Những
giọt trầm
Có
chắc mùa thu lá rơi vàng tiếng gọi
Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghìn
năm sau ta níu bóng quay về...
(Có phải em... mùa thu Hà Nội - Trần Quang Lộc)
Sơ tán lần thứ nhất về thì tôi lên lớp ba. Hầu hết trường
học ở thành phố bị trưng dụng trong thời đánh phá. Làm nơi tuyển quân.
Làm nơi
chứa bao cát phòng khi bom phá vỡ đê sông Hồng mùa lũ. Làm nơi bán gạo
dã
chiến. Trường tôi là cửa hàng gạo lúc trẻ con phải triệt để sơ tán khỏi
thành
phố. Lúc chúng tôi nhập trường, các phòng học vẫn phảng phất mãi mùi
gạo mục
chua chua thum thủm. Trường mất đâu hết bàn ghế và học sinh phải đi học
ba ca.
Tôi học ca ba, từ ba giờ chiều tới bảy giờ tối. Bây giờ nhớ lại lòng cứ
ngùi
ngùi rất khó chịu. Thương tuổi mình ngày ấy. Nhưng ngày ấy thì thật ra
là rất
bình thường. Từ hai giờ chiều tôi đã mắt trước mắt sau chào bà xách cặp
phóng
ra khỏi nhà. áo trắng. Quần xanh. Nón to bằng nón mẹ. Không còn phải
đội mũ rơm
dày quỵch đau cả đầu. Vĩnh biệt áo nâu với áo xanh sĩ lâm. Chẳng còn sợ
bị cô
phạt vì quên túi cứu thương. Nhẹ nhõm. Gió lao rao trên vòm cây. Xô
nắng. Nắng
mùa thu trong như mật óng rải trên đường. Mặt đường đầy cứt cò. Phố tôi
có hàng
cây sao tuyệt nhất Hà Nội. Thẳng tắp. Cao vút. Thân xù xì nâu sẫm, đẹp
kinh
khủng vào lúc nắng quái. Lại có cò. Lạ thế. Cò vẫn về quần tụ ngay cả
lúc bom
đạn dữ dội nhất. Sau này chúng bỏ đi, nhưng vẫn để lại cho phố cái tên
bọn con
trai bạn tôi thời sinh viên rất thích gọi: Bang Cò ị.
Bang
Cò ị nằm sát ngoại ô. Hai bên phố thuần nhà một tầng
với hai tầng mái ngói cửa gỗ lùa có thể tháo ra lắp vào hàng ngày. Kiểu
nhà
trung lưu có buôn bán trước. Cũng lác đác có vài biệt thự và những biệt
thự đó
thường cách mặt phố cả khoảng sân rộng có hàng rào chấn song gang bao
quanh.
Trên đó hoa ti gôn phủ trĩu. Lối đi sau mấy ngày mưa chỗ nào không có
bước chân
người là lên rêu. Trông cũng tàn tạ. Có vẻ nhà tư sản trước, còn giữ
được sau
hòa bình lập lại. Cả nhà tôi sống ở khu tập thể cơ quan bố mẹ và những
nhà
ngoài phố bao giờ cũng làm tôi tò mò. Trong ấy dường như còn một cuộc
sống mà
tôi không biết. Nó hiện diện ở những tủ kính con chứa các lọ thủy tinh
đựng ô
mai, táo dầm, chè lam..., ở dáng ông cụ mặc pigiama phẳng phiu loay
hoay quét
lá khô trên lối đi những chiều gần tắt nắng. Hay ở dáng các bà cụ răng
trắng,
đeo kính, búi tóc chứ không vấn khăn như các bà ở vùng chúng tôi về sơ
tán vẫn
vừa ngồi trông hàng vừa tiện thể nhặt rau sát cửa ra vào. Tôi đã nhìn
rất kỹ.
Các bà ngồi ghế nhặt rau chứ chẳng thấy ngồi xổm bao giờ. Mớ rau các
nhà ấy mua
thường nõn nà, rau xơ mới và bao giờ cũng chỉ là một nắm tý tẹo. Khác
hẳn những
mớ rau bọn trẻ con chúng tôi xếp hàng mua ở quầy rau mậu dịch. Nhìn
những mớ
rau bán theo cân ấy người nhà quê ra tỉnh có thể tưởng rằng đến một nửa
dân
thành phố nuôi lợn.
Suốt
khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa lọt
vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày
nào đi học
tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối.
Nhưng
tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự
rây qua
ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc
đẹp hơn
tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi
thân và
nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng
còn cách
nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố
trước mặt
chúng nó. Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập
cập. Thua
tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối. Tôi có cả một bầu trời mùa
thu
thanh tĩnh, cả tiếng chim kia, cả mặt phố thâm nghiêm trong bóng lá, và
nắng,
và gió. Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm
vang lên
lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết. Cảm giác này
theo tôi
đến tận giờ và tôi không bao giờ muốn lý giải.
Cô
giáo dạy dương cầm tôi đã nhìn thấy nhiều lần. Hình như
nhà chỉ có cô và mẹ cô. Bà cụ hay ngồi trên cái giường đơn kê sát cửa
sổ đan
len, kính trễ mũi. Thỉnh thoảng bà lại dướn mắt nhìn qua gọng kính ra
ngoài
phố. Phố vắng ngắt. Chẳng hiểu bà nhìn gì. Và mỉm cười. Có lần hình như
bà cười
với tôi. Gương mặt lặng lẽ sáng bừng trong nụ cười ấy. Dáng vẻ ấy tôi
chẳng bao
giờ thấy ở các vị hàng xóm suốt ngày tất bật trong khu tập thể của tôi.
Cô giáo
dạy đàn con bà cụ trông cũng chững tuổi. Phải bằng cô giáo tôi. Tóc phi
dê dài
đã hơi duỗi, để xõa ngang vai cả trong những ngày nóng. Mắt đen, sâu,
cái nhìn
hơi mờ. Miệng rộng và tươi. Có thể vì thế mà dáng người cô tuy hơi quá
gầy
nhưng trông không có vẻ ốm yếu sầu não, mà cũng không có vẻ nghiệt. Tôi
không
biết cô có nhiều trò không nhưng vào lúc tôi đi học thì bao giờ cũng có
một đứa
trẻ nào đó đang mổ cò bên đàn. Buổi tối khi tôi đi học về qua thì
thường chỉ
thấy có bà cụ và cô. Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết
đó là bản
gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức.
Tiếng
đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao
đen cao
vút đang từ từ dướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn
màng như
một đĩa thạch và chi chít sao. Mùi lan tiêu thơm nức... Sân khấu ca
nhạc ngày
ấy bao giờ cũng có tiếng phong cầm. Tiếng phong cầm rộn rã réo rắt quả
cũng
thích hợp với không khí thời buổi ấy, khi chiến tranh mới tạm ngưng và
những
bài hát Bão nổi lên rồi, Bài ca đường chín, Chiếc gậy Trường sơn với
vân vân
vang ra từ loa công cộng gắn khắp các phố luôn thổi lên trong lòng
người một
ngọn gió hừng hực. Tiếng dương cầm đơn độc lần đầu tiên nghe thấy đã
làm chậm
hẳn bước chân tôi. Đến thời con gái ngơ ngẩn, có những đêm đạp xe một
mình lang
thang hay cùng bạn, tôi đã nghe được bao tiếng dương cầm khuya. Góc phố
Tăng
Bạt Hổ. Gác hai một ngôi nhà trên Quan Thánh. Sứ quán Pháp gần hội nhạc
sỹ Việt Nam
góc Bà
Triệu - Trần Hưng Đạo. Xóm Hạ Hồi. Phố Nguyễn Thượng Hiền. Nhưng không
có một
tiếng đàn nào cho tôi cảm giác như tiếng đàn tôi đã nghe khi đang là
một con bé
lên chín, trong một ngày xa xôi rất nhiều gió.
Tôi
đã nghe thấy tiếng đàn. Tôi cũng đã nghe thấy cả giọng
nói người chơi đàn. Một buổi tối lúc đi học về, trời đổ mưa sầm sập. Hà
Nội có
những ngày thu như thế. Liền mấy hôm mưa dầm dề. Rồi nắng hửng lên,
vàng rười
rượi. Trời xanh và cao. Heo may về lại. Phố khô đi chậm rãi. Rồi lại
mưa. Tôi
chỉ mang độc cái nón, cặp sách bằng vải mẹ may tay, phải tìm chỗ trú.
Men theo
hiên các nhà, tôi dừng lại ở cửa nhà có trẻ con tới học đàn. Ngọn đèn
điện đỏ
đòng đọc chụm lại thành một giọt sáng to tướng buông từ trần xuống giữa
phòng.
Không thấy bóng ai. Không có tiếng đàn tôi thầm mong. Chân dầm nước mưa
lâu vừa
tê lạnh vừa ngưa ngứa trong đôi dép cao su. Đột nhiên một giọng đàn bà
hơi khàn
và rất ấm vang sát bên tôi: - Mưa to lắm. Chắc còn lâu mới ngớt. Hay
cháu vào
tạm nhà cô đi. Chút nữa thì tôi va vào cái xe đạp người phụ nữ đang
dắt. Quai
nón ướt. Tóc ướt. Mắt môi ướt. Một chiếc áo mưa choàng qua ghi đông. áo
mưa
thời ấy... Chỉ là một mảnh ni lông thắt nút hoặc trước ngực hoặc sau
lưng tùy
lúc người ta đi bộ hay đi xe đạp. Nói chung chỉ dùng cho có. Có che
chắn cẩn
thận thế nào thì người dùng cũng bị ướt nửa người. Người phụ nữ nhắc
lại câu
mời, không vồn vã nhưng rất thân tình. Giọng nói khàn ấm ấy nghe thật
yên tâm.
- Cháu cám ơn cô. Xin cô cho cháu trú nhờ ngoài này thôi ạ. Trời mưa...
Nhỡ bố
cháu đi đón cháu... ... Mưa ngớt dần. Nước ở ống máng mái hiên thôi
chảy ào ạt
rồi thành dòng nhỏ. Chỉ còn những giọt mồ côi rơi tí tách. Mặt phố
không còn
thấy bong bóng nước. Đã đi được rồi. Nhưng tôi thấy người phụ nữ đến
bên đàn,
mở nắp, ngồi xuống. Giọt trầm đầu tiên rung lên, khe khẽ, ngập ngừng...
Chiến
tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là
vì tôi
lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà
Nội
những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày
mưa. Để
lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía
rú lên từ
phía Nhà Hát Lớn... Rồi chúng tôi lại về. Khâm Thiên đã xây dựng lại.
Phố Huế
đã xây dựng lại. Bệnh viện Bạch Mai đã xây dựng lại. Hồi ức chiến tranh
thường
chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom
liếm hết
nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em. Lần này về, tôi
đã là
học sinh cuối cấp hai. Mẹ đi bộ đi làm, để xe đạp cho tôi đi học và đi
chợ. Bố đêm
đêm vẽ ở khu triển lãm Vân Hồ. Hết triển lãm này lại đến triển lãm
khác. Triển
lãm mười hai ngày đêm Hà Nội (1). Triển lãm Cách Mạng Tháng Mười. Triển
lãm
chiến thắng 75... Đấy là việc làm thêm của bố. Hôm bố tuyên bố đã đủ
tiền và sẽ
mua một cái đài có hẳn bốn chân cả nhà mừng không ngủ nổi. Thôi không
phải hóng
chương trình phát thanh theo giờ của đài Hà Nội qua cái loa bằng hòn
gạch nhà
nào cũng lắp. Thôi không phải dặn bà đánh thức tối thứ bảy để nghe tiết
mục
Tiếng thơ với Đọc truyện đêm khuya. Sẽ được nghe đài cả ngày. Được nghe
chương
trình hòa nhạc. Người ta còn chu đáo dẫn giải cho thính giả. Phiên chợ
Ba Tư...
tiếng lạc đà... cái huyền ảo của xứ sở một ngàn đêm lẻ... Hồ Thiên
nga... Hoàng
tử xuất hiện... Thiên nga gãy cánh... Tôi không được học nhạc và hoàn
toàn mù
tịt về cái nghệ thuật vô hình này. Nhưng tôi vẫn thích nghe nhạc không
lời. Như
thế, tôi được thoát hẳn ra những ngày sống này, được bỡ ngỡ về mình...
Như đêm
nào trên phố mưa.... Mẹ tôi mất. Cái Melodia bốn chân của Nga trông bệ
vệ thế
mà cứ trở nồm là kêu xẹt xẹt vì tụ ẩm và đến mùa bão thì tịt. Chẳng
hiểu vì sao
các triển lãm ít hẳn. Bố không kiếm thêm được việc làm, ban đêm ở nhà
pha một
ấm chè cám uống đủ ba nước, loại chè ba hào một gói bán đầy ở mậu dịch.
Chờ
chúng tôi xong bài vở bố mới lên giường. Tôi lên đại học. Trường nằm ở
ngoại
thành. Ngày ngày đạp xe đi về bằng cái xe "cố vấn" mẹ để lại trong
tình trạng ăn uống "qua loa"(2) tưởng chẳng còn hơi sức đâu mà để ý
đến mặt người mặt phố. Vậy mà qua số nhà xưa vẫn không thể không nhìn.
Có cái
mới: Cạnh cửa ra vào đặt một cái tủ thuốc lá. Bà cụ chuyển chỗ ngồi đan
len từ
trong cửa ra ngoài cửa. Mấy năm sau thì cái tủ dịch ra sát lề đường.
Bên cạnh
bà cụ giờ thêm một ông cụ bán vé số. Rồi một người đàn bà nhập bọn.
Chắc dân về
"mất sức". Chị ta bán hàng xén. Xà phòng. Thuốc đánh răng. Chun.
Khuy. Đủ thứ linh tinh. Đạp xe ngang chỉ thấy xanh xanh đỏ đỏ. Rồi bà
cụ sắm
được cái ô to che nắng và bên cạnh tủ thuốc lá thấy thêm cục gạch, trên
để chai
xăng. Lồng chim xưa chẳng biết có còn không. Đạp xe vèo qua, chẳng nhìn
thấy mà
cũng chẳng nghe thấy. Người phụ nữ chơi đàn xưa tôi cũng không thấy lại
lần
nào.
Giữa
năm sau thành phố mở con đường ngay cuối phố tôi. Chẳng
biết người ta đặt cho nó tên gì. Chắc lại tên mấy đồng chí lãnh đạo cao
cấp nào
của Đảng đã từ trần hoặc hy sinh... Ai cũng quen miệng gọi là Đường Mới
từ khi
đường chưa thành đường. Phố tôi ào cái đổi lốt. Người xe nườm nượp ngày
đêm.
Lúc nào ra phố cũng có cảm giác như đêm Noel, hay đêm gần Trung thu cả
lũ rủ
nhau lên Hàng Mã, hay là áp Tết. Các nhà mặt phố đồng loạt lắp cửa sắt
mở cửa
hàng kinh doanh. Đủ thứ. Gần chợ cuối phố thì là hàng ăn. Hàng bán quần
áo may
sẵn kéo suốt khoảng phố có nhà dạy đàn. Nắng cũng như mưa, các nhà căng
một tấm
vải bạt che đến nửa hè phố. Đi bộ trên hè như xưa mà vướng phải cọc
buộc dây
chăng bạt của các nhà thì vô phúc. Ngã giập mặt còn bị chửi là đồ không
mắt.
Tôi đeo kính từ năm lớp bảy. Tự nghĩ phải mình thì họ sẽ nhiếc "lưu
manh
giả danh trí thức". Bà cụ bán thuốc lá và xăng bẵng một dạo không thấy
mặt. Chỗ bà cụ bây giờ một ông béo chiếm. Chiều hè tan tầm, ông cởi
trần trùng
trục, bụng một rổ, trước mặt là cái bơm xe đạp. Chắc bụng to nên tốt
tiếng.
Giọng ông rền suốt một khoảng phố: "Bơm đây. Bơm xe đây!" Một hôm
thấy ông chuyển chỗ ngồi và không rao ầm ỹ. Rất nhiều cụ ông cụ bà quần
áo tề
chỉnh ra vào ngôi nhà có cô giáo dạy đàn, vẻ mặt nghiêm trọng. Rồi thì
đám
tang. Hình như hội Bảo Thọ phường đứng ra tổ chức. Cô giáo dạy đàn đi
sau quan
tài, không mặc áo xô mà mặc đồ đen. Đi xe ngang đó, thấy cô gầy hơn và
buồn
thảm. Vẻ buồn bình tĩnh, đằng đẵng.
Tôi
ra trường. Chạy vạy mãi không xoay được chỗ làm đúng
nghề. Rồi gặp anh và lấy anh. Bố chồng tôi xin cho tôi một chân văn thư
ở phòng
hành chính cơ quan bộ ông. May, cơ quan bộ, đánh máy cũng cần ngoại
ngữ. Rồi
tôi có con. Thành phố đổi mình từng ngày. Tôi cũng vậy. Toàn bối rối
băn khoăn
chuyện nhà. Quen sợ dạ lạ sợ nhà. Phải đưa ma ngay cái quạt tai chuột
và thỉnh
về cái quạt tai voi. Phải phấn đấu mua cái quạt cây Điện cơ (3). Rồi
lại phải
xoay xở mua lấy cái xe máy. Bé tí đi bộ khắp nơi thì không sao. Nay đi
xe đạp,
xe máy phóng ào ào qua, tự dưng thấy mệt. Căn phòng bố mẹ chồng tôi cho
nằm
trong một biệt thự cũ. Nhà xây kiểu Tây, trần cao, lại có lan can rộng
nhìn
xuống phố. Chồng tôi được một cuộc hội thảo ngắn ngày ở Nhật về bàn vay
thêm bố
mẹ cơi cái lan can thành bếp và đổ lấy cái gác lửng. Làm chỗ ngủ. "Làm
chỗ
cho anh cu học sau này. Rồi nhỡ ra anh cu nhà mình yêu sớm lấy vợ sớm!"
Vợ
chồng ngày nọ qua ngày kia hỉ hả, bối rối, tất bật vì đủ thứ kế hoạch.
Cuối
tuần cả nhà thu xếp về thăm ông ngoại ở một mình từ ngày chị em tôi lấy
chồng.
Nhìn phố cách ngày, thấy thay đổi đến chóng mặt. Có nhà đã lên tầng,
mặt tiền
nhảy không được ba bước mà cũng cửa vòm cứ như bảo tàng Mỹ thuật, và ốp
đá đỏ
hoa mắt. Nhìn cũng hơn mấy năm trước nhà xây trát granito, mưa mấy hôm
trông
xam xám nhờ nhờ hệt cái nhà tắm công cộng ở các khu tập thể. Nhưng nhìn
kiểu
tốt lỏi thế cứ thấy mặt phố lổn nhổn, nhà quê vón cục. Biệt thự có ông
cụ quanh
quẩn quét lá rụng trên lối đi nay không còn sân nữa. Giàn hoa ti gôn
quen mắt
đã mấy chục năm bị phá trong có non buổi sáng. Cây ngọc lan to cũng bị
chặt.
Một căn phòng mái bằng xuất hiện. Đường bệ ngự bên trên cánh cửa sắt là
tấm
biển VANGĐUCTIN dưới có chua hàng chữ nhỏ hơn và có dấu hẳn hoi: Thử
vàng bằng
máy vi tính. Đi ngang lần nào tôi cũng thấy một gã trai trẻ ngồi sau
computer
lơ láo ngó ra phố. Còn ở chỗ góc phòng kê xa-lông thì mấy ông mặt mũi
rất
phổng, đỏ lịm vì bia nói với nhau như quát. Ngôi nhà của tiếng dương
cầm xưa
chìm lấp đâu đó đằng sau mấy cây sào giăng đầy quần áo may sẵn nhập lậu
từ
Trung Quốc. Bà cụ mất rồi. Còn tiếng đàn... Nếu có thì cũng chẳng thể
nào nghe
nổi. Hà Nội càng ngày càng ồn ào quá thể. Như Sài Gòn những năm 80. Và
bụi. Nói
chung là nhem nhuốc. Cơi nới loạn xạ. Làm thế nào được. Dù sao thì cũng
có thêm
một chỗ để đặt cái bếp, hay cái bàn học cho con, chí ít cũng để được
giày dép
mà không phạm vào diện tích ở vốn eo hẹp. Thì vợ chồng tôi cũng đã mừng
rú khi
làm được cái gác lửng có đổ bê tông hẳn hoi chia đôi khoảng không gian
từ trần
xuống nền nhà, và che lại được cái ban công mà không bị ai kiện tụng gì
với
phường với quận. Nhìn từ dưới phố lên chẳng khác một cái chuồng gà.
Nhưng vào
nhà thì mới thấy tiện thêm nhiều... Vậy mà không hiểu sao đôi khi tôi
cứ nghẹn
ngào, không làm sao dứt đứt ra khỏi lòng dạ những nôn nao của cái thời
ngốc.
Trưa nay lại thế. Vợ chồng cho con về bên ngoại. Ngang qua khoảng phố
có ngôi
nhà xưa, tôi bảo chồng dừng xe xuống tìm mua cho con bộ quần áo. Anh cu
nhà tôi
tháng chín này đi học. Đi lần lần tới số nhà quen thuộc, thấy một cô bé
mặt to
cả phố khéo chẳng ai to bằng ngồi trông hàng. Cô bé da nhìn không được
sáng,
vận "đồ bộ" in những bông hoa đỏ to tướng, may kiểu mới, áo ngắn quần
phùng trên túm dưới, trông rừng rực. Lơ lửng ngay trên cửa ra vào là
cái lồng
chim, trong có con vẹt Hồng công. Con chim rực rỡ như chủ, mỏ đỏ, lông
xanh pha
vàng. Nhưng loài chim này không biết hót. Cô bé bán hàng ngẩng đầu nhìn
tôi,
rồi thản nhiên cúi mặt nhìn bàn chân đang đặt trên thành ghế đẩu, tiếp
tục giũa
móng. Móng chân móng tay cô sơn nhũ đỏ sậm như máu đỉa. Từ dưới khuôn
mặt vừa
cúi xuống bay lên một câu nói rất ngọt ngào: - Chị định lấy cái "lào"
thì chỉ em lấy xuống cho, khỏi rơi hết hàng em. Không lơ mơ với những
cô bán
hàng như thế này được. Tôi mua cho con một cái quần bò. Rồi tự dưng hỏi
thăm
chủ cũ. - Bà dạy đàn ấy à? Thì bà ấy vẫn ở đây. ở cái phòng trong sân.
Nhà
ngoài bán đứt cho nhà em rồi. Có thấy học trò học troẹt nào đâu. Mỗi bà
ấy ra
vào nên cũng không ngăn lối đi riêng làm gì cho mất diện tích...
...
Bà ấy? ừ! Cô giáo dạy đàn xưa nay cũng phải già như bà
cụ độ nào. Cô giáo cũ của tôi đã về hưu. Cô kiếm thêm bằng việc đưa sữa
chua
cho hàng giải khát mùa hè, mùa đông thì nhận khâu len... Mà tôi thì
cũng đã ngoài
ba mươi tuổi.
1997
Lê
Minh Hà
Chú
thích:
1:
Mười hai ngày đêm Mỹ đánh phá Hà Nội ác liệt, bằng cả
B52, trước khi ký hiệp định Paris.
2:
"Đi xe cố vấn, mặc áo chuyên da, ăn uống qua
loa": câu nói đùa rất thường nghe ở Hà Nội, đặc biệt trong giới sinh
viên
ở các trường đại học những năm đầu thập kỷ 80. Xe cố vấn: lốp xe đứt
hết tanh,
phải lấy dây chun vấn chặt, đi không bon. Mặc áo chuyên da: cán bộ được
phiếu
vải năm mét, nhân dân bốn mét, rất khó mua. áo chuyên da là không áo.
Ăn uống
qua loa: ăn uống qua đài.
3: Quạt
Điện cơ: quạt do nhà
máy Điện cơ Hà Nội sản xuất,
rất được ưa chuộng.