưa con về ở theo sự
thu xếp
của ông bà ngoại sau những dằn vặt không ngơi của nhà chồng tôi nằm ở
tầng năm
giữa một khu tập thể lớn. Đêm đêm vầng trăng đi qua đó, lúc đỏ quạch,
lúc sáng
xanh, lúc lạnh lung linh, lúc ảo não trong mưa, lúc lại bị chìm lấp
đằng sau
những tảng mây nặng trĩu hơi nước. Không phải lúc nào tôi cũng nhìn
thấy nó.
Nhưng tôi biết rất rõ rằng nó đang lang thang đâu đó trên cao và có lẽ
chỉ mình
nó biết rằng tôi không ngủ.
Mất
chồng tuổi nào thì sự góa bụa mới trở thành một nông
nỗi? Tôi goá chồng. Sớm không ngờ. Hai tư tuổi. Tôi chưa kịp làm gì,
chưa kịp
biết gì, hình như cũng chưa kịp mê say gì. Kể cả tình yêu.
Dù
rằng tôi lấy chồng không do một sự ép buộc nào. Chúng tôi
biết nhau từ lúc tôi mười bảy tuổi. Anh hơn tôi bốn tuổi, vừa rời đại
học lên
đường. Năm đó, tôi hăm hở bước chân vào đó. Đúng ngôi trường anh vừa
đành lòng
rời bỏ. Phải! Đành lòng! Tôi biết điều đó mãi sau này. Tôi biết anh
nhập ngũ
chẳng phải vì tiếng gọi thiêng liêng nào mà chỉ vì muốn đi thay người
anh cả,
muốn đáp lại một mong mỏi không thể nói ra của bố mẹ. Bao giờ anh cũng
có một
trách nhiệm nào đấy cần phải gánh vác ở thời tương lai. Thế nhưng cái
trách
nhiệm lớn nhất, lâu dài nhất, lằng nhằng nhất là trách nhiệm với mẹ con
tôi thì
anh đã không làm.Tôi làm sao trách anh được điều đó. Nghĩ về điều đó
với một
niềm cay đắng tôi cũng không dám. Điều ấy cũng từa tựa việc một người
mẹ tiếc
là đã sinh con chỉ vì quá cơ cực.
Vậy
là anh đi đã mười một năm. Con tôi nay mười hai tuổi. Nó
không biết mặt bố và lúc nào cũng thèm có bố. Cũng vì vậy mà khi có ai
đó đùa
nhả xui nó gọi bằng bố là nó gọi liền. Nhưng đấy là lúc nó còn bé, rất
bé.
Lúc
biết rằng anh không thể sống, gia đình đã nói xa nói gần
về việc mang nó vào thăm anh. Anh từ chối, bảo bệnh viện bẩn thỉu không
tốt cho
trẻ, bảo vài ba hôm nữa ra viện anh sẽ về bế con... Tôi không hiểu vì
sao.
Nhưng chính tôi cũng không muốn điều ấy. Thằng bé còn nhỏ quá.
Mới
chín tháng. Nó sẽ không thể nhớ được mặt bố. Còn anh.
Anh sẽ phải rời bỏ nó, rời bỏ tôi, ngày mai, ngày kia... Anh biết điều
đó. Bởi
anh tỉnh táo cho đến ngày cuối cùng trong đời. Một cuộc đời rất ngắn.
Có hai
tám năm. Mang thằng bé vào để anh nhìn mặt như thế tôi cảm như là bất
nhẫn.
Tôi
không biết anh nghĩ gì trong mấy ngày cuối cùng. Anh ngủ
chập chờn. Tôi cũng chập chờn bên giường anh, trong bệnh viện. Có một
lần, cảm
giác như chiếc ghế chao nghiêng, tôi bừng tỉnh. Anh không ngủ. Anh nhìn
tôi.
Cái nhìn đó tôi không quên mười một năm qua. Có lẽ sẽ không quên suốt
đời. Nỗi
khổ của tôi chính là thế. Chính là không biết quên.
Lúc
nào tôi cũng có cảm giác anh ở đâu đó quanh tôi và gia
đình nhỏ của tôi. Bây giờ là ba người. Tôi. Con tôi. Chồng tôi. Cũng đã
từng là
lính như anh. Không bao giờ tôi nói với người đang sống cùng tôi cảm
giác về
anh - người chồng đầu đã khuất của tôi. Tôi cũng không khóc, cả vào
ngày giỗ
anh.
Nếu
đó là tình yêu cứ sống mãi trong tôi dễ tôi còn có thể
nói ra. Nhưng đó không phải là tình yêu. Đúng! Không phải! Tôi hiểu
điều đó
ngay từ khi lấy anh. Tự nguyện lấy. Chồng sĩ quan, trẻ, có học. Vợ giáo
viên
nội thành. Bạn bè đồng thanh: Vợ chồng giáo khoa. Anh cười. Rất vui.
Rất yên
tâm về hạnh phúc của mình.
Chỉ
riêng tôi là không. Anh biệt phái ở quân khu tả ngạn,
nhưng theo xe đơn vị về Hà Nội luôn luôn. Những ngày thiếu nhau nung
đốt chúng
tôi làm cho những đêm của chúng tôi hừng hực, hừng hực. Nhưng dù thế,
tôi vẫn
không sao quên được ý nghĩ rằng mình chưa yêu, rằng mình sẽ suốt đời
không biết
thế nào là tình yêu.
Cái
cớ để tôi gật đầu khi anh ngỏ lời thật đơn giản và thực
ra là vô cớ. Anh từ quân khu về, đến thăm tôi tất cả các buổi tối còn
được ở
nhà. Như thế, suốt mấy năm tôi học đại học. Tôi và một đứa bạn gái một
hôm hứng
chí ra ga tiễn anh. Buổi trưa. Nắng gắt. Ga Hàng Cỏ sặc sụa mùi nước
giải. Có
cảm giác cái mùi ấy bốc lên từ mọi ngóc ngách. Từ phòng bán vé. Từ
phòng chờ.
Từ đường ray. Từ các toa tàu. Tôi, con gái Hà Nội bốn đời, chưa bao giờ
phải đi
đâu xa một mình bằng tàu bằng xe. Chưa bao giờ ra ga. Buổi trưa đó tôi
sững sờ.
Anh khác hẳn những tối đến nhà tôi. Cái ba lô con cóc trĩu sau vai. Một
chiếc
khăn mặt buộc bên quai ba lô đã được dấp nước cẩn thận. Mồ hôi lan từ
sau lưng
ra, ướt sũng một khoảng vai áo phía trước. Chúng tôi nhìn nhau, lặng
ngắt. Tôi
có cảm giác bị một người vô hình lôi tuột khỏi thế giới của tôi. Cảm
giác ấy
tăng mãi khi một đám lính trẻ, có lẽ trẻ hơn tôi và anh ào tới:
-
Thủ trưởng, thủ trưởng mua dùm em một vé. Em nằm ở ga hai
ngày nay rồi. Quá phép mất rồi.
-
Nó quá phép từ ở nhà chứ không phải vì chậm vé đâu. Nó ở
nhà "cày" cho ông bà cụ đấy mà. Có em đây này. Em trả phép đúng hạn
mà bị tắc ở đây. Thủ trưởng hỗ trợ em một vé.
Mỗi
người một lời. Những lời giống nhau và khác giọng. Những
khuôn mặt giống nhau, phờ phạc. Những cái nhìn giống nhau, nhẫn nhục,
mà vẫn
tinh quái khi họ liếc qua tôi và đứa bạn. Những bộ quần áo vải thô lùng
thùng,
nhàu nát, xệch xạc. Ba lô con cóc lộn trái thành một cái túi xách lếch
thếch.
Nắng như đổ lửa. Gió ào qua từng cơn phả cái nóng sặc sụa mùi nước
giải...
Lần
anh về Hà Nội sau đó tôi nhận lời yêu anh, lấy anh. Chỉ
vài hôm sau ngày cưới tôi biết rằng tôi chưa yêu, rằng tôi sẽ không
yêu. Nhưng
tôi cũng biết tôi sẽ gắn bó với anh mãi mãi.
Thế
mà cái chết đã tới, rất chóng vánh tách chúng tôi ra.
Vậy là bao giờ chúng tôi cũng ở hai thế giới khác nhau.
Những
ngày anh nằm viện vì chứng bệnh lạ lùng, tôi hầu như
không ngủ. Trông anh ở viện. Đạp về trường. Đảo qua nhà nhìn con. Bầu
vú tôi
căng nhức. Nhưng tôi không thể về nhà theo cữ cho con bú. Thằng bé cai
sữa vào
độ ấy, lúc mới được chín tháng. Những ngày ấy tôi quên ý nghĩ vẫn luẩn
quẩn
trong đầu bấy lâu. Nhưng rồi nó trở lại một cách quái gở: đúng lúc tôi
đứng
trong nhà lạnh chuẩn bị liệm xác anh. Da anh lúc đó xám xanh, mắt nhắm,
không
còn ám ảnh tôi bằng cái nhìn trôi lạc, đau đáu của những ngày cuối
cùng. Có hai
người giữ hai cánh tay tôi. Vô ích. Tôi đứng, không gào thét, không
giãy dụa,
không than thở. Nước mắt ứa ra. Người bềnh bồng như đứng trên ban công
không có
chấn song chắn. Không hiểu sao lúc ấy tôi lại nghĩ về cái hiệu giặt là
tôi vừa
thấy trên con đường từ nhà tới viện. Mười mấy năm rồi Hà Nội không thấy
có một
cái hiệu như thế.
Tôi
cũng không gào thét, than thở vào buổi chiều đưa anh.
Nghĩa trang sau mấy ngày mưa, nắng chói chang trở lại. Mặt trời dường
như phình
ra qua sự khúc xạ của hơi nước. Không khí như bị nung đốt. Tôi đứng bên
mộ anh,
chợt run, nghiến răng lại mà vẫn run. Hai đứa em gái anh, đứa hơn đứa
kém tôi
một tuổi lăn lộn. Tôi nhìn ra xa. Phía đằng kia nghĩa trang cũng có một
đám ma.
Lèo tèo vài người. Bóng đàn bà mặc áo xô. Sau này nhớ lại, tôi ngạc
nhiên vì
không hiểu sao lúc đó tôi lại đoan chắc người chết là cán bộ thoát ly,
cỡ cán
sự ba bốn gì đó và vợ con mới ở quê ra. Mà lúc ấy là lúc đắp mộ anh.
Lúc ấy,
tôi không dám nhìn vẻ chăm chỉ hào hứng của mấy người phu mộ. Mắt tôi
chạm dáng
đứng đứa em gái. Mặt nó bơ phờ. Lúc còn ở nhà xác bệnh viện tôi thấy nó
mặt
nhòe nước mà vẫn không tháo kính đi rất nhanh ra sau bức tường ngăn khu
nhà xác
với khu điều trị. Bao giờ nó cũng có kiểu ấy. Bao giờ nó cũng tách ra
khỏi đám
đông.
Tôi
chỉ có nó làm chị em. Mẹ tôi mất khi chúng tôi còn rất
bé. Nó và tôi không hợp nhau. Nó tính rất lỳ. Như một thằng con trai,
dù cực ốm
yếu. Thế nhưng không hiểu vì sao hôm tôi cưới, lúc đưa dâu, tới nhà
anh, nó lại
khóc. Rất thảm. Mắt cứ nhìn trừng trừng, nước từ đó trào ra. Nó khóc
làm tôi
khóc. Có một bà đã gắt cả hai chị em tôi đừng làm điều gở. Phải đó là
điềm gở?
Vì chồng tôi đi chỉ sau đó có dăm năm.
Tôi
không biết có phải tôi lấy anh vì thương anh? Chắc không
phải. Có thể điều đó chỉ đơn giản là cảm giác mặc cảm ở tôi, một đứa
con gái
không sướng mà lại biết có người lận đận hơn mình. Nhưng khi anh mất
đi, lòng
thương anh gậm nhấm từng ngày của tôi. Đúng là vậy. Thương anh hơn tất
cả, hơn
thương đứa con mồ côi cha sớm đến thế, hơn thương thân. Những đứa em
anh lấy
chồng, anh trai anh lấy vợ, bố mẹ chồng tôi dần bớt vẻ rầu rĩ. Nhạt dần
những lời
nhắc anh, rồi những lời ấy chỉ trở lại vào ngày giỗ anh. Mà ngay cả
những ngày
giỗ cũng dần bớt vẻ thảm não. Em anh cùng chồng con trở về tíu tít cỗ
bàn.
Những câu chuyện râm ran xung quanh bọn trẻ con đang lẫm chẫm tập đi,
đang bi
bô tập nói. Tôi có cảm giác vẻ sầu muộn của mình như lạc điệu, như làm
phiền cả
gia đình. Tôi có cảm giác tôi và con tôi, và cả anh bị đẩy bật ra trong
ngày
đó.
Mà
không hẳn chỉ là những ngày đó. Cả trong ngày 27 - 7 (1).
Công đoàn nhà trường, phường phố, cán bộ phòng thương binh xã hội tới
thăm mẹ
con tôi. Trịnh trọng. Hoan hỷ. Ngồi tiếp mọi người mà đầu óc tôi lang
thang tận
đâu đâu. Có lần ý nghĩ tôi trở về nơi quàn xác anh. Nhà xác viện 108
trông
thẳng ra vườn hoa Pasteur và buổi chiều đưa anh là một buổi chiều rất
đẹp. Lúc
xe tang từ từ đi ra, tôi thấy gần cổng đám bệnh binh đã cùng nằm với
chồng tôi
trong một khoa. Những người lính rất trẻ, được đưa về từ mặt trận phía
bắc, có
chung một chứng bệnh như anh. Da họ mỗi ngày một trong đi, trong tái,
như bị
rút mất máu. Mà đúng là mất máu. Chỉ cần một vết xước nhỏ là máu rỉ ra
không
làm sao đông lại được. Xe tang đi qua họ và tôi nhớ lúc đó tôi đã nghĩ
rằng chỉ
có họ là thương anh, thương tôi, thương con tôi. Chỉ có họ. Dù rằng họ
không hề
đến bên tôi nói một lời chia buồn. Giữa họ và tôi có một mối cảm thông,
được
kết bởi cái chết vừa tới và cả bởi những cái chết chưa tới. Khi hồi
tưởng lại
điều đó bao giờ tôi cũng đau đớn. Nỗi đau người ta chỉ có khi chứng
nghiệm cái
chết và hoàn toàn bất lực. Như tôi trong những ngày cuối chăm chồng.
Mà
điều làm tôi thương anh nhất chính là vì tôi, vì tôi biết
rằng tôi không yêu anh khi anh còn sống. Sau cái chết còn có gì? Tôi
nghĩ người
chết chỉ khác người sống ở mỗi một điều là không thể nói. Người chết
bay lượn
quanh chúng ta, hiển hiện ở mọi nơi, mọi lúc, nhưng không sao hòa được
vào thế
giới của người sống, và chẳng ai biết thế. Người chết đơn giản là bị
quên.
Chồng tôi đã bị quên, khi anh chưa đầy ba mươi tuổi.
Tôi
bắt đầu mất ngủ từ khi anh qua đời. Những đêm, những đêm
đi qua tôi, dằng dặc, hỗn độn bao ý nghĩ. Vầng trăng cũng từng đêm đi
qua tôi.
Tròn. Khuyết. Vô hình. Mất ngủ mãi, tôi đâm mong những đêm bơm nước. Ba
ngày
một lần tầng năm của tôi có nước, vào khoảng giờ oái oăm: đêm, mười một
giờ.
Phải hứng nước đổ vào phuy, giặt chăn chiếu, quần áo... Cả tầng xôn xao
tới hai
ba giờ sáng. Khổ nỗi nếu tôi loay hoay chuyện nước non thì thằng con
tôi cũng
thức. Nó bước những bước ngắn chủn, thập thững quanh phòng trong cơn
buồn ngủ,
nhưng nhất định không chịu lên giường trước mẹ. Nó chỉ có tôi để mà gắn
bó và
tôi sợ rằng nó sẽ yếu mềm về sau.
Những
đêm khác, tôi nằm nghe thằng con thở. Thức qua đêm
nhiều hôm, tôi quen dần với tiếng chim lợn kêu cữ hai giờ sáng. Tiếng
chim quái
gở, eng éc giữa trời thành phố hồi đầu làm tôi thấp thỏm suốt cả ngày
hôm sau.
Người ta bảo chim lợn không mang điều lành. Điều dữ nhất đối với đời
đàn bà của
tôi đã xảy ra rồi. Tôi hết sợ. Chắc chim lợn cũng là loài chim mất ngủ.
Tôi
thường có cảm giác ấy vào những đêm mùa đông trăng suông và hoa sữa.
Ban ngày
nắng hanh, mùi hoa sữa về đêm nồng nàn đến khó thở. Bên kia đường, dưới
khung
cửa sổ phòng tôi là sông Kim Ngưu - cái cống lộ thiên của thành phố -
thường
bốc mùi vào những chiều hè oi ả trước khi dông đến. Mùa đông. Hoa sữa
thơm bứt
dứt. Dòng sông đen lặng lẽ chở trăng mờ. Tiếng chim lợn kêu đêm phập
phồng một
niềm tiên cảm. Có vẻ cũng lãng mạn. ý nghĩ ấy có lần đã làm tôi phì
cười.
Nhưng
thường thì tôi nín hơi rồi thở dài, thật dài. Không
bao giờ tôi khóc. Các nhà văn thường hay tưởng tượng cảnh một người đàn
bà cô
đơn khóc lặng lẽ một mình trong đêm. Không đúng. Người ta chỉ khóc khi
có người
biết mình khóc, khi hy vọng sẽ được dỗ dành. Còn tôi? Chồng chết rồi,
phận sự
của tôi là dỗ con chứ không phải để con dỗ. Tôi dỗ dành nó suốt bao năm
qua.
Khi nó còn bé, tôi phải dỗ nó rằng bố đi xa và không được gọi chú...,
bác... là
bố. Hồi sang cát cho chồng tôi, nó gần bốn tuổi, hý hửng suốt mấy ngày
rằng sắp
được đón bố về. Khi sắp xương vào tiểu sành và đưa tới nghĩa trang liệt
sỹ Hà
Nội dưới Ngọc Hồi nó vẫn còn hý hửng. Lúc chôn tiểu xuống, nó gào lên,
nhảy bổ
vào người phu mộ: "Mẹ mày! Giả bố tao đây!" Tôi không hiểu nó học ở
đâu và từ lúc nào câu chửi đó. Và cái lúc mọi người đứng khóc, bố mẹ
chồng tôi,
bố tôi, đại diện đơn vị cũ của chồng tôi... thì tôi phải cắn răng làm
mặt tỉnh,
rẽ rọt bảo con rằng bố sẽ về nhà, bố sẽ ở trên bàn thờ. Tám năm đã qua,
nhiều
lúc tôi thấy mình choáng váng vì cảm giác tiếng gào của nó buổi sáng
tinh sương
đó vẫn cứ chói lói trong đầu, và cả vì cái nhìn của đứa em gái tôi lúc
đó. Chỉ
riêng nó không khóc. Nó đứng nhìn hai mẹ con tôi dỗ nhau và tôi thấy
rất rõ
gọng kính của nó lóe sáng bởi một tia mặt trời.
Đứa
em gái lỳ lợm của tôi... Bao giờ tôi cũng có cảm giác
rằng mình không hiểu nó. Nó học giỏi. Thích thành nhà báo. Nhưng rút
cục thì nó
thành nhà giáo. Vì ốm yếu. Vì cảnh nhà. Vì đủ thứ buộc phải tính toán.
Nó đích
thực bị nghề chọn. ấy nhưng nó lại thành công trong nghề. Học trò nó
lớn hơn
học trò tôi, mê nó và sợ nó. Có lần nó than rằng nó rất dễ với học trò,
cũng
không già hơn học trò là bao, thế nhưng giữa nó với học trò vẫn không
có sự
chan hòa như giữa tôi và bọn trẻ của tôi. Tôi thì tôi biết. Cả trong
quan hệ đó
nó vẫn tách mình ra để nhìn. Nhưng chính vì thế mà học trò của nó mê
nó. Nó
giảng rất lạ. Theo tôi nó nên làm một nghề gì đó tự do. Lối lên lớp của
nó vào
độ mười năm trước và ở một trường huyện nào đó thì chắc ăn đủ. Sẽ không
ngóc
đầu lên được vì bị chỉ trích. Chẳng kiểm tra sĩ số, chẳng gọi học sinh
lên bảng
lấy điểm kiểm tra miệng, chẳng đọc cho học sinh chép, chẳng nêu câu hỏi
phát
vấn, cũng không tổng kết, củng cố và vân vân. Buông lửng như tiểu
thuyết Tàu
ngày xưa. Tôi có lần đến tìm nó ở trường. Đầu hè. Nắng ong ong làm buồn
ngủ. Nó
đang lên lớp. Tôi đứng ngoài nhìn. Những đứa con gái mười bảy mười tám
đờ ra
nghe nó, rồi đột ngột vớ bút ghi lia lịa như bị ma ám. Còn nó thì cũng
chẳng
khác gì bị ma ám, lang thang trong lớp. Có một lúc nó cầm mẩu phấn ném
đánh
toách lên bảng khiến lũ học trò giật mình, tôi cũng giật mình. Và tôi
lạ lùng
không thấy tiếng cười của bọn học trò.
Tôi
biết tôi không thể tìm đâu ra hứng để giảng bài như nó.
Thế nhưng theo tôi thì lối lên lớp của nó thiếu hẳn vẻ mô phạm cần có
trong
nghề. Điều ấy chẳng ích gì cho nó và cho cả lũ học trò của nó. Hình như
học trò
của nó nhiễm dáng dấp kỳ kỳ của nó, lối sống của nó. Hay bọn mê văn đã
sẵn tính
đó rồi? Bằng chứng là mười bảy mười tám đứa học trò nó mà tôi biết độ
ấy đều
lấy chồng muộn. Con gái hai sáu hai bảy rồi mà cứ sống tưng tửng. Những
cô gái
ấy hàng năm lại cùng người yêu rồng rắn đến nhà ngoại tôi vào 20 -11
(2). Tôi
có lúc đã băn khoăn không hiểu chúng nó có liều như cô chúng nó? Có
liều từ
chối vào Đảng? Có liều bỏ việc? Có liều bỏ tất cả ra đi? Em tôi viết
cho nhà
khá đều, giọng thường rất lãnh đạm. Châu Âu tuyết dày. Châu Âu - 10 độ.
Châu Âu
làng nào thành phố nào cũng có nhà thờ. Và công việc của nó. Bán
Imbiss. Đi
putzen (3). Có một lần nó ra khỏi sự lãnh đạm, hài hước: "Toalet nhà
người
tìm đến cọ - Lâu rồi cưỡi chổi nổi chai tay." Từ ngày nó đi, những đêm
mất
ngủ, ý nghĩ của tôi lại thêm một lần hỗn độn.
Tôi
biết sau tôi nó là người thương người chồng đã khuất của
tôi nhất. Dù rằng lúc anh còn sống nó vẫn thẳng thừng tuyên bố rằng
không sao
hợp được với những người thích nghi được với đời sống quân ngũ. ấy là
lúc anh
định làm mối cho nó một cậu chàng bác sỹ quân y hết sức điển trai. Đến
lúc nó
yêu thì kỳ quặc, đúng là kiểu ma đưa lối qủy dẫn đường. Lấy tiêu chuẩn
thời
chiến để xét thì không thể hiểu nổi. Lấy tiêu chuẩn thời bình thì cũng
thế. Nó
cứ lừng lững yêu. Cả nhà chẳng ai dám hỏi một câu có ẩn ý nào trước khi
nó thừa
nhận rằng cái thằng vẫn đi thư viện cùng nó, vẫn hay mang cho nó đủ thứ
hoa
dại, cả hoa rau cải cúc, là người nó yêu. Cả nhà lặng phắc nhìn bố tôi
khi nó
thông báo hết sức lạnh lẽo việc bố mẹ người yêu nó muốn đến thưa
chuyện. Cuộc
sống của nó toàn thua thiệt, cũng y như tôi. Nhưng đấy là tự nó.
Tôi
không hiểu sao tính khí nó vậy mà chồng tôi lúc còn sống
lại thích. Những lúc chị em lục đục, bao giờ anh cũng bênh nó. Có lần
tôi cáu:
"Sao anh cứ bênh nó chằm chặp thế?" Anh cười: "Không bênh em gái
người yêu thì lấy ai ủng hộ mình làm một trận tổng tấn công!" Lúc anh
mất,
nó không gào thét như mấy cô em chồng tôi, cứ mím môi lặng lẽ, khóc.
Còn lúc ở
nghĩa trang mặt nó khô khốc, cái kính bắt nắng lóe sáng. Tôi biết là nó
thương
anh xót xa. Đã có lần nó bảo bạn nó - một cô bé tính hay nhõng nhẽo và
đáng
yêu: "Khổ à? Không thiết sống thì thử chết một cái xem nào!" Sau đó
lại vỗ về: "Khổ nhất là phải chết. Còn sống là còn sướng. Bây giờ buồn
khổ
thì cứ khóc. Tao nghe." Nói giọng ấy mà cô bé kia nín được mới kỳ.
Khi
thằng con tôi tròn bảy tuổi, một chiều muộn nó lên nhà
tôi, bảo mệt bỏ buổi dạy thêm, dẫn hai mẹ con tôi đi ăn phở trừ bữa.
Lúc về,
thằng con tôi xin sang hàng xóm xem tivi, nó bảo tôi: "Cu Chũn lớn rồi.
Ngoan thì có. Nhưng hơi mềm tính. Lớn lên con trai con đứa thế là khổ.
Với lại
một mẹ một con, dồn hết cho con, đến lúc nó lớn, nó sống đời nó, thế
nào mình
cũng hẫng. Lúc ấy có muốn sống cho mình thì cũng muộn. Rồi thế nào cũng
xoay ra
đay đả con rằng nó ích kỷ. Chẳng ích gì. Lấy chồng bây giờ là vừa."
Rồi
nó lại nói:
-
Lấy chồng lần này là để tìm bố cho con. Đừng có ngõi mấy
gã trai tân. Trai tân bằng lứa thì trăm ông có chín chín ông ngẫn ngẫn.
Tìm ai
đồng cảnh...
Tôi
không biết phải trả lời nó thế nào. Im lặng. Căn phòng
cuối chiều rực màu nắng quái kỳ dị, rồi chìm rất nhanh vào bóng tối. Em
gái tôi
đứng dậy, thắp một nén hương trên bàn thờ chồng tôi, lặng lẽ bước ra
ngoài.
Tiếng chân nó xuống cầu thang, bặt hẳn, sau đó là tiếng rồ xe máy. Nó
đi. Tôi
ngồi nguyên thế cho tới lúc bầu trời sáng dần một màu trắng sữa. Trăng.
Non
tái. Dịu dàng. Xa cách. Chấp chới hiện trên bầu trời, giống như một nét
mày con
gái có thể ngạc nhiên trước biết bao điều. Tôi xòe tay, nhìn, những
ngón nhợt
nhạt. Mơ hồ nào run mãi. Mà cũng có thể là ánh trăng. Hương trên bàn
thờ đã
tàn. Phảng phất mùi hoa sen tôi mua lúc chiều. Mùi hương, mùi hoa. Tôi
rùng
mình. Mùi chùa. Hôm đưa chồng tôi lên chùa. Gần bảy năm đã qua từ hôm
ấy.
Em
gái tôi đi sau đó. Chồng nó đi công tác. Trong nhà nó
bảo: "May. Đi được lần này chắc rửa được lý lịch cho con." Ra ngoài
nó cười: "Ông ấy đi vùng kinh tế mới. Thế nào, không phải à, không phải
nước Đức bây giờ là vùng kinh tế mới của dân mình à?"
Rồi
nó bán nhà mang con theo chồng. Cả nhà không dám gàn. Nó
bảo: "Đời phải có lúc liều. Bố nó đã liều đi không về. May ra tính đúng
thì thằng bé không phải mất công học những điều sớm muộn gì rồi cũng
phải
quên."
Nó
đi sau khi tôi tái giá ít ngày. Không biết nó làm công
tác tư tưởng thế nào mà cu Chũn của tôi người lớn hẳn. Nó gọi người
chồng thứ
hai của tôi là ba, dù rằng anh không phải người Nam. Mấy cô dạy cùng
trường tôi
tò mò, nó bảo: "Tại cháu có bố rồi. Mới lại ba cũng là bố." Hai cha
con hòa hợp với nhau. Anh thương nó. Anh thương người đã khuất, người
đồng đội
mà anh chỉ tường mặt qua tấm ảnh trên bàn thờ. Tôi biết rằng tôi không
thể mong
đợi gì hơn khi đi bước nữa. Thế nhưng tôi vẫn mất ngủ. Đêm đêm tôi nằm
nghe
tiếng thở của chồng, của con, dội lên, chìm đi, bao giờ cũng lệch nhịp.
Đêm đêm
tôi nhìn ánh sáng bên ngoài cửa sổ để đoán độ tròn trăng và khoảng mênh
mông
nào trăng đi qua. Đêm đêm vầng trăng đi qua tôi. Đêm của tôi vẫn không
đổi, vẫn
như đêm của những ngày góa bụa. Hỗn độn bao ý nghĩ. Tôi biết mình may
mắn khi
tìm được người đàn ông hiền hậu biết thương con mình. Tôi nhớ lời em
gái tôi.
Nó bảo: "Tìm bố cho con." Vậy là ngay cả cuộc hôn nhân này của tôi
cũng không bắt đầu từ tình yêu. Không, có bắt đầu từ tình yêu, nhưng đó
là một
tình yêu rất khác, không phải là tình yêu đàn bà.
Tôi
nhớ em tôi. Nó đang ở rất xa. Khi vầng trăng đang rơi
dần đâu đó phía chân trời thì nơi nó còn là buổi chiều. Nó đang làm gì?
Bán đồ
ăn ở một góc phố lạnh nào? Lau toalet, nhà tắm? Nó nghĩ gì? Tốt nhất là
đừng
nghĩ gì. Nó khác tôi. Nó có một tình yêu riêng để mà cố. Nhưng dù có dù
không,
nó cũng đâu sung sướng gì hơn tôi. Nó gửi tiền cho cả nhà. Nhận tiền nó
gửi về,
tôi thấy chua xót. Tôi hình dung cái dáng gầy ốm của nó nhoài bên một
cái bồn
tắm nào đó ở cái xứ xa xôi mà nó đã mang con tìm tới theo chồng. Chưa
bao giờ
nó than khổ với ai. Cứ lặng lẽ, lì lợm sống, sống cho cả người đang
sống lẫn
người đã chết.
Và
tôi, cũng chưa bao giờ tôi nói với nó, với ai rằng tôi
mất ngủ. Tôi có đi khám. Chẳng ích gì. Bác sĩ bảo tôi bị suy nhược. Mất
ngủ nên
suy nhược hay suy nhược nên mất ngủ? Không biết. Vẫn là những đêm như
thế, vẫn
vầng trăng khi tỏ khi mờ khi tròn khi khuyết, vẫn tiếng kêu éc éc kì
quái của
con chim lợn mà tôi không biết hình thù, vẫn mùi thum thủm xông lên từ
con sông
đen bên kia đường những đêm trở trời, vẫn mùi nắng hanh trong nồng nàn
hoa sữa,
nồng nàn như đàn bà... Tôi sống với con tôi, với chồng tôi, nhưng những
đêm này
của tôi hình như không chấm dứt. Phía trước tôi có bao nhiêu đêm nữa
đang chờ?
13
- 3 - 1997
Chú
thích:
1:
Ngày thương binh liệt sỹ.
2:
Ngày nhà giáo Việt Nam.
3: Quét dọn (tiếng Đức)