AI LAO – SÔNG NÚI CHÂN TÌNH
THÍCH ĐỒNG
VĂN
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên
khác biệt. Chuyến đi Ai
Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng
có nhân
duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương
Trượng
được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ
thời gian
ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ
ghé Bồ đề
Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường
Đại học
Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ
duyên được
gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù
lại phần
lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh
viên
hoặc ở nhà trọ.
Cũng trong năm nầy, Đức Đạt Lai Lạt Ma
gửi thiệp cung thỉnh
Thượng Tọa tham dự và đọc tham luận tại hội thảo lớn tại Tibet House,
thủ đô
New Delhi với sự hiện diện của nhiều tôn giáo và có mặt nhiều chính
khách lớn
trên thế giới, tổ chức vào ngày 6 tháng 10 đến ngày 8 tháng 10. Thế là
có một
chuyến đi vòng quanh thế giới xuất phát từ Đức đi Bồ đề Đạo tràng, rồi
đến New
Delhi trước khi qua Úc thời gian hơn bốn tháng dài.
Gần ngày lên đường, một trang thư khác
từ chùa Bàng Long, Ai
Lao gửi sang cung thỉnh Thượng Toạ quang lâm chứng minh lễ an trí xá
lợi cố Hòa
Thượng Viện chủ chùa Hoa Nghiêm, Pháp quốc vừa thị tịch. Môn đồ pháp
quyến có ý
nguyện cung thỉnh xá lợi Ngài về Ai Lao an trí ở chùa Bàng Long, nơi mà
trước
năm 1975, cố Hòa thượng hoằng pháp độ sanh. Bây giờ, vẫn còn đó là ngôi
chùa
Bàng Long to lớn do hai sư cô Đàm Ngọc, Đàm Quy đệ tử của Hòa Thượng
đảm nhận
trụ trì. Hai sư cô mong ước Phật tử chùa Bàng Long được một lần chiêm
ngưỡng
Thượng Toạ Phượng Trượng, Người đã dành cho hai sư cô thuận duyên để
sang chùa
Viên Giác an cư kiết hạ đến hai lần.
Dù thương hai sư cô đang làm Phật sự ở
nơi xứ Lào xa xôi, và
dù lúc nào cũng ghi nhớ thâm tình của cố Hòa Thượng dành cho Thượng Tọa
thời
gian xây dựng ngôi chùa Viên Giác ở Đức nhưng không sao hứa khả lời
cung thỉnh
của hai sư cô được. Thượng Tọa chỉ dạy ba chúng tôi lên đường sớm hơn
dự định
để sang Ai lao dự lễ và giúp hai sư cô những gì có thể giúp được.
Chuyến đi
ngoài dự tính sung sướng vô cùng. Sung sướng thứ nhất là được dự lễ hồi
quy
Phật quốc, (vì nước Lào cũng được xem là xứ Phật) của Giác Linh Hòa
Thượng
Trung Quán, người chúng tôi hằng cung kính ngưỡng mộ sự tu hành và
phiên dịch
kinh điển. Sung sướng thứ hai là được đặt chân đến đất nước phía bên
Tây Trường
Sơn. Sung sướng thứ ba là được thăm chùa Bàng Long, thăm hai sư cô mà
trước đây
tôi hứa sẽ có một lần dừng chân ở thượng nguồn sông Cửu.
Khi nhân viên hãng Hàng Không Thái Lan
cho biết còn 15 phút
nữa, phi cơ đáp xuống phi trường Quốc Tế Viên-chăn, và yêu cầu hành
khách buộc
dây an toàn, tôi nhìn ra bên ngoài cửa kính chỉ thấy một màu sương
trắng ngà
bao phủ. Chiếc phi cơ nhồi lên nhồi xuống liên tục. Trong tôi, bỗng
hiện lên ý
nghĩ phía bên tây trường sơn, nơi người xưa cho rằng đi dễ khó về, chỉ
cần một
sai lệch nhỏ của phi công thôi, chúng tôi sẽ thành người đi không bao
giờ trở
lại. Cho đến khi, ánh nắng chiếu dần vào khung cửa xua tan từng lớp
sương mờ,
nhìn xuống bên dưới tôi thấy dòng sông Mê kông ngoằn ngoèo như một con
trăn
khổng lồ bò trên thảm cỏ xanh, đẹp vô cùng. Làng mạc, nhà cửa, chùa
tháp hiện
dần trong mắt tôi một bức tranh mộc mạc dễ thương. Phía bên kia là Việt
nam quê
hương tôi. Hai đất nước chung một dãy núi, chung một dòng sông. Dãy núi
nầy,
dòng sông nầy là quê hương, nhưng trong không gian nầy vẫn sơn đó, vẫn
thủy đó
mà không phải là quê hương!
Chiếc phi cơ đảo quanh một vòng rồi hạ
cánh nhẹ nhàng xuống
phi trường. Hành khách xuống đất bằng cầu thang và lên xe buýt vào khu
nhà
chính, để làm những thủ tục nhập cảnh xứ Lào. Nhân viên Cảnh sát và Hải
quan
của Lào với những bộ đồng phục màu xanh lá cây, tôi nghĩ những ai là
người Việt
nam đến Lào đầu tiên như tôi, chắc không khỏi ngỡ rằng mình đang về
nước, qua
một cửa khẩu nào đó, mà nhân viên là những người sống xa miền duyên
hải. Không
có gì khó khăn khi qua cửa khẩu. Tất cả đều vui vẻ nhẹ nhàng! Gương mặt
kia và
ánh mắt kia dường như lúc nào cũng lóng lánh nụ cười hiền hòa mến
khách, mong
chiếm nhiều thiện cảm của du khách ngay khi đặt chân xuống phi trường.
Phi trường Lào không rực rỡ như Osaka
giàu sang của nước
Nhât, không hiện đại như Frankfrut tân tiến ở Âu châu, không to lớn như
NewYork
ở Mỹ, mà chỉ vỏn vẹn ba chiếc phi cơ, một của hãng Hàng không Lào, một
của Thái
và một của Việt Nam, nhưng dường như Viên chăn vẫn tự hào rằng mình có
điều gì
đó đã thu hút được những du khách đến từ khắp nơi. Viên chăn, người
Trung Hoa
phiên âm thành Vạn Tượng, một tên gọi nghe không chỉ giàu sang mà còn
hùng
mạnh. Chữ Vạn là con số mười ngàn và Tượng nghĩa là Voi. Con số mười
ngàn thớt
voi đâu thể là ít. Vạn Tượng vừa là sự giàu có về tài nguyên thiên
nhiên của
đất nước nằm ở bên tây dãy Trường sơn, vừa là sức mạnh của ngàn voi,
sức mạnh
của một loại phương tiện chuyên chở khi khoa học chưa phát minh ra máy
móc động
cơ. Trong kinh Phật, có một vị Bồ tát rất gần gũi với chúng ta tên là
Phổ Hiền,
sử dụng đến sức mạnh của bạch tượng làm phương tiện cứu độ chúng sanh.
Một thớt
bạch tượng hiện thân một phân thân Bồ tát Phổ Hiền, một vạn thớt bạch
tượng
hiện thân mười ngàn phân thân, và như thế hàng vạn thớt bạch tượng là
hàng vạn
phân thân của Bồ tát Phổ Hiền đến với chúng sanh. Hay là Ai Lao -
khoảng không
gian chạy dài nằm giữa dãy Trường sơn hùng vĩ và dòng sông Mê kông đục
màu phù
sa là một trong những đạo tràng của Bồ tát Phổ Hiên đang hành đạo ở thế
giới
chúng ta.
Rồi ra khỏi phi trường, gặp quý thầy
từ Việt nam lên Bàng
Long trước một hôm, gặp sư cô Đàm Ngọc trụ trì chùa Bàng Long, niềm
vui, tiếng
cười, tiếng hỏi chào làm rộn cả không gian vốn yên lặng của phi trường.
Người
Lào cũng nhìn chúng tôi như những người đến từ thế giới xa lạ, có lẽ vì
chiếc
áo nâu sồng đơn sơ và rất giản dị, khác với tấm y vàng sậm trên vai quý
sư. Đón
chúng tôi, hai sư cô chuẩn bị đến ba xe con, thế mà cả ba xe đều đầy
người trên
con đường không xa mấy để trở về chùa.
Câu thơ “Đôi
mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ, Áo
màu xanh không xanh thẳm rừng hoang” của Thượng Toạ Thị Ngạn, một nhà
thơ vừa
thi sĩ vừa tu sĩ, sinh ra nơi xứ Lào bỗng hiện lên trong tôi khi tôi
đến nơi
nầy. Đôi mắt ướt có lẽ không phải vì buồn khóc, không phải vì mừng vui,
mà đôi
mắt ướt của hữu tình dường như trong tâm chứa đầy năng lượng từ ái bao
dung.
Đôi mắt của thiên thần chưa từng sa đoạ, đôi mắt của Bồ tát yêu đời vì
đời là
môi trường thích hợp, để thực hiện những hoài bão thiêng liêng mầu
nhiệm của
mình. Tôi bỗng thấy đôi mắt ấy ở nơi nầy, ở Bàng Long, ở phố thị đơn
giản của
thủ đô Vạn Tượng, ở những ngôi chùa Lào to lớn mênh mông, ở bờ bên nầy
của dòng
sông Mê kông, mà bên kia là thành phố Thái giàu sang sung túc. Và tôi
thấy
khung trời hội cũ cũng là đây. Còn nơi nào bình yên hơn xứ sở của chùa
tháp,
những ngôi chùa mái cong cao nằm giữa rừng cây xanh lá sum sê, và thấp
thoáng
qua lại là những chiếc y vàng thanh thoát trang nghiêm. Đường phố tuy
cũng san
sát những ngôi nhà gạch nhưng thật là giản đơn. Phương tiện giao thông
vẫn xe
hơi, xe máy, xe đạp thông thường nhưng còn một cái gì lắng dịu và yên
tĩnh của
tự nhiên. Không gian thành phố chưa bị ngộp trong tiếng ồn như Bangkok
của Thái
Lan, như Hongkong và như Sài gòn náo nhiệt. Tất cả đều an tịnh, mà sức
an tịnh
ấy đến ngút ngàn được khởi lên từ một tâm hồn thuần chất và trinh
nguyên. Sắc
màu Viên chăn là những gam màu dịu dàng đơn giản trong trang phục của
những cô
gái Lào chỉ một màu sẫm nhạt, của những chiếc áo dài tay nhẹ nhàng và
của những
chiếc váy một màu nâu nhẹ dài phủ gót. Dường như những cái gọi là model
thời
thượng của Bangkok, của Hongkong, Sài gòn vẫn chưa qua khỏi dòng sông
Mê kông
để xâm nhập vào xứ nầy. Vài hiệu buôn của người bản xứ mở cửa nhưng chỉ
là sự
bán buôn thông lệ mà thôi. Có lẽ trong chợ mới là nơi gặp gỡ của kẻ bán
người
mua.
Ngày đầu tiên sư cô Đàm Ngọc đưa đi
thăm nhiều ngôi chùa Lớn
ở Viên Chăn, đặc biệt được hầu thăm Vua Sãi, vị lãnh đạo tâm linh của
tăng già
và Phật tử Ai Lao ở một ngôi chùa lớn tại Trung tâm thủ đô. Sư cô thật
là người
khéo ngoại giao. Vị lãnh đạo nào cũng vậy dù cho là sự lãnh đạo tâm
linh, việc
hạn chế tiếp khách là điều tất nhiên, thế mà chúng tôi được diện kiến
ngài.
Khác với đức Đạt Lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng, Vua Sãi chỉ là vị
tăng
vương nhưng Ngài cũng chỉ xuất hiện vào những dịp lễ hội lớn của tăng
đoàn mà
thôi. Trong một căn phòng nho nhỏ ấm cúng, khoác chiếc y vàng sẫm của
truyền
thống Lào, Ngài như một vầng hào quang sáng ngời từ ngàn xưa còn lưu
lại. Tuy
là người Lào nhưng Vua Sãi có phong thái Ấn độ Aryan nhiều hơn. Nhìn
ngài tôi
cứ ngỡ đang diện kiến một vị tăng nhân Ấn độ xa xưa, đã có hơn một lần
chinh
phục những lý thuyết ngoại đạo trên bình nguyên Ấn Hà rộng lớn bao la.
Ngài
trông uy nghiêm và uy nghiêm hơn khi chúng tôi quỳ xuống bên ngài xin
được chụp
ảnh lưu niệm chung với ngài. Chiếc máy ảnh chớp nháy liên tục khi chúng
tôi lần
lượt từng người quỳ bên chân ngài. Chúng tôi như những người con xa trở
về với
người cha hiền, để nhận lấy những ân điển từ bi cha dành cho con. Chiều
ấy,
trời mưa nhè nhẹ khi phái đoàn về chùa Bàng Long. Thiên thần Ai Lao
chào đón
chúng tôi bằng những giọt nước cam lồ tươi mát, để nghe trong tim một
nỗi niềm
xao xuyến dâng trào khi đến xứ nầy.
Nếu từ đất Ấn linh thiêng, Phật giáo
khởi sinh, thì hôm nay
không ai không biết nơi suối nguồn khởi nguyên ấy đã khô rồi dòng suối
ngọt
ngào năm xưa, chỉ còn lại là những dấu tích một thời vàng son của đại
đế Asoka,
dựng trụ đá, xây tháp miếu và kiết tập kinh điển, chỉ còn lại trơ gan
cùng tuế
nguyệt nền móng lâu đài hùng vĩ của Đại học Nalanda, một thời nêu danh
kim cổ,
chỉ còn lại những động đá vô tình ghi dấu mỹ thuật một thời Phật giáo
chiếm
lĩnh văn đàn văn hoá dân tộc Aryan hùng cường. Xa nguồn con nước mới
làm tròn
bổn phận chuyển tải phù sa cho đời, Phật giáo rời quê cha vận sức tùy
duyên mà
cảm hoá các dân tộc láng giềng và hôm nay giáo lý ấy đã đáp xuống phi
trường văn
hóa Tây phương.
Nếu hai ngàn năm trước, đến đất Việt
Phật giáo đã chuyển
mình để trở thành bảo vật trân quý của con Rồng, cháu Lạc, thì gia bảo
nầy ngày
nay được mang theo bên mình khi người con Việt chấp nhận sống đời tha
phương.
Bàng Long chính là một trong những bảo vật ấy của người con Việt sống ở
bên kia
dãy Trường sơn, có dòng sông Cửu hiền hoà dễ thương. Toạ lạc ngay điểm
tương
giao của phong thủy có dòng sông Cửu như một con rồng cuộn mình dấu
trong dãy
Trường sơn xanh thẳm như một hang động khổng lồ, Bàng Long như một con
rồng ẩn
dật trong tận hang sâu. Đã nhiều đời trụ trì đến Bàng Long hành Phật sự
rồi lên
đường nhưng sự thật không ai phủ nhận là ai đến lưu trú ở Bàng Long đều
làm nên
sự nghiệp.
Nhiều đời trụ trì góp tâm góp sức xây
dựng Bàng Long thật bề
thế trang nghiêm. Ngôi Đại Hùng Bảo Điện cao ngút trời xanh, như hình
dáng đầu
của một con rồng trong tư thế chuẩn bị phóng lên không trung. Hai ngôi
nhà tăng
ở hai bên không kém phần tiện nghi. Một bảo tháp mang dáng vóc mỹ thuật
Phật
giáo địa phương như sự kết hợp hài hòa của hai Văn Hóa Việt Lào, tôn
trí xá lợi
của Phật và các tôn tượng Phật, Bồ tát, và chư vị Thanh Văn do cố Hòa
Thượng
đích thân tạo đắp. Trước tháp là tôn tượng Bồ tát Bạch Y Quan Thế Âm
cao hơn
bảy mét thật uy nghiêm do tự tay cố Hòa Thượng tạo và sau nầy cố Thượng
Toạ
Minh Phát, chùa Ấn Quang, Sài gòn phát tâm tu chỉnh lại.
Thưở sanh tiền, cố Hòa Thượng Trung
Quán lập hạnh nguyện nơi
nào ngài đến nơi đó là phạm vũ trang nghiêm, chỗ nào ngài ở chỗ đó là
đạo tràng
tu học và phiên dịch kinh điển. Bàng Long ngày hôm nay còn rất nhiều
tác phẩm
điêu khắc bằng xi măng tuy không sắc sảo về nghệ thuật nhưng bên trong
chứa
đựng trọn vẹn tâm nguyện chân thành của cố Hòa Thượng. Có lẽ vì thế mà
Bàng
Long được vinh dự lưu giữ xá lợi của ngài. Tăng ni người Việt ở Hải
ngoại,
không ai không biết đến công đức suốt thời gian hơn 60 năm đúc chuông,
tạo
tượng, lập chùa, dịch kinh, dạy chúng, độ người của ngài. Công đức ấy
trở thành
pháp thân nhiệm mầu mãi mãi tồn tại thật không thể nghĩ lường. Cho đến
bao giờ
còn lo đến việc chùa việc Phật, cho đến khi đó vẫn còn thọ hưởng ân
điển nầy từ
Ngài. Và ai đến và trang trải tâm nguyện yêu thương ở Bàng Long một lần
thôi
cũng có thể tung bay lên trời xanh giải thoát, vì Bàng Long là nơi rồng
thiêng chuẩn
bị cất cánh bay cao.
Nghi thức
cung đón xá lợi cố Hòa Thượng vào hai ngày 6 và 7 tháng 09 năm 2003 do Đại đức Thích Đồng Văn, và Đại Đức Thích
Thường Chiếu điều hành. Phần một tổ chức trong ngày đầu theo nghi thức
truyền
thống Phật giáo Đại thừa của Việt Nam, và phần hai vào ngày thứ hai
theo truyền
thống Phật giáo Nguyên thủy ở Lào. Không khí ngày đầu tiên thiền vị
thuần tuý
Việt nam, như những đại lễ ở Huế và Sài gòn. 9 giờ 30 sáng ba hồi
chuông trống
bát nhã ngân lên, chư tăng ni môn đồ pháp quyến tay nâng khay lễ nghi
ngút
hương trầm thành tâm phụng thỉnh xá lợi cố Hòa Thượng đăng lâm tổ đường
và cung
đón phái đoàn môn đồ pháp quyến từ Âu châu về chốn Tổ. Hôm ấy, ban nghi
lễ gồm
có Đại Đức Thích Đồng Văn, Đại Đức Thích Trí Thông, Đại Đức Thích
Nguyên Thành,
Đại Đức Thích Hạnh Giới, Đại Đức Thích Minh Đạt và chư tăng ni trong
các nghi
thức cúng Ngọ Phật, cúng Tổ và cúng Chẩn tế Cô hồn. Dù không cùng chất
giọng
của một địa phương và cũng không cùng một phong thái thiền gia, nhưng
những âm
điệu đậm đà của Hà nội, của Hà Nam, Ninh Bình, Huế, Bình Định, Nha
trang, Sài
gòn hòa với nhau nghe như vừa trầm bỗng, vừa du dương, vừa thanh thoát,
vừa
thực tế, như gieo vào tâm thức của những người con Việt, sống nơi tha
phương
những hương liệu giải thoát khắp ba miền đất Việt. Sân chùa chìm lắng
trong
tiếng kinh, tiếng mõ. Thời gian như ngừng lại và mọi vật lặng yên như
để lắng
nghe bài tiểu sử của cố Hòa Thượng do Đại Đức Thường Chiếu tuyên đọc.
Hôm sau là lễ cúng dường trai tăng
theo truyền thống Ai Lao.
Bàng Long như ngày hội lớn. Sân chùa từ sáng sớm đã rộn ràng khách thập
phương.
Từng đoàn người mang vật phẩm cúng dường vân tập về chùa, và yên lặng
thành
kính chờ trong Chánh Điện. Xướng ngôn viên làm việc cả hai ngôn ngữ
Việt-Lào
xướng lên liên tục để điều hành Phật sự trong khuôn viên chùa. Hai sư
cô Đàm
Ngọc, Đàm Quy thiết soạn ba chiếc giường nho nhỏ xinh xinh đủ một người
nằm, và
trên gường đầy đủ những đồ dùng của một vị xuất gia, cúng dường lên ba
vị sư cả
ở ba ngôi chùa lớn tại thủ đô Viên Chăn. Lần đầu tiên, tôi được biết
một buổi
lễ cúng dường trang trọng theo truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ như
thế. Vật
dụng của một vị tăng từ ba y, bình bát, thuốc men, mền, gối, dép, gậy,
có cả
nồi cơm điện, bình nấu nước bằng điện, khay trầu, có lẽ vì các sư Lào
ăn trầu,
ống nhổ, dù, áo mưa, bút, giấy v.v….nhiều lắm có đủ trên giường. Có lẽ
trị giá
mỗi cái giường như vậy lên đến mấy trăm đô. Sau lễ trai tăng, ba chiếc
giường
nầy được Phật tử khiêng thẳng đến chùa của những vị sư ấy, kèm với lễ
nhạc và
niềm vui sướng hân hoan của Phật tử đưa tiễn như một đám rước thần ở
Việt Nam.
Ngoài ra, còn có hàng trăm pháp y, đồ vật dụng, thực phẩm v.v.. được
mang vào
trong chánh điện chất cao như núi vật phẩm trước Phật, Tôi nghĩ chắc
Phật cũng
mĩm cười vui vẻ chứng minh cho hàng đệ tử của ngài hôm nay được nhờ ân
đức tu
hành trong ba a tăng kỳ kiếp mà thọ nhận sự cúng dường của tín thí đàn
na.
Hơn 8 giờ sáng, chư tăng Lào ở các
chùa trong thủ đô quang
lâm đến Bàng Long. Có vị đi bộ, có vị đi bằng xe đưa đón. Tất cả phân
ban an
tọa trong chánh điện. Ban tổ chức phân phối cho mọi người một cái bình
bát, một
chai nước trong, không phải để uống mà để làm lễ hồi hướng công đức.
Phần nghi
thức tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng Lào được một vi Thượng Tọa đặc
trách
nghi lễ cử lên và điều hành nghi thức cúng dường bằng tiếng Lào. Sau
đó, chư
tăng Việt Nam thọ trì một thời kinh bằng tiếng Viêt. Kinh Bát Nhã, bài
kinh
được xem như tinh yếu của Phật giáo Đại thừa được cất lên và hơn hai
phần ba
phật tử hiện diện trong chánh điện là người Lào gốc Việt hòa theo. Lời
kinh
vang lên thật hùng tráng như đại nguyện đại từ đại bi của Bồ tát Quan
thế Âm
ban phát cho đời.
Đối diện với những người Phật tử thuần
tín Tam Bảo ở nơi
nầy, trong tôi khởi lên ý niệm có lẽ ai đã đến Ai Lao tiếp xúc với
người Lào,
cũng phải công nhận người Lào hiền hậu dễ thương như tôi đã nói ở trên,
nhưng
hơn thế nữa, có một cái gì đó đẹp làm sao! Cái đẹp ở đây không chỉ ở
dáng đi
thon thả, với chiếc xà rông xinh xinh, với mái tóc huyền dịu, với màu
da ngâm
đen của núi rừng cao nguyên, mà là nét đẹp ẩn hiện trong niềm kính Phật
trọng
Tăng, cái đẹp của một bức tranh trên đó có thiên thần cung kính trước
hình ảnh
thanh thoát từ bi của đức Phật. Dáng quỳ trên hai chân, hai tay dâng
bát cơm
cúng dường còn gì đẹp hơn! Và được tô thêm bằng màu y vàng của từng
đoàn chư
tăng thong thả từng bước chân giải thoát nhưng uy nghiêm như tượng
vương oai
hùng hạ sơn, dừng lại đôi phút yên lặng mĩm cười, thọ nhận sự cúng
dường trang
trọng, rồi thong thả từng bước từng bước, bước đi.
Sân chùa Bàng Long theo tôi rộng mênh
mông nhưng không đủ
chỗ để làm sáng lên, làm đẹp lên bằng hình ảnh đoàn chư tăng thong thả
từng bước
chân khất thực xung quanh sân chùa. Thật tiếc làm sao! Ban tổ chức phải
sắp xếp
những vật dụng như bao, túi, đồ đựng thức ăn khô, đồ đựng cơm thật lớn
để tiếp
nhận đồ cúng dường. Bên trong chánh điện hai sư cô Đàm Ngọc, Đàm Quy và
môn đồ
pháp quyến đảnh lễ dâng y cúng dường chư tăng, trước khi Phật tử trở
lại chánh
điện để hồi hướng công đức. Là người xuất gia ai cũng biết Khất thực là
một
trong những hạnh nguyện của đức Phật khi ngài còn tại thế. Một trong
những ý
nghĩa của hai chữ Tỳ kheo là Khất sĩ nghĩa là người đi xin. Trước là
xin giáo
pháp của chư Phật, sau là xin cơm của tín thí đàn na. Thế nhưng, chính
tôi có
lần gặp một vị khất sĩ và rất ngạc nhiên khi thầy ấy cho tôi biết rằng
thầy
phát nguyện đi xin nghiệp lực của chúng sanh, hẳn nhiên là bất thiện
nghiệp.
Tôi nghe có cái gì ớn lạnh trong thân. Một tu sĩ vào đời để lãnh nghiệp
cho
chúng sanh! Cao cả thay! Hùng dũng thay!
Ngày nay, ở nước tôi hình ảnh vị tăng
đi khất thực không còn
nữa bởi nhiều lý do không hay cho lắm! Thật là buồn khi chính Giáo Hội
Phật
Giáo phải ra thông tư đình chỉ việc khất thực để bảo vệ danh dự của
tăng đoàn
nhất là tăng đoàn của hệ phái Khất sĩ và Phật giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam.
Đã có nhiều cơ duyên tôi thực hành
hạnh khất thực của Phật,
dù tu theo truyền thống Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam.
Lần khất
thực đầu
tiên, tôi cùng với Đại Đức Hạnh Tấn trên con đường hơn 200 cây số từ
Varanasi
về Bồ đề Đạo tràng. Khất thực trước những người ngoại đạo thật không
phải là
điều thuận duyên, nhưng may mắn chúng tôi cũng nhận được tuy không
nhiều nhưng
đậm đà từ những tấm lòng quý mến chúng tôi của những người Ấn nghèo
khổ. Có
hôm, chỉ nhận vỏn vẹn ba nắm gạo rang, thế mà Đại Đức Hạnh Tấn cho rằng
đó là
cơm của cõi trời Hương Tích. Có khi chỉ nhận vài ba trái chuối vừa chín
tới, nhưng
tận sâu trong tâm thức của tôi khởi lên sự cảm niệm thâm sâu. Có lần,
chỉ nhận
hai ly sữa của một gia đình nghèo thật nghèo, tôi chứng kiến Đại Đức
Hạnh Tấn
hồi hướng trọn vẹn tâm đạo trang nghiêm qua câu mật chú. Thấy và nghe
họ lập đi
lập lại ba lần câu mật chú do Đại Đức truyền trao, tôi bỗng thấy có một
năng
lượng nhiệm mầu hiện hữu trước tôi, và tôi tin rằng nhờ năng lượng ấy
vợ chồng
nghèo kia sẽ vượt qua những khó khăn của gia cảnh trong hiện tại.
Lần khất
thực thứ hai
của tôi ở tại Bangkok, thủ đô của Vương quốc Thái thuần tuý Phật giáo.
Từng
bước nhẹ nhàng đi theo một Sa di vào trong phố thị của người Trung Hoa
sống
trên đất Thái, dù không phải là phố Hoa ở Sài gòn nhưng cảm giác trong
tôi tuy
hai mà một. Cảm giác nầy của tôi có được ngay khi tôi bước vào chùa Phổ
Phước,
ngôi chùa chúng tôi trú trong thời gian ở Bangkok. Là một trong những
ngôi chùa
theo truyền thống Việt nam, từ thời Vua Gia Long sang lánh nạn ở Thái
lan, hơn
200 năm qua, chùa có nhiều đời tổ sư người Việt sang hoằng pháp, nhưng
cho đến
gần đây vì vấn đề bang giao không còn như xưa nữa, những vị tu sĩ trông
nom
những ngôi chùa nầy được thay dần bằng chư tăng người Thái hoặc người
Thái gốc
Hoa. Hòa Thượng Cảnh Chiếu trụ trì chùa Phổ Phước, một người Thái gốc
Hoa, đệ
tử của một vị tăng người Việt, có thể nói được ba ngôn ngữ Thái, Hoa và
Việt,
tu theo Phật giáo Việt Nam, giữ đúng truyền thống đắp y phục, tụng
kinh, niệm
Phật, nghi lễ v.v..của chư tổ sư, ngay cả việc ăn chay. Dù cố gắng lưu
giữ
truyền thống Phât Giáo Việt Nam do thầy tổ để lại, nhưng đệ tử của ngài
đa số
là người Thái chỉ phát nguyện xuất gia đoản kỳ nghĩa là không phải tu
suốt đời
như ở Việt nam cho nên chùa trở thành môi trường giáo dục đạo đức mà
thôi. Gần
đây, Hòa Thượng xây dựng một tòa lầu cao đến bảy tầng làm Phật Học Viện
có
khoảng 150 chú Sa Di và tân Tỳ Kheo tu học, nhưng vấn đề ẩm thực của
đại chúng
dựa trên sự cúng dường của tín thí đàn na. Hằng ngày vào mỗi buổi sáng
từng
đoàn Sa di, và tân Tỳ kheo bủa ra khắp phố để đi thọ nhận vật phẩm cúng
dường.
Về lại chùa, những đồ cúng nhiều vô kể ấy được phân đều cho tất cả đại
chúng
trong tinh thần lợi hòa đồng quân của sáu pháp hòa trong thiền môn. Bởi
thế,
một buổi sáng khất thực ở Thái, với tôi không còn giới hạn trong ý
nghĩa khất
thực mà phải nói đúng hơn là đi nhận thức ăn về cho đại chúng. Thực
phẩm cúng
dường nhiều quá, nhiều đến nỗi tôi không thể nào mang hết nào là cơm,
là canh,
là nước ngọt, là nước tương, nước mắn, cá kho, thịt quay, trứng v.v…
Hôm ấy hai
cánh tay tôi rả rời vì bình bát tôi mang không có dây đeo trên cổ như
những
bình bát khác.
Lần thứ ba
khất thực
của tôi ở thủ đô Viên chăn. Phải nói rằng đây là lần thù thắng nhất
trong ba
lần khất thực. Khoác những chiếc áo tràng nâu, nhựt bình nâu, đắp y
vàng bên
ngoài, chúng tôi sang ngôi chùa Lào gần Bàng Long. Vị Thượng Toạ trụ
trì chùa
hoan hỷ hướng dẫn đoàn chư tăng Việt nam vào thành khất thực. Thanh
thoát như
đức Thế Tôn thị hiện, người ung dung tự tại trong bộ y vàng và bình bát
đeo
ngang vai. Ngài đi trước chúng tôi thứ tự xếp thành hàng một đi theo.
Tất cả
đều chân không, tất cả đều im lặng, một sự im lặng trang nghiêm khởi
lên từ
tàng thức hân hoan. Tôi nghe từng hơi thở nhẹ nhàng, nhẹ nhàng chuyển
động từ
buồng phổi qua tim lên đầu rồi lần theo sống mũi đi ra, đi vào. Ngài
dừng lại,
lưng hơi cúi xuống, thọ nhận một nắm xôi của một bà cụ già. Đến lượt
tôi cũng
dừng lại, giống như ngài tôi cúi xuống thọ nhận một nắm xôi nho nhỏ bà
cụ kính
cẩn đặt vào bát của tôi. Thế gian nầy còn gì đẹp hơn cao quý hơn. Tôi
niệm thầm
“Tài Pháp nhị thí, đẳng vô sai biệt, đàn ba la mật, cụ túc viên mãn”
sau khi
thọ nhận vật phẩm cúng dường. Tôi bước đi, lòng hướng về Phật, về Bồ
tát Quan
Thế Âm tôi thầm nguyện:
Kính bạch
chư Phật,
chư Bồ tát
Nhờ hồng
ân chư Phật,
con được hiện diện hôm nay trên đường phố Viên chăn, có những người
Phật tử
Lào, Phật tử Việt hiền hậu dễ thương nầy, con xin phát nguyện đem hình
ảnh giải
thoát của Ngài đến với tất cả, và mong rằng nhờ phước báo qua sự phát
tâm cúng
dường, lòng họ được thanh thản, cuộc sống của gia đình họ được an khang
và tâm
của họ luôn hướng về Tam Bảo tu hành để rồi ngày càng gần hơn với đạo.
Con đi
khất thực vì Pháp chứ không phải vì thức ăn.
Chúng tôi
không thể
dừng chân ở xứ Lào hơn ba ngày, vì còn nhiều nơi phải đi. Dù trong thâm
tâm ai
cũng muốn ở lại Hai sư cô mong muốn chúng tôi ở lại Bàng Long lâu hơn,
nhưng
không thể được. Đã nhiều lần tôi chia tay người thân, lạy chào sư ông,
chia tay
huynh đệ để bắt đầu những chuyến đi dài, nhưng chưa lần nào in đậm
trong tôi
hơn lần chia tay nầy. Chùa Bàng Long vẫn còn đông người dự hội, chư
tăng đang
dùng ngọ trai. Tôi đảnh lễ Vua Sãi ba lễ, ngài ngồi yên chắp tay nhận
lãnh tất
cả tấm lòng chí thành chí kính của tôi dâng lên ngài. Tiếp theo tôi
đãnh lễ vị
Thượng Tọa điều hành pháp hội, ngài ban cho tôi một bình bát thật mới
và bảo
rằng để làm kỷ niệm nhớ sông núi chân tình Ai Lao, tôi quay sang đảnh
lễ chư
tăng và vái chào tạm biệt quý Phật tử Việt Lào hiền hoà quý mến, tôi
bỗng thấy
có đôi mắt nhiệm mầu sâu thẳm yêu thương. Quý sư cô đưa tôi ra xe và
tôi hẹn
ngày trở lại trong lưu luyến ngậm ngùi.
Ai Lao
sông núi chân
tình, vẫn còn đó trong tôi những hình ảnh không thể nào quên. Hình ảnh
Vua Sãi
đức độ từ bi, hình ảnh chư tăng Lào trang nghiêm thanh thoát, hình ảnh
ngôi
chùa Bàng Long nguy nga hùng dũng, hình ảnh quý sư cô chân tình hiếu
khách,
hình ảnh Phật tử dễ thương. Tất cả in đậm trong tàng thức của tôi như
những hạt
giống trân quý, mong rằng không bao lâu nữa trên con đường hành Phật
sự, những
hạt giống nầy sẽ đủ duyên trở thành những cội cây cao vợi với tàng che
to lớn
che mát cho tất cả những tâm hồn cần nơi nương tựa.
thích đồng văn