Thiên sứ của Phạm Thị Hoài
Tên nhân vật chính của tác phẩm (và
cũng trùng với bút danh
của tác giả) là Hoài. Chẳng biết tại sao chị lại đặt cho nhân vật của
mình cái
tên ấy: nỗi nhớ. Có điều, tác phẩm của chị cũng giống hệt như một nỗi
nhớ, một
hoài niệm kín đáo nào đó, một dòng suy tưởng lặng lẽ, lan chảy. Và cô
bé Hoài
nắm tay dắt ta vào một thế giới hoàn toàn khác lạ với thế giới của
chúng ta,
thế giới của riêng một “nỗi nhớ” với “bốn trăm ô vuông nâu và một khuôn
chữ
nhật biến ảo, xoay như xoay rubich”, trong một hệ thống khổng lồ như
những tấm
gương lồi lõm, những đa giác, lục giác, bát giác gương quay tròn xung
quanh một
tâm điểm: con người. Con người với những biến dạng phức tạp của nó, một
con
người lập thể chứ không hẳn là một con người bằng xương bằng thịt, càng
không
phải là một Con Người viết hoa.
Sau những năm dài của
một nền văn học mà người ta đang “sám
hối” - nói như Nguyễn Minh Châu - Thiên sứ xuất hiện như một điều ngẫu
nhiên.
Vì độc giả Việt Nam, hay nói cho chính xác hơn, thị hiếu văn chương
Việt Nam
chưa chuẩn bị để đón nhận một tác phẩm văn chương loại này của một nhà
văn Việt
Nam. Chỉ vài năm nay thôi, Dạ Ngân, Nguyễn Thị ấm, Nguyễn Thị Thu Huệ
mới đăng
quang bằng những tác phẩm mang hơi hướng tình dục, chứ vào thời điểm mà
nó ra
đời (cách đây đã năm sáu năm), Thiên sứ chỉ gặp phải sự lạnh lùng của
giới phê
bình Việt Nam. Người ta nhắc khẽ đến nó trong những cuộc nói chuyện
không chính
thức của giới văn nghệ, tác phẩm được biết tới trong một nhóm rất nhỏ
những
người yêu văn học, vậy thôi. Một số nhà phê bình nhanh nhảu đã kịp viết
bài chỉ
trích, tiếc thương cho một tài năng trẻ sớm sa vào cạm bẫy của “chủ
nghĩa hiện
sinh”, “chủ nghĩa siêu thực” và vô số những “ismes” gì đó mà những đầu
óc
“thông kim bác cổ” đó vốn rất sẵn. Nhưng thời đại đã khác rồi, và một
trận đòn
hội chợ đã không kịp xảy ra. Bị thích trên mình dấu hoa huệ của một tác
phẩm
“có vấn đề”, Thiên sứ chìm vào trong một sự im lặng đầy ác ý, và ngay
cả các
giải thưởng quốc tế mà nó giành được gần đây cũng không đủ sức xóa tan
bức màn
im lặng đó.
Thực ra trong bất kỳ
một sự chỉ trích nào cũng hàm chứa một
phần sự thật nào đó. Đằng sau lời nhận xét dè dặt “thiếu dung dị” là sự
bối rối
của các nhà phê bình trước một tác phẩm không hề đơn giản. Vốn quen với
những
chủ đề dễ hiểu của “chiến tranh và xây dựng”, với những “hoàn cảnh điển
hình và
nhân vật điển hình”, với nhứng bức tranh chỉ có đen và trắng, phải và
trái,
không có chỗ cho những bóng nhoè đen trắng, không có chỗ cho những tình
cảm
phức tạp khó hiểu, họ lúng túng và ngượng ngùng khi phải đối mặt với sự
sâu
thẳm của thế giới nội tâm, của tiềm thức hay những xung đột kỳ quặc của
một thế
giới hiện đại ngày càng buồn chán hơn với một con người ngày càng cô
độc hơn.
Và cái thế giới của một cô bé vĩnh viễn mười bốn tuổi, ấp ủ trong lòng
mình ký
ức về một vừng mặt trời đỏ ối và một vùng hồ mênh mang, bó chặt trong
một khung
cửa sổ với những ẩn ức khó hiểu của riêng nó lại càng xa lạ đối với họ.
Cái lạ của Thiên sứ
lại vốn dĩ... không hề lạ. Đúng là lạc
vào thế giới của Thiên sứ, chúng ta như lạc vào mê cung của nhà vua
Medat, nếu
thiếu sợi chỉ màu của nàng Mede sẽ thật khó tìm thấy đường ra. Và nếu
cứ chia
nhân vật ra tuyến nọ tuyến kia trong hành trình khô cứng của cái bắt
đầu và cái
kết thúc, của thắt nút và cởi nút, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ rối bời
trong một
đống mâu thuẫn khổng lồ. Có nhà văn đã nói “trên đời có những cái rất
thật mà
lại không phải là sự thật!”. Đúng vậy, cũng như có những cái tưởng là
không
thật mà lại chính là sự thật. Bởi bản thân tác phẩm đã là một “rừng
biểu tượng”
- nói như Beaudelaire (Correspondences - Tương hợp) - Chúng ta phải
biết cách
thâm nhập vào cánh rừng ấy. Hãy đọc Thiên sứ theo cách khác, cái cách
mà Hoài
Thanh đã khuyên khi ông nhận xét về tuồng. Hãy hiểu tính ước lệ của nó,
hãy
loại bỏ, thanh lọc mình khỏi những thiên kiến chủ quan về phải và trái,
về cái
có thật và cái trừu tượng, nhập thân vào thế giới của các nhân vật, các
huyền
thoại, các biểu tượng, mở lòng ra và “văn sẽ tràn vào trong ta trong
một giây”
(Tsekhov).
Bởi lẽ cái quyến rũ
nhất của Thiên sứ là chất ảo của hiện
thực. Không phải ngẫu nhiên câu chuyện lại được xây dựng trên hồi ức
của một cô
bé, trên dòng suy tưởng chậm chạp và lắng đọng của một tâm hồn bất biến
trước
những biến động của xã hội và thời gian. Tâm điểm ở những tấm gương dồn
tụ ở
Hoài, “ốc nhỏ bám riết bậu cửa sổ”, vĩnh viễn “mười bốn tuổi”. Em là
con mắt
bão, và thế giới trong Thiên sứ là thế giới của riêng em, được nhìn
bằng con
mắt của em, thế giới trong trắng của trẻ thơ, thế giới của những ước mơ
mộng
tưởng kỳ ảo. Chính đây là tấm lăng kính tạo cho Thiên sứ vẻ hư ảo quyến
rũ ngần
ấy.
Không chỉ có Phạm Thị
Hoài đặt niềm tin của mình vào tuổi
thơ. Có người đã than thở: “Tôi thường thích nói chuyện với trẻ con, ít
ra thì
còn có hy vọng là chúng sẽ trở thành những tạo vật có trí tuệ, còn
những kẻ
ngay tự bây giờ đã coi mình là thế thì... than ôi!”. Phải, chỉ có trực
giác
tuyệt vời của trẻ nhỏ mới có thể đưa ra cái logic cực kỳ đơn giản rằng
loài
người chỉ có hai loại “homo A và homo Z”, “người có khả năng âu yếm dịu
dàng và
kẻ không có khả năng ấy”. Hoàn toàn chỉ tuân theo một quy luật, quy
luật của
trái tim, mười lăm năm ròng, cô bé Hoài làm cái việc phân chia ấy một
cách
“nhẫn nại, không tò mò, không giàu óc tưởng tượng”, dường như đó là
“công việc
có ý nghĩa duy nhất trong cuộc đời cô”. Tâm hồn trong trẻo của cô bé
Hoài như
một tấm lưới lọc khổng lồ, tách nhân loại ra làm hai hạng: có xúc cảm
và vô
cảm. Thật đơn giản làm sao! Nhưng như lời chú mèo của H. Andecxen đã
nói trong
Nữ thần băng giá: trực giác tuyệt vời ấy, khả năng kỳ diệu ấy là món
quà Thượng
đế giành riêng cho trẻ nhỏ. Khi lớn lên con người ta quên đi, đánh mất
dần khả
năng ấy, và đến một lúc, không còn tin rằng có thời họ đã suy nghĩ và
hành động
như vậy. Người lớn với cả một hệ thống logic rắc rối đầy ắp những cái
có thể và
cái không thể, nên và không nên, có lợi và không có lợi làm sao có thể
chấp
nhận cái triết lý rạch ròi về homo A và homo Z, cũng như họ đã không
thể hiểu
được hình vẽ con trăn tiêu hóa con voi của Saint - Exupery (Le Petit
Prince).
Khả năng cảm đã phải nhường chỗ cho khả năng hiểu. Phải chăng vì thế mà
cô bé
Hoài đã chui vào vỏ ốc của mình “Ba mươi kilogam, một mét hai mươi
nhăm, đuôi
sam”? Em từ chối quyền lớn lên, từ chối nhập vào vòng chuyển động
Brown, “khước
từ các loại bậc thang” để giữ lại cho mình cái quý giá nhất của con
người, khả
năng có xúc cảm. Bởi vì - lại quay lại với Saint - Exupery - chú cáo
trong
Hoàng tử nhỏ nói: “Người ta chỉ thấy thật rõ bằng trái tim mình, cái
chủ yếu
thì mắt chẳng thể thấy”.
Nhưng cái lứa tuổi
mười bốn vĩnh hằng của Hoài chỉ là vỏ ốc,
lớp vỏ vật chất bảo vệ cho một cái gì đó sâu thẳm hơn, dữ dội hơn. Dưới
đó là
tầng sâu của những rung động thầm kín, của những khao khát không được
thỏa mãn,
những đòi hỏi bị ghìm nén trong tâm hồn một phụ nữ hai mươi chín tuổi.
Một
người đàn bà khao khát yêu thương và được yêu thương, khao khát cho và
nhận bị
ép chặt trong hình hài một cô bé mười bốn tuổi. Một khuôn mặt trẻ con
che chở
cho một tâm hồn mang “cơn sốt núi lửa”, suốt mười lăm năm ròng làm “một
nhân
chứng câm lặng, thông tỏ quyết liệt, không bao giờ quay lưng lại cuộc
đời”. Bên
trong lớp vỏ “Hoài” là rất nhiều cuộc sống khác nhau. Em mang trọn gánh
nặng
của một “nỗi buồn kinh niên”, nỗi đau của “một con búp bê bé nhỏ, câm
lặng”,
biết trước tất cả, đoán trước được tất cả mà lại không thể thay đổi
được điều
gì, em - “đứa con út già trước tuổi gánh chịu tất cả những gì bố mẹ và
anh chị
nó chưa kịp hiểu”
Không hiểu sao, khi
đọc Thiên sứ, tôi cứ hay nghĩ đến Cậu bé
mơ mộng của Paven Virginov, Jane trong Chân dung nàng của Nathan, Hoàng
tử nhỏ
của Saint - Exupery. ở tất cả những nhân vật ấy có một điểm chung. Các
em dường
như không thuộc về thế giới của chúng ta mà thuộc về một thế giới khác
bí hiểm
hơn, “một thế giới chưa kịp đến”. Bởi vì thế giới trong Thiên sứ là một
đa thế
giới. Như một hình cầu được tạo bởi vô số những đường tròn đồng tâm,
thế giới
ảo và thế giới thực, không gian được trải dài ra và không gian bị dồn
nén, thời
gian một chiều và thời gian nhiều chiều, tất cả đan xen vào nhau tạo
thành một
sự tương hợp tuyệt vời. Hoài thu mình lại tới mức tối thiểu, thành “ốc
nhỏ bám
riết bậu của sổ” để có thể thoát ra khỏi thế giới này, nhập thân vào
thế giới
nội tâm của riêng mình. Lạc lõng giữa thế giới thực, thế giớí các đồ
vật, cô bé
Hoài im lặng chịu đựng nỗi đau của căn bệnh tổ tông với lời nguyền khắc
nghiệt:
đau nỗi đau của toàn nhân loại, không có được cả niềm an ủi của một
“hành trình
khép kín” như bé Hon. Em không thuộc vào bất cứ một thế giới nào trong
Thiên
sứ. Hoài, với “một mét hai mươi nhăm, ba mươi kilogam, đuôi sam” chỉ là
lớp vật
chất thô kệch giúp cái tôi của em xuyên qua ranh giới của thế giới ảo
và vào
thế giới của chúng ta, tại những điểm cắt bất đắc dĩ của hai thế giới.
Cái tôi
mới chính là chất trừu tượng của nhân vật Hoài, là phần nhân bản, là
bản năng
nguyên thuỷ của con người, tất cả hòa lẫn trong nhau thành một khối phi
vật
chất thấm đẫm xúc cảm.
Thiên sứ trước hết là
câu chuyện về cuộc phản kháng đầy phẫn
nộ, cuộc chiến tranh âm thầm mà khốc liêt, day dứt và tuyệt vọng trong
nỗi cô
đơn của phần nhân bản đó, chống lại một xã hội tẻ nhạt, xơ cứng, chống
lại quá
trình xâm thực từ từ bào mòn các xúc cảm của con người để bảo vệ những
gì quý
báu nhất của nhân loại: tính người, niềm tin ngây thơ vĩnh hằng và bản
chất
thánh thiện của con người. Phản kháng trước tiên bằng thái độ khước từ.
Cô bé
Hoài kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi từ chối đứng chung vào bất kỳ thế hệ nào.
Tôi từ
chối bất kỳ bộ đồng phục quá chật hoặc quá rộng nào”. Đối với Hoài,
những giá
trị tinh thần may sẵn ấy là nguồn gốc nỗi bất hạnh của cả vài thế hệ,
với vô
vàn những Paven Kocshaghin, Ruồi Trâu F1, F2, F3 đi đứng nói năng,
sống, tư duy
và yêu đúng theo khuôn mẫu. Cô đã chọn một tác phẩm - mà cô cũng phải
thừa nhận
là chỉ đáng giá ba xu - làm chiếc chìa khóa đưa mình tới văn học. Âu
cũng là
một cách phản ứng! Cái quan trọng không phải cuốn sách đã đem lại gì
cho Hoài,
cái quan trọng là nó đã đánh thức trong cô tình cảm nguyên thủy, bản
năng, khẽ
hé mở trước mắt cô cánh cửa bí mật mà - một cách vô thức - tất cả mọi
đứa trẻ
đều ao ước được ghé đầu vào xem. Cô tự chọn lấy cho mình một thang giá
trị
riêng, một thang giá trị chỉ có ý nghĩa với riêng cô. Văn học ý thức đã
phải
nhường chỗ cho văn học tiềm thức!
Thực ra bản thân nhân
vật Paven Korshaghin hay Ruồi trâu đều
không có gì xấu, ngược lại là khác. Điều bi thảm là ở chỗ, đám đông đã
chọn nó
làm thần tượng cho mình. Và khi đó, anh ta chỉ còn có cái tên. Đám đông
chọn
thần tượng của nó không dựa theo uy tín, tự bản thân, nó nghi ngờ ý
kiến của các
chuyên gia, của nghệ thuật chính thống. Không phải tư tưởng đã nắm được
đám
đông, mà thực ra , đám đông nắm lấy tư tưởng để sáng tạo ra một bộ đồng
phục
tinh thần hào nhoáng cho mình.
Độc giả trẻ của ngày
hôm nay hẳn khó có thể cảm nhận tính
xác thực trong những trang viết của Phạm Thị Hoài về cuộc sống đô thị
những năm
cuối bảy mươi đầu tám mươi. Không thể trách ngòi bút trào phúng đến cay
độc,
mai mỉa chua chát của Phạm Thị Hoài khi viết về cuộc sống tẻ nhạt, trì
trệ, bức
bối của Hà Nội thời kỳ đó. Còn gì kinh khủng hơn cái cảnh “hàng trăm
tín đồ
cuồng nhiệt xếp hàng trẩy hội tới chiếc vòi nước duy nhất” hay khi hiện
tượng
số đề trở thành “một trong ba thông tin xã hội hấp dẫn và phổ biến
nhất”. Xã
hội sẽ đi về đâu nếu như trong hành trang tinh thần của lớp trẻ là
những lời
giảng kỳ dị “Bơ là loại thịt, người ta đóng trong ống bơ” hay “những số
báo
Thiếu niên Tiền phong hai màu loè loẹt và ngớ ngẩn, một vài đầu truyện
Kim đồng
do người lớn hạ cố viết cho lũ trẻ, của bố thí hèn hạ”. Con người như
người anh
thứ hai của cô bé Hoài quên dần đi những đam mê (dẫu cho đó là những
đam mê
nhục cảm), đánh mất dần xúc cảm, trở thành các công chức ngoan ngoãn,
“sớm xách
cặp lồng đi, tối xách cặp lồng về” những chiếc đinh ốc của một bộ máy
già cỗi,
hoen gỉ. Đó chính là điều đáng sợ nhất. Nỗi ám ảnh khôn nguôi của cô bé
Hoài là
giấc mơ về những kẻ không có mặt, chính xác hơn là những kẻ bị “chiếc
giẻ lau
cuộc sống... tước bỏ toàn bộ những gì làm nên bộ mặt đặc trưng của một
con
người”. Kinh sợ trước viễn cảnh của một xã hội bị thoái hoá hoàn toàn
về tư
tưởng, nhà văn thảng thốt tự hỏi, sẽ ra sao nếu như tất cả mọi người
đều bị dìm
trong “khoảng chân không khổng lồ, hòa tan giải thể” đó?
Xã hội được tái hiện
trong Thiên sứ là lời cảnh báo về một
xã hội bị đồ vật hóa chỉ còn sống bằng nhịp diệu của trái tim sinh học,
chiếc
bơm nhỏ đáng thương. Không còn đấu tranh tư tưởng để được thừa nhận, hy
sinh cả
cuộc sống vì một lý tưởng trừu tượng nào đó. Đấu tranh tư tưởng đòi hỏi
phải có
óc tưởng tượng và tư duy sắc bén. Thay vào đó chỉ còn nhà cửa, ăn uống,
quần áo
và cuối cùng, đơn vị chuẩn để đo tất cả những thứ đó - Tiền là làm cho
những
con người - nửa máy phải suy nghĩ. Trong Thiên sứ con người chưa bao
giờ là
homo spacien và sẽ không bao giờ trở thành homo spacien bởi nó chỉ suy
nghĩ về
thế giới bên ngoài mà không tìm về thế giới bên trong, không chịu suy
nghĩ về
mình, về con người. Họ chỉ sống một cuộc sống hời hợt trên bề mặt, một
cuộc
sống chuyển động hết sức nhanh theo thời gian, bởi vì họ đã quên rằng
thời gian
còn có cả chiều sâu.
Giữa hình ảnh có thực
về một thế giới hỗn tạp, lộn xộn, đau
khổ là giấc mơ tuyệt diệu về Thiên sứ - cô bé Hon mang “nụ cười mê hồn”
và “đôi
môi thơm mùi sữa”. Hàng ngàn năm mới có một lần thiên sứ ghé thăm trái
đất.
Thiên sứ “tỏa ánh sáng trong và hiền lành” hào hiệp ban phát môi hôn và
tình
yêu cho tất cả. Bé Hon muốn chiến thắng cái ác bằng “nụ cười và môi
hôn” muốn
cứu rỗi nhân loại bằng vẻ đẹp kì ảo và thánh thiện của mình, thức dậy
trong mỗi
một con người tình yêu cái đẹp, nỗi khát khao quay trở lại với cái đẹp
trắng
trong nhân bản.
Thực ra triết lý của
Phạm Thị Hoài không có gì mới mẻ, vẫn
là tư tưởng cái đẹp sẽ cứu thế giới của Shopenhauer và Dostoyevsky, có
điều ở
đây, cái đẹp đã không có đủ sức mạnh cần thiết. Con người quay lưng
lại... và
“Sứ giả pha lê” lặng lẽ bay đi, giã biệt trái đất trong nỗi xót xa đối
với toàn
nhân loại. Con người đã đánh mất cái đẹp, đánh mất cả một thế giới -
thế giới
tâm hồn.
Cặp chị em Hằng -
Hoài chính là hai mặt của cái đẹp, cái đẹp
phô diễn được và tiềm ẩn ở bên trong. Chị Hằng là lớp vỏ, cô bé Hoài là
bề sâu.
Điều bất hạnh là cả hai không nhập vào làm một mà lại tách làm hai nửa
sống với
thế giới của riêng mình, chịu những bi kịch riêng. Hằng là cái đẹp đã
bị giành
giật, xô đẩy tha hoá, đã được rao bán và đã bị mua, do đó dù có “nổi
loạn” tới
mức nào cuối cùng cô vẫn quay về với “chiếc lồng bằng vàng”. Không phải
ngẫu
nhiên mà Hằng và nhà thơ Ph. đã đến với nhau trong một mối tình “ngàn
năm có
một”. Nhà thơ Ph. chính là người ca ngợi cho cái đẹp lý tưởng, siêu
thực. Anh
làm thơ chỉ vì anh không thể không làm thơ, anh “không làm thơ cho
vui”. Anh
cũng thuộc về một thế giới riêng, sống với thế giới riêng của mình. Và
khi chị
Hằng bị cái thế giới đồ vật chiếm hữu, anh lặng lẽ biến mất. Không phải
“vấp
đời thường nhật, tan vỡ chiếc thuyền tình” mà vì họ đã thuộc về hai thế
giới
hoàn toàn khác, hai thế giới không còn điểm chung.
Trong tác phẩm của
mình, Phạm Thị Hoài kiêng nhất hai chữ
lãng mạn, nhân vật Hoài của chị ngay từ trang đầu đã tuyên bố dứt
khoát: “Tôi
dị ứng kịch liệt trước các kiểu lãng mạn”. Chị sợ cái từ này đến nỗi
mỗi khi có
bất cứ một hình ảnh nào dễ đưa người đọc đến với những liên tưởng hơi
thơ một
chút là chị phải choang thêm ngay ra những lời giải thích hoặc những
hình ảnh
kế tiếp - ít ra thì cũng không được lãng mạn cho lắm. Cửa sổ nhà cô bé
Hoài
“không mở vào hoa” mà mở vào “một nhà máy rượu bia”, anh thanh niên
“homo A một
trăm phần trăm” cầm trong tay không phải chiếc vĩ cầm mà là một chiếc
bơm xe
đạp... và còn nhiều điều nữa. Ngay cả sự ra đời của “Thiên sứ” cũng
diễn ra như
trong một phản cổ tích, khi các yếu tố của huyền thoại và hiện thực
trần trụi
chen vai thích cánh cạnh nhau, xuyên tạc lẫn ý nghĩa của nhau. Cái cách
gắn cái
“grotesco” (thô kệch) vào bên cạnh cái thơ đã trở thành phản xạ của
ngòi bút
Phạm Thị Hoài. Cái chính là chị sợ... sợ sự thoái hóa của cái nghĩa mà
từ lãng
mạn đang được xã hội tiếp nhận, sợ “mớ sương mù tình cảm mà thiên hạ ra
sức
tung vào mắt nhau” để “che lấp tất cả, xóa nhòa tất cả”. Cô bé Hoài
không muốn
“cùng chung hành trình” với thứ tình cảm bi ai rẻ tiền ngụy tạo, những
mối tình
hàng xén thấm đẫm son môi và nước mắt ấy. Không, chữ “lãng mạn” phải
được hiểu
một cách khác, sâu thẳm hơn rất nhiều. “Chủ nghĩa lãng mạn trong cái ý
nghĩ
chặt chẽ nhất và chính yếu nhất của nó không gì khác hơn là thế giới
bên trong
của con người, sự sống bí mật của con người” (Bielinsky). Chính vì vậy
mà chị
Hằng của cô bé Hoài đã thốt lên: “Em hoài nghi tình cảm, chỉ bởi em quá
nhạy
cảm. Em khước từ chủ nghĩa lãng mạn, chỉ bởi em là kẻ lãng mạn nhất
trong số
những kẻ lãng mạn”. Không chấp nhận thứ chủ nghĩa lãng mạn dung tục,
chủ nghĩa
lãng mạn theo thời trang ấy, cô bé Hoài luôn luôn giữ cho mình một thế
giới bên
trong, được nuôi dưỡng bằng những nỗi đau âm thầm và những linh cảm
huyền diệu.
Chính chất lãng mạn bản năng đó đã giúp cô gìn giữ niềm tin vào nhân
loại, bản
chất tốt đẹp của con người.
Hai mươi chín năm là
cả một quãng thời gian dài và mặc dù
Hoài “chưa bao giờ thôi phẫn nộ trước những ung nhọt mỹ miều mà con
người phô
ra cùng đồng loại”, không khỏi có những lúc cô mệt mỏi, ngã lòng: “Sự
phản
kháng của tôi sẽ đi đến đâu?”. Lại vẫn là câu hỏi “Quo vadis” của thánh
tông đồ
Piere và ngay chính đức Chúa có lẽ cũng không trả lời Hoài được. Cô đã
bị thần
số mệnh bắt phải vác cây thập tự trên vai tới trọn đời. Chính sự mù lòa
của xã
hôị, của con người, trước hiểm hoạ khủng khiếp của một xã hội trì trệ
đã làm
cho cô tuyệt vọng, oán hận. Nhưng dù sao, cô vẫn còn giữ gìn lòng tin
của mình
như người ta đã từng giữ gìn ngọn lửa những ngày đông. Hoài cũng đã
viết ba
trăm lần cái tên Ph. vào những tấm phiếu cầu hôn cho chị Hằng như một
cố gắng
tuyệt vọng để bảo vệ cho cái chân lý: “Người ta sinh ra để thuộc về
nhau”, níu
kéo lại cái đẹp. Ngọn lửa chỉ thiêu được cái vỏ còn niềm tin thì vẫn
còn đấy.
Cô bé Hoài vẫn giữ cho mình nắm tro từ “ba trăm lần Ph.” như giữ mãi
niềm tin
vào sự vĩnh hằng của cái đẹp trước sự tấn công của đồng tiền và cái tầm
thường
của cuộc sống.
Đọc Thiên sứ thật
thích! Giống hệt như khi ta đang khát khô
cổ mà lại tìm đến được với một dòng sông rộng chỉ muốn cúi xuống uống
cạn cả
con nước chảy, khao khát ôm chặt cả dòng sông vào lòng nhưng khi ngửng
lên,
dòng sông vẫn lặng lẽ tuôn chảy, cả một khối nước ẩn hiện lung linh.
Dòng nước
thì vẫn trôi xuôi nhưng có con sông nào là con sông cũ?
Thiên sứ, bản thân nó
đã là một khối văn bản, một văn bản
nhiều chiều, nhiều tầng lớp. Nó vừa là một sân khấu kịch khổng lồ với
các nhân
vật truyền thống của sân khấu phương Tây: nhà thơ, thằng lùn, người
đẹp, du
côn, ác quỷ... trên cái nền ngột ngạt của một không gian tù hãm, vừa là
một bài
thơ văn xuôi dài. Rất nhiều câu thơ của Phạm Thị Hoài cứ luyến đi láy
lại, tạo
thành những giai điệu thắm thiết, quấn quýt lấy nhau, tạo thành những
vực xoáy
của từ ngữ thăm thẳm. Và còn những điển tích... những điển tích của văn
hóa
phương Tây chưa bao giờ đậm đặc và trải rộng đến thế trong một tác phẩm
văn học
Việt Nam. Từ thần thoại Hy Lạp tới chuyện cổ Andecxen, từ Kinh Thánh
cho đến
Don Quichotte, từ những “chuyển động Brown” trục tung trục hoành,
Hypecbon cho
tới những lời bài hát tiếng Anh quyến rũ (Open your heart, Iõm coming
home -
bài Hey, you của Pink Floy, The end of something của Beatles) hay những
nhân
vật tên tuổi của điện ảnh thế giới (Henry Fonda, The street car named
desire...)
Tất cả đi vào trong văn bản Thiên sứ tự nhiên và hoà hợp một cách kỳ
lạ. Những
điển tích hiện đại này làm cho nhiều người khó chịu. Nhưng thật bất
công với
tác giả khi chê chị là “Tây Tàu hổ lốn”, trong khi những điển tích của
văn hóa
Trung Quốc lại được xưng tụng. Có lẽ, sai lầm của Phạm Thị Hoài là ở
chỗ chị là
người đi tiên phong. Còn nếu như Thiên sứ chỉ giành cho một lớp độc giả
có chọn
lọc thì có gì là sai trái? Khả năng cảm thụ cái đẹp đòi hỏi một vốn văn
hóa
nhất định để giải mã.
Thiên sứ là một tác
phẩm mở. Gấp sách lại, câu kết của câu
chuyện lại như mở ra trước mắt ta một cánh cửa mới, bắt đầu một câu
chuyện mới:
“Lúc đó là không giờ kém hai phút ngày năm một ngàn chín trăm bảy mươi
chín”.
Dư âm ấy thật đáng tiếc, lại không kéo dài tới những tác phẩm sau. Tập
truyện
ngắn Mê lộ của chị đã mất đi giọng dài hơi của Thiên sứ. Nhưng sự
nghiệp của
chị còn dài, và độc giả hãy còn rất nhiều hi vọng đặt nơi chị
Hà Nội 30.08.1994
Nguyễn
Thanh Sơn