Thụy Vũ chăn dê
Saturday, December 11, 2004 Đỗ Tăng Bí
Một chuyến đi Lộc Ninh
Một ngày
đầu Tháng
11, 2004, Nguyễn Ðạt và tôi đi Lộc Ninh thăm nhà văn Thụy Vũ. Kể từ khi
bài nói
về cuộc sống thực vật của cháu gái của chị do anh Văn Quang viết ra,
cuộc sống
chị có phần thay đổi. Bạn bè, văn hữu, độc giả có chia sẻ với chị ít
nhiều nỗi
khó khăn nhọc nhằn trong cuộc sống khốn cùng. Bây giờ, Thân Mẫu chị mới
mất,
chị được thừa hưởng căn nhà ngói sát bên lề tỉnh lộ đi Lộc Ninh, đời
sống có đỡ
khổ cực nhiều. Cháu gái nhờ thuốc men cũng có bớt hơn chút ít, có chỗ
trú mưa
trú nắng, có bữa cơm nóng mỗi ngày, chị cũng đỡ cực hơn. Nhưng chưa thể
nói chị
có cuộc sống đầy đủ, chưa thể nói chị được hưởng chút an nhàn.
Chúng tôi
ở chơi với
chị Thụy Vũ và chị Văn Quang gần 5 tiếng đồng hồ. Theo chị lên rẫy nơi
cách đây
mấy năm chị và cháu gái sống đời cùng cực dưới mái lều dột nát. Ðứng
trước căn
lều rộng chưa tới 12 mét vuông, tôi băn khoăn không hiểu chị nghĩ gì để
có đủ
dũng cảm sống suốt những tháng năm đọa đầy bên cháu gái liệt giường?
Bây giờ
chị đã trồng được mấy trăm gốc tiêu, dựng được một chuồng nuôi vài con
dê, một
con bò, và một khoảnh đất trồng cỏ. Tiêu bây giờ đang mất giá, thu
hoạch sẽ
chẳng được bao lăm, cứ để chúng sống lây lất. Túp lều trước đây chị trú
ngụ nay
dành cho cậu bé canh rẫy, mỗi năm cũng phải trả công cậu mấy triệu bạc.
Nạn
dịch mới đi qua, chị mất nửa chuồng dê, nay đang cố gầy dựng lại.
Những gì
tôi ghi dưới
đây là câu chuyện chúng tôi nói với nhau khi ngồi uống nước, lúc ở trên
xe, khi
đi thăm rẫy, lúc ngồi ăn ngoài chợ Lộc Ninh... Có thể có những câu hỏi
với
những câu trả lời, có thể là những câu chuyện kể ra nhân không khí thân
thiết
vui vẻ, chứ thực ra không phải là một cuộc phỏng vấn. Chúng tôi dùng vế
“Hỏi”
để đưa ra những câu hỏi, câu nói của Nguyễn Ðạt và tôi, và vế “Th. Vũ”
để đưa
ra những câu trả lời, những lời trò chuyện của chị Thụy Vũ. Ðôi khi có
câu hỏi,
câu nói của cháu Khôi Hạo hay chị Ngân tức chị Văn Quang. Dù sao, những
câu nói
ghi dưới đây hoàn toàn có thực. Những câu chị Thụy Vũ trả lời, những
câu chị
Thụy Vũ kể chuyện, dù nội dung có chua xót đến đâu cũng được chị nói ra
với một
tràng cười thoải mái, không một chút đắng cay. Chị nói chuyện mình như
nói
chuyện người ta.
Tôi không
nhớ lắm từ
đâu mà câu chuyện bắt qua thời chị Thụy Vũ ngoài hai mươi tuổi. Nhưng
nhớ rõ
chuyện chị kể về những lúc “đầu đời” này:
Th. Vũ:
Khoảng giữa
thập niên 1960 là lúc tôi khá túng quẫn. Một anh bạn, có lẽ cũng thuộc
loại uy
tín sao đó đối với giới bán phấn buôn hương, đề nghị tôi đi học Anh văn
rồi anh
sẽ thu xếp để tôi dạy tiếng Mỹ cho các “Chị em ta” (mà tiếng bình dân
gọi là
“Ðiếm”). Lúc đó quân đội Mỹ vào Việt Nam đã đông, “Chị em ta”
cặp kè với
các chàng GI khá nhiều, nên chuyện học vài ba câu giao tiếp rất cần
thiết đối
với các nàng. Khổ một cái học tiếng Anh cho đủ để đi dậy đâu phải là
dễ, đâu
phải một sớm một chiều là có đủ vốn liếng mà dậy. Nhưng chuyện cần kiếm
tiền
sống lại là khẩn thiết đối với tôi, nên anh bạn tôi nghĩ ra mẹo này:
Anh nói
tôi cứ ghi tên học Hội Việt Mỹ đi, sau khi học được một hai tuần là bắt
đầu đi
dậy. Anh tập hợp đám các “Chị em ta’ lại và nói:
- Này nhé,
tao mời cô
giáo đến dậy tiếng Mỹ cho mấy đứa bay. Cô giáo bận rộn đủ thứ chuyện,
không có
thì giờ nhiều đâu. Cô giáo dậy chi học nấy, cấm không được đứa nào hỏi
để cô
mất thì giờ. Rồi, mỗi tuần ba buổi, từ giờ... đến giờ... tất cả phải
học hết,
học phí bây nhiêu... đóng tiền thẳng cho cô giáo. Ðứa nào chạy làng là
biết tao
à nghen!
Thế là tôi
học được
cái gì ở trường, tuần sau cứ thế dậy lại. Ðâu đứa nào dám hỏi nên cái
dốt của
mình đâu có lòi ra. Vậy mà tôi sống cũng được hai năm lận.
Hỏi: Thế
Má chị có
biết chuyện đó không?
Chị cười
ròn tan trả
lời: Bả biết chớ. Nhưng chỉ biết cái khoản tôi học hôm trước hôm sau đi
dậy,
chớ đâu có biết mình dậy ai. Bả đâu có biết mình là “thầy điếm”.
Hỏi: Ngoài
chuyện dạy
chữ chị có dậy “Nghiệp Vụ” không?
Th. Vũ:
Trời ơi, cái
khoản nghiệp vụ đó bọn chúng thay nhau nhồi nhét cho mình, thiếu điều
bắt mình
thực hành. Riết tôi phải cấm không cho nói chuyện nghề nghiệp chi hết.
Chỉ có
học chữ thôi. Ai muốn tâm tình chi cũng được nhưng cấm cái khoản mánh
khóe,
vòng trong vòng ngoài này nọ... Thực ra suốt hai năm đó cho tôi rất
nhiều vốn
sống. Chỉ riêng các câu chuyện đời của ngần ấy đứa đủ cho tôi viết bao
nhiêu
chuyện ngắn, chuyện dài, học hỏi hiểu biết bao nhiêu về tâm lý con
người.
Hỏi: Suốt
hai năm đó
chắc nhiều chuyện vui phải không chị.
Th. Vũ:
Ngày nào cũng
có chuyện. Ðể tôi kể nghe sơ một chuyện này thôi: Con nhỏ đó có thằng
bồ Mỹ
đen, theo thường lệ thì sáng hôm sau thằng bồ mới về. Con nhỏ chắc ăn,
kêu
thằng bồ đen khác đến, lúc 2, 3 giờ chiều hai đứa sà nẹo nhau trong
phòng, tôi
dậy mấy đứa khác học ở phòng khách. Bỗng nghe tiếng xe thắng ngoài đầu
ngõ,
nhìn ra tôi thấy thằng da đen bước xuống xe giống thằng bồ con nhỏ kia,
hỏi mấy
đứa đều xác nhận là đúng. Tôi nhào vào tông cửa buồng, hai đứa còn trần
truồng
ấp nhau. Tôi nói nhanh với con nhỏ: Mẹ, thằng bồ mày nó về kìa. Con nhỏ
xanh
xám mặt mày hỏi: Sao bi giờ cô giáo. Tôi bảo nó mày mặc quần áo vào còn
thằng
kia cứ nằm đó. Nói xong tôi lao lên giường nằm đắp mền với thằng Mỹ
đen. Vừa
lúc thằng bồ Mỹ đen mở cửa phòng bước vào.
Nó hỏi:
- Bộ cô giáo mày cũng có bồ hở.
Con nhỏ trả lời:
- Thì bà ấy cũng cần bồ chứ bộ.
Nó vặn lại:
- Thế tại sao mày ngồi đây làm chi
vậy, bộ cho mượn phòng
rồi mà không muốn họ làm ăn hở.
Con nhỏ đáp lại:
- Thì bà
ấy nói cứ
ngồi đó, kéo màn lại có sao đâu.
Mọi chuyện
êm xuôi,
thằng bồ thứ hai và con nhỏ cám ơn tôi rối rít. Cả hai đứa đều nói
không nhờ có
tôi nhanh trí chắc thằng kia xách súng bắn chết hết quá. Vậy mà con nhỏ
còn hỏi
tôi chớ lúc nằm như vậy tôi có khoái không. Thiệt hết chỗ nói.
Hỏi: Mà
hỏi thiệt chị
chớ lúc nằm sát vậy chị thấy sao?
Th. Vũ: Sợ
thấy mồ.
Thiệt đó, tôi nằm mà tim đập thình thịch, sợ lỡ thằng cha Mỹ đen nó
đang cơn
như vậy bị cúp cái rụp, nó ôm đại mình thì không biết chống cự ra sao.
Tự nhiên
mình nhào vô chứ bộ. Trời Phật thương, không có chi xảy ra. Sau này cả
cái nhà
điếm đó nó chọc ghẹo hoài, nhưng họ càng thêm thương mến mình, bao
nhiêu tâm sự
cứ thế tuôn ra hết, tôi như cái thùng rác chứa đủ thứ hằm bà lằng của
đời các
cô gái điếm, các cô me Mỹ. Mà có điều lạ mấy đứa chơi với Mỹ vậy đó đều
bám
theo một anh không quân. Một dãy appartements gồm mấy đứa học trò tôi,
mỗi đứa
đều cõng một anh không quân, lo cung phụng đủ thứ, tôi cũng chưa biết
tại sao.
Hỏi: Vậy
chị là sư
phụ của điếm. Sau này chị có gặp lại mấy cô đó không?
Th. Vũ:
Sau 75 tôi có
gặp lại một đứa, nó khóc quá trời. Nó kêu thằng Mỹ bỏ nó lại. Tôi nói
bỏ lại là
đúng rồi, nó còn vợ con bên đó, mà mình có phải vợ con gì của nó đâu.
Khi hết
dậy điếm là giai đoạn tôi vào làm việc ở xí nghiệp, rồi vào nghề viết
lách...
nghĩ lại cũng thấy xâm mình chớ, đàn bà lao vô mấy chỗ đó cũng dễ hư
lắm, tiền
nhiều quá mà... Mà đời cũng kỳ thiệt. Trước 75 lấy Mỹ là cái gì xấu xa,
sau này
có con lấy Mỹ thì ngon lắm, lo diện con lai đủ thứ để đi. Bởi đời nhiều
điều kỳ
khôi như vậy mà tôi trở thành thầy bói...
Hỏi: Từ
đâu mà chị
thành thầy bói vậy?
Th.Vũ: Sau
75, đâu
còn ai cho viết, xí nghiệp làm sao xin vào, điếm thì còn đó nhưng đâu
ai cần
học tiếng Mỹ. Chưa biết tính toán sao thì có thằng em hỏi: Chị Hai, chị
học
nghề bói không? Sực nghĩ thời buổi lúc đó không ai biết tương lai mình
ra sao,
chắc nghề thầy bói coi bộ trúng đó. Tôi bèn trả lời: Thì học chớ. Thế
là nó lấy
bộ bài ra dậy tôi. Tôi học cũng chăm chú nhưng thiệt tình không nhớ gì
lắm.
Ruột gan lúc nào cũng rối bời, nhớ gì nổi. Vậy mà “chó ngáp phải ruồi”,
cái đám
ở khu làng báo chí (Thủ Ðức) đó, toàn bọn thanh niên nam nữ thuộc loại
lý luận
nghiệp vụ, chúng tin tôi lắm. Ðứa nào cũng thắc mắc chuyện tình duyên,
mình cứ
“tâm lý” mà giải đáp, bọn chúng tin rần rần. May mắn gặp mấy đứa đầu
mình đoán
trúng sao đó, một đồn mười, mười đồn trăm. Mà tôi đâu có lấy tiền, đứa
cho gạo,
đứa cho bánh, đứa cho chuối, thế là cũng đủ ăn.
Các anh
biết không,
Nguyễn Ðình Toàn đó, hắn đi nói với người ta: “Cái mụ Thụy Vũ đó nó là
phù thủy
của tao”. Ðến lúc ông ta đi vượt biên, mới ghé lại nói: “Ê Thụy Vũ, bói
tôi một
quẻ coi”. Tôi bói rồi nói: “Nè, đi rồi về nghe! Ði hẹn tắc xi đi để nó
đón về”.
Rồi ông ta đi lúc 7 giờ, 11 giờ lò mò về, qua nhà tôi chửi: “Ráng mà
chúc dữ
nghe. Chúc dữ rồi có ngày...” Vậy là ông ta nói với người ta tôi là phù
thủy,
“khi nào nó nói tao đi được là được, nói không là không...” Còn Lê Thị
Ý nữa.
Lê Thị Ý hẹn chồng tiền người ta 3 cây vàng buổi tối để sáng hôm sau
đi. Trước
khi chồng tiền không biết nghĩ sao kêu xe ôm nhảy xuống nhà tôi hỏi: “Ê
Thụy
Vũ, mày dở quẻ tao coi”. Bày quân bài ra tôi hỏi: “Mày có làm ăn với ai
phải
không, đàn ông đó?” Nó nói thì có làm ăn, hùn hạp, chứ nó không nói nó
vượt
biên, nó vẫn giấu. Tôi hỏi: “Ngày mai mày hẹn trả tiền phải không? Mày
trả tiền
coi chừng bị lừa đó”. Mấy hôm sau nó chạy xuống nói: “Tao đỡ mất 3 cây
vàng...”
Nó mới kể chuyện mấy người kia vượt biên bị lừa. Nó đãi tôi chầu ăn.
Ðến kỳ
chót nó đi được, nó cũng xuống đòi bói. Tôi dở bài ra rồi nói: “Chắc kỳ
này tao
với mày xa nhau quá...” Ði thoát, nó gửi cho tôi 4 bộ bài theo đường
bưu điện,
có ghi mấy chữ: Phen này mày bói cho gãy tay luôn. Hồi đó năm 77, 78 gì
đó, bọn
nó tịch thu hết đâu có phát cho tôi. Lê Thị Ý là em của Vương Ðức Lệ đó.
Hỏi: Chị
bói như vậy
theo linh tính hay sao?
Th. Vũ:
Không biết
sao nữa. Làm như khi mình dở bài ra, nghe tiếng ai nói đâu đó rằng vậy
vậy đó,
rồi mình cứ thế nói theo. Rồi đôi khi cũng là mánh nữa. Lúc mới đầu,
ngay sau
vụ 75, có lần tôi đi với Sao Biển, với đứa bạn nữa. Ba đứa không có
tiền, không
có chi hết. Buổi trưa đói quá, thằng Sao Biển mới nói, nè tao chỉ mày
vô cái
nhà đó nghe, mày coi bói. Nó nói hết cái nhà đó có những ai, vợ chồng,
con cái
ra sao, đủ thứ... Rồi nó vô nhà đó trước, nói với người ta là có cái bà
ở núi
Tà Lơn xuống, bây giờ tôi rước vô cho chị coi. Thế là bà chủ nhà mời
vô, cơm
bưng nước rót. Xong tôi dở bài ra, nhớ những gì Sao Biển nói tôi nói
lại, trúng
quá, bà ấy khóc. Ngặt tôi ở núi Tà Lơn xuống nên không lấy tiền, bả đãi
tụi tôi
một chầu ăn quá xá là ăn. Vậy đó, năm 75, 76 đó tụi tôi đi dài dài, đói
quá là
kiếm ăn kiểu đó cho cả đám bạn bè. Nghĩ lại cũng kỳ kỳ nhưng mà vui.
Xe đi qua
khu vực chợ
Lộc Ninh, Thụy Vũ nói:
- Hồi đó
(Trước 1975)
Ba tôi có hiệu thuốc tây ở đây nè.
Hỏi: Trước
đây ba chị
là dược sĩ?
Th. Vũ:
Ðâu có. Ba
tôi có bằng gì kiểu như Trữ Dược đó. Ổng mở một tiệm thuốc tây nhỏ ngay
khu chợ
Lộc Ninh, thực tình để ổng nuôi cán bộ, trợ cấp tiền bạc cho Việt Cộng.
Ổng là
Cộng Sản mà. Ổng mê Cộng Sản lắm, nói nó lý tưởng. Ðâu dè sau này...
Sau 75,
ổng là cố vấn cho Hội Văn Nghệ gì đó. Mới “giải phóng” vô, tổ chức học
tập, bọn
chúng đến nói ba tôi: Anh không biết dậy con (Thụy Vũ). Con anh nói
nhiều cái
khó nghe quá. Ông già tôi nói: Tôi hãnh diện vì nó. Nó có lý tưởng nó,
tôi có lý
tưởng tôi. Ông ấy điệu lắm. Ổng mất hai mươi mấy năm rồi. Hồi mới kêu
bằng
“Quân Quản” đó thì ông ấy là cố vấn Hội Văn Nghệ ở Sài Gòn. Lúc đó có
Bảo Ðịnh
Giang. Hồi xưa Bảo Ðịnh Giang đánh xe ngựa cho ông già tôi. Một hôm ổng
đến nhà
Bảo Ðịnh Giang nói với anh gác cửa: Vào nói Bảo Ðịnh Giang có thằng
đánh xe
ngựa tới thăm. Thật đúng bây giờ đổi đời... Mấy anh biết cái nhà từ
đường của
nhà tôi ở Vĩnh Long không, trời ơi là một gia tài đó, bao nhiêu đồ cổ
quí giá,
vậy mà năm 75 ổng hiến tặng cho nhà nước. Bây giờ người ta vẫn nói nhà
đó tiền
tỷ tỷ mà con gái thì chăn dê, chăn bò khổ cực. Ðây nè, thằng con trai
tôi nè,
nó học xong đại học Anh ngữ rồi đó chứ, bây giờ về giúp mẹ chăn bò...
Nhiều khi
chơi với thú vật sướng hơn, nó không có phản bội mình...
Hỏi: Nhắc
chuyện phản
bội tôi mới nhớ có mang theo bản copy của tạp chí thơ (California) số
mới nhất cho bà xem, trong có
bài thơ của Tô Thùy Yên nè... Nghe nói khi ổng đi tù về không nhìn mặt
chú con
trai này phải không?
Th. Vũ:
Ðúng mà cũng
không đúng. Số là sau 13 năm đi tù, ổng về nhà, thằng Hạo này ở bên cô
nó qua
thăm, ông ấy tưởng con hàng xóm, ngồi một lúc ông ấy đuổi: Thôi đi về
đi mày
cho chú nghỉ. Nó cũng không thèm nói nó là con ai, bỏ đi về. Lát sau cô
nó hỏi:
Ủa, thằng Hạo mới đây đâu rồi? Ổng mới nói: Thằng đó là thằng Hạo hở?
Lúc đó
ổng mới kêu lên: Trời ơi tôi đuổi con tôi rồi. Thằng bé lúc qua gặp bố
có chào
nhưng lí nhí trong miệng ổng không nghe. Ðến chiều ổng đi kiếm... Lúc
đó nhà ở
Lê Quang Ðịnh đó. Tôi nghĩ đó cũng là cái điềm ổng không nhìn đứa nào
hết.
Hỏi: Trông
nó giống
ông ấy quá đi chớ sao ổng không nhận ra kìa.
Th. Vũ: Mà
điều nó
không có hô phải không? Thằng này nó cũng đọc sách dữ lắm.
Hạo: Vậy
mà ông ấy
không nhận ra con.
Hỏi: Hồi
đó chị có
viết cái gì như “Hai chàng Thi Sĩ Họ Tô” phải không, Tô Kiều Ngân và Tô
Thùy
Yên?
Th. Vũ:
Anh Ngân bây
giờ đi chụp hình cho các văn nghệ sĩ, mà chụp loại hình để thờ. Ảnh
nói: Bây
giờ anh đi chụp hình thờ, em cho anh chụp một tấm để thờ. Tôi nói được
rồi,
nhưng phải chụp cho đủ năm ngón tay nghe. Ổng năm nay bảy mươi mấy rồi
mà trông
còn trẻ lắm, trẻ hơn ông Văn Quang. Hồi đó tôi vô phòng kiếm ông Tô
Thùy Yên
thấy ông Văn Quang mà đâu dám nói chuyện.
Hỏi: Hồi
đó ông Văn
Quang Trung Tá, ngậm ống vố trông oai lắm. Tôi ở phòng ông Nguyễn Ðạt
Thịnh,
nghe nói ông Tô Thùy Yên là thi sĩ nên tôi xin chuyển qua phòng đó. Ai
ngờ ổng
là thi sĩ mà quái gở quá phải không chị?
Th. Vũ:
Hồi đó người
ta nói ông ấy “Ðinh Thành Tiên”, tức là Ðiên Thành Tinh. Ðiên mà thành
tinh thì
kinh lắm, công nhận ông ấy điên điên thiệt...
Hỏi: Hồi
đó tại sao
chị viết?
Th. Vũ:
Hồi đó tôi đi
dậy học mấy cô điếm đó, khi về nhà gặp thằng An (Hồ Trường An) nó nói:
Trời ơi,
tôi nói thiệt với bà, tôi thấy bà nói chuyện được thì bà viết được. Tôi
nói tao
viết thì ai mà đọc. Nó nói riết tôi cũng hỏi ông Võ Phiến cho tôi viết
thử,
chuyện đầu tay là “Mèo Ðêm”. Ông Võ Phiến đọc xong khen: Cô có triển
vọng lắm
đó. Do đó tôi mới tà tà viết cho đến đứt phim mới nghỉ. Hồi đó tôi bắt
đầu viết
vào năm 28 tuổi, đến năm 33 tuổi thì lãnh cái giải gì đó của ông Thiệu,
đó là
lúc tôi đẻ thằng Khôi Hạo này, lúc đó 1970. Truyện trúng giải là chuyện
kể về
gia đình tôi, chuyện “Ðại Gia” còn viết dài dài được, nhưng sau đó tôi
mất
hứng, rồi lười quá, không viết tiếp.
Hỏi: Bây
giờ vừa viết
vừa chăn dê cũng được phải không chị?
Th. Vũ:
Tôi thì bây
giờ nửa thầy nửa thợ, đâu biết làm gì, nên mới bàn với thằng Hạo vay
tiền nhà
nước 10 triệu mua đại con dê về nuôi. Hồi đó tôi cũng bày đặt nuôi heo
nhưng lỗ
quá. Ông già tôi nói hoài: Thứ gì mà cỏ biến thành thịt thì lời, còn
cám hóa
thành thịt thì 5 ăn 5 thua, nhiều khi lỗ nặng. Nên hai mẹ con tôi bắt
đầu nuôi
dê. Chỉ cần con dê cái đẻ một con thôi, mà là dê cái nữa, là bán được
mươi
triệu đủ trả nhà nước rồi. Hai mẹ con gây chuồng dê cũng được mấy con
rồi, ngặt
kỳ mới rồi dịch chết mất nửa chuồng. Bây giờ các anh hùn mua dê chúng
tôi nuôi
cho rồi mình chia nhau mà sống. Thằng Hạo bây giờ biết thuốc phòng bệnh
cho dê
khá lắm, khỏi tốn tiền thuê chích thuốc, nó còn chích giúp người ta
nữa. Mà nó
làm thơ hay lắm đó. Bây giờ bà bạn của tôi nè thấy chúng tôi có ít đất,
chịu
khó làm ăn, coi mòi đất lành nên đã xúi ông Văn Quang mua lấy một mẫu
cất nhà
ở, mấy tuần nữa là làm xong nhà rồi đó.
Hỏi: Ủa,
bà Ngân này
không phải em chị hở? Coi còn trẻ quá mà.
Th. Vũ:
Ừa, nó là bạn
vong niên của tôi đó, còn kém tôi 15 tuổi lận. Hồi đó làm mai cho ông
Văn Quang
còn sợ ông ấy mắng vốn là giới thiệu trẻ nít., nó kém ông Văn Quang 19
tuổi
lận...
Bà Ngân:
Trời, chị em
gì. Mỗi lần bà ấy lên nhà ông Văn Quang, buổi sáng tôi pha cà phê hầu
hai ông
bà. Tôi bưng cà phê ra: Ly này mời Bố, ly này mời Mẹ. Hai người hành
tôi dữ
quá. Sau này chết tôi sẽ thờ cả hai...
Hỏi: Chắc
khi đó chị
giới thiệu chị Ngân cũng là để trốn “nghĩa vụ quân sự” đối với ông Văn
Quang?.
Th. Vũ:
Nói thiệt với
anh, nhiều người hỏi tôi rằng hồi lúc ông Tô Thùy Yên với bà chia tay
sao bà
không lấy chồng? Tôi trả lời rằng khi lấy ông Yên là coi như tôi lấy
hết đàn
ông trên thế giới này -đàn ông thế giới nghe chứ không phải chỉ đàn ông
Việt
Nam– Thế là đủ quá rồi, sợ quá rồi... Cũng như hồi ông Yên đi cải tạo,
tôi ra
thăm, nói lại các anh không tức cười thì thôi. Bước vô thì công an ngồi
đầu
bàn, tôi với ông ấy ngồi đối mặt. Tôi hỏi: Anh ơi, anh đi cải tạo mấy
năm rồi?
Ông ấy trả lời hơn bảy năm rồi. Tói nói: Ủa, sao mau dữ vậy. Thằng công
an nó
tức cười quá, người ta vợ con vô khóc bù lu bù loa, còn mình nói câu
lãng xẹt.
Ông Yên mới nói: Em ơi, xa mặt cách lòng! Tôi nói: Ðáng lý ra anh phải
hỏi câu
này nè: Em ơi, làm sao em nuôi nổi con? Còn xa mặt cách lòng hở, mai
này anh
về, trong giới giang hồ anh cứ hỏi cái con Thụy Vũ này nó có lăng nhăng
bậy bạ
không? Mà như vậy không phải tôi chung thủy với anh đâu nghe, mà chỉ vì
tôi
ngán đàn ông quá rồi. Nghe vậy ông ngồi mặt méo xẹo. Ông công an nín
cười không
nổi phải bước ra chỗ khác che miệng mà cười. Nghĩ cũng tội nghiệp, tới
chừng
lên xe mưa tầm tã, bà già ông ấy mới nghĩ đến con khóc khúc khít. Bà
nắm tay
tôi hỏi: Con ơi thế con hết thương thằng hai của má rồi hở. Tôi trả lời
thôi để
má thương thằng hai của má đi. Mà bà già ở quê lên nói tội nghiệp: Con
ơi sao
vợ con người ta khóc mà con cứ ngồi cười hoài vậy. Dù sao mày cũng ở
với nó ba
mặt con. Tôi trả lời: Ba mặt con cũng như không có đứa nào, ổng có coi
như có
đứa con nào đâu.
Hỏi: Hôm
nay nghe chị
kể chuyện ông Yên hơi kỹ?
Th. Vũ:
Tôi nói thằng
này (cậu con trai Khôi Hạo) giống gì thì giống chứ đừng có giống cái
trăng hoa.
Thời tôi lấy ông ấy, mỗi tuần lễ ông ấy có một mối tình, mà thứ đó là
tình dục
chứ không phải tình yêu đâu. Bữa nào mà ông ấy lăng xăng cầm tập giấy,
hút gió,
rồi sau khi tắm xong là thế nào cũng kể tôi nghe mối tình mới, rồi ông
ấy tả
người yêu của ông ấy làm sao làm sao. Một bữa ông ấy có cô bé đó, còn
nhỏ lắm,
ông ấy rủ đi ăn hủ tíu cá ở Hàm Nghi. Nhằm lúc tôi ghé tòa soạn, nên
ông ấy nói
chờ lát ra đó luôn. Hai người vào kêu 3 tô hủ tíu. Cô bé hỏi sao kêu
đến 3 tô
lận? Ông ấy nói thì kệ nó cứ kêu 3 tô. Chừng tôi bước vô, cô ta hoảng
hồn đứng
dậy chạy. Tôi nắm tay nó lại và nói: Em ơi, cứ ngồi đây đi. Ổng của
chùa của
miễu chứ không phải của chị đâu. Cứ yên chí ăn đi không có sao đâu, rồi
chị đi
chỗ khác cho em ăn với anh ấy. Rồi em chờ đó, mấy bữa nữa là lại gặp
người khác
nữa kìa... Cho nên tôi mãi mãi là người độc thân.
Hỏi: Nhưng
đầu tiên
làm sao mà chị với anh ấy gặp nhau?
Th. Vũ:
Hồi đó tôi là
độc giả của anh ấy. Tôi là cô giáo tỉnh lẻ, thích thơ của anh ấy, mới
viết thơ
qua lại. Tới chừng bữa bà Túy Hồng lấy ông Thanh Nam, tôi ngồi với bà
Túy Hồng một
bàn. Tôi với ông Yên thơ từ qua lại nhưng không biết mặt nhau. Ông Tô
Kiều Ngân
thì biết tôi là Nguyễn Băng Lĩnh, nên chạy tới hỏi Tô Thùy Yên: Mày
biết Nguyễn
Băng Lĩnh không. Ông Yên mới nói: Nó là độc giả của tao đó. Tô Kiều
Ngân bèn
dắt ông ta đến giới thiệu tôi: Ðó, Nguyễn Băng Lĩnh đó. Trời, vậy mà
ông ta nói
ngay: Trời ơi, anh kiếm em mấy lần trước khi cưới vợ (bà Diệu Bích)!
Tôi mới
nói: Bây giờ ông có vợ rồi thì ông im đi. Tôi với ông bạn bè củ nghệ củ
gừng
thôi. Vậy mà ông ấy theo tôi 3 năm liên tục, sáng, trưa, chiều, tối,
ngồi đồng
riết rồi mình cũng xiêu lòng.
Hỏi: Cuốn
“Hôn Thụy”
là do ông ấy đặt tựa?
Th. Vũ:
Ông ấy đặt.
Bọn nó cứ nói nghĩa là “Hôn Thụy Vũ”. Thực ra là ngủ cho chết luôn, tôi
có
người bà con một ngày ngủ 23 tiếng đồng hồ...
Hỏi: Mấy
năm trước
báo xuân Người Việt có đăng bài thơ “Ta Về” của Tô Thùy Yên, hay lắm.
Ðọc rất
cảm khái. Thế chị nghĩ sao chuyện người ta nói “Văn là người?”
Th. Vũ:
Tôi thấy
không phải vậy đâu. Cũng như mấy người trong Làng Báo Chí đó, họ nói
tôi đọc
tiểu thuyết của chị tưởng chị ghê gớm, dữ dằn lắm, ai ngờ chị hiền queo
à. Tôi
nói những người nào vô văn chương mà ghê gớm đó là vì trong đời sống
hằng ngày
người ta hiền quá, nên mới nhảy vô văn chương mà phá. Còn như chị V.
đó, trong
văn chương hiền queo à, nói toàn tình thương yêu, nhưng trong đời sống
thì phá
dữ. Tôi sống đời sống hiền lành quá, tình ái cũng hiền lành quá, vô đó
quậy
chơi... Cũng như ông Yên đó, nhìn trong văn chương giống như người hùng
nghe,
té ra ông ấy nhát như cáy. Hồi đó tôi cũng mê thơ ông ấy lắm. Có một
lần ông ấy
làm thơ xong đưa tôi coi, hỏi được không, tôi nói cũng đỡ đỡ, ông ấy
chửi quá.
Tôi nói đỡ đỡ là tôi an ủi ông ấy. Chứ tôi hỏi anh ông ấy làm một bài
thơ cực
khổ lắm, ông ấy làm rồi xé, tôi đổ mấy thùng rác ông ấy mới làm được
một bài
thơ. Gọi là ông ấy “trạm” thơ mới đúng, chứ đâu phải có hứng mà viết
ra. Tôi
nói “đỡ đỡ” là tốt lắm rồi đó. Ông ấy bảo cả nước nó ngả mũ chào tôi về
thi ca
mà bà nói vậy... Nhưng tôi nói ông trạm thơ riết đọc nó chán, hết linh,
bởi ngày
nào tôi cũng phải đọc tới đọc lui thì còn thấy hay gì nữa.
Đỗ Tăng Bí
Trích
Người Việt
online