Tứ Tuyệt Lý Bạch
Chương 2
Một phong cách độc đáo trong tứ tuyệt
Đời Đường sở dĩ được coi là thời đại cực thịnh của thi ca cổ điển Trung
Quốc
một phần cũng vì nó tập trung được nhiều chưa từng có những giọng điệu
thơ
đầy màu sắc riêng biệt. Như Cao Bỉnh (Minh) điểm qua : "... Từ Thần
Long
trở đi cho đến đầu Khai Nguyên có Trần Tử Ngang cổ kính, trang nhã, Lý
Cự
Sơn văn chương già dặn ... Khoảng Khai Nguyên, Thiên Bảo có Lý Bạch
phiêu
dật, Đỗ Phủ trầm hùng, Mạnh Hạo Nhiên thanh nhã, Vương Duy tinh tế, Chử
Quang
Hy thẳng thắn, hồn nhiên, Vương Xương Linh trong trẻo, Cao Thích, Sầm
Tham
bi tráng, Lý Hân, Thường Kiến siêu phàm..." [ Sđd 77:66 ]. Bấy nhiêu
nhà
thơ lớn, mỗi người một kiểu sáng tác, và họ đều làm tứ tuyệt nhưng
không
phải ai cũng tạo lập được một phong cách riêng trong mảng thơ này. Như
Mạnh
Hạo Nhiên là một nhà thơ lớn mà chính Lý Bạch cũng từng khâm phục,
nhưng
chỉ đọc tứ tuyệt của ông thôi thì chưa đủ để hình dung được thế nào là
một
Mạnh Hạo Nhiên trong tứ tuyệt. Có thể nói, trước Lý Bạch, người ta đã
viết
nhiều bài tứ tuyêt hay, nhưng đó hầu hết là những sáng tác lẻ tẻ, chưa
có
một cây bút nào đủ bản lĩnh để vạch ra một con đường riêng độc đáo mà
nhất
quán trong tứ tuyệt. Vì vậy, đóng góp quan trọng bậc nhất của Lý Bạch ở
đây
là ông không chỉ để lại một mảng thơ phong phú cả về số lượng lẫn nội
dung
mà còn xác lập được vững vàng một phong cách riêng trong tứ tuyệt.
[Sẽ là rất thiếu hụt nếu đánh giá Đỗ Phủ chỉ qua thơ tứ tuyệt của ông,
mặc
dù vị "thi thánh" này cũng để lại một số lượng khá lớn (139 bài thơ) tứ
tuyệt.]
Nhưng nếu chỉ đọc TTLB thôi, người ta đã có thể hình dung được khá đầy
đủ
một tâm hồn và nhân cách thơ vĩ đại. Tất nhiên, nói như vậy không có
nghĩa
là TTLB đã bao quát được toàn bộ mọi vấn đề của thơ Lý Bạch. Ranh giới
giữa
phong cách thơ Lý Bạch nói chung và phong cách TTLB nói riêng tuy có
nhiều
điểm gặp gỡ nhưng không hoàn toàn trùng khít. Như chương 1, luận án đã
cố
gắng nhấn mạnh tính độc lập và khác biệt tương đối của TTLB so với thơ
khác
thể của ông. Có những điểm cá tính sáng tạo của Lý Bạch thể hiện tập
trung
hơn trong tứ tuyệt và ngược lại. ở đây, do phạm vi của luận án, chúng
tôi
chỉ đề cậ(p tới những nét nổi bật trong phong cách thơ Lý Bạch thể hiện
ở
tứ tuyệt.
2.1 Cái " Tôi - cá nhân , cá tính" :
Mặc dù Lý Bạch và Đỗ Phủ có địa vị ngang nhau trên thi đàn, nhưng nhà
nghiên
cứu Stephen Owen lại cho rằng : sau này, người ta đã mô phỏng thơ Đỗ
nhiều
hơn thơ Lý. Giải thích hiện tượng này, ông Owen đã rất lưu ý đến vấn đề
cái
Tôi trong thơ Lý Bạch :
"... thiên tài của Đỗ Phủ dường như bằng cách này hay cách khác có thể
bắt
chước được hơn của Lý Bạch. Lý do căn bản khiến các nhà thơ trẻ không
theo
mẫu của Lý Bạch là vì nghệ thuật của Lý Bạch hoàn toàn tự nhiên, không
thể
nắm bắt được và hầu như được truyền đến một cách thần tiên. Nhưng
nguyên
nhân thực sự khiến người ta không thể bắt chước được Lý Bạch là vì thơ
ca
Lý Bạch trước hết liên quan tới chính ông. Mục đích của nó là nhằm thể
hiện
một nhân cách đơn nhất, qua các nhân vật trong thơ cũng như qua người
sáng
tạo được ám chỉ đằng sau bài thơ. Việc bắt chước tất yếu phải thất bại
vì
nó mâu thuẫn với chính các lý do tồn tại của kiểu văn phong này. "
[104:110].
Có thể thấy rằng không chỉ giới học giả phương Tây như Stephen Owen
quan
tâm đến cái Tôi trong thơ Lý Bạch mà ở Việt Nam hay Trung Quốc, khi nói
về
sáng tác của Lý Bạch, người ta bao giờ cũng nhấn mạnh đến nó như một
nội
dung chủ đạo, xuyên suốt. Cho nên khi bàn về sự khác nhau giữa Lý Bạch
-
Đỗ Phủ, tác giả của "Trung Hoa văn hoá sử" đã xem việc biểu hiện cái
"Tôi
cá tính" là đặc trưng hàng đầu của thơ Lý Bạch :
"Khác với Lý Bạch thiên về biểu hiện "cái Tôi cá tính", Đỗ Phủ lại có
khuynh
hướng khẳng định "cái Tôi xã hội" ..." [117:601]
Cũng cần phải nói rằng ngay từ xa xưa, người ta đã có quan niệm "Thi dĩ
ngôn
chí". "Nói chí" là một cách khẳng định cái Tôi. Thơ ca cổ điển Trung
Quốc
có xu hướng khách quan hóa, "vô ngã", "phá ngã", thực ra là để giải
phóng
cái Tôi ra khỏi giới hạn của không gian, thời gian, cá nhân cụ thể, đem
cho
nó một sức sống trường cửu. Nhu cầu khẳng định cái Tôi luôn luôn là ý
tưởng
xuyên suốt các thời kỳ thơ ca. Cho nên mới xuất hiện đầy rẫy những bài
thơ
đại ngôn, kể từ Khuất Nguyên, Lý - Đỗ... đến các nhà thơ hậu thế, dù vĩ
đại
hay vô danh cũng đều thích lấy những cái phi thường, ngoài chuẩn để
ngầm
ví với mình (núi cao, phượng hoàng, đại bàng, cá kình, cuồng khách, anh
hùng...),
dựng lên một cái Tôi cô đơn, vĩ đại, nghênh ngang trong trời đất. Xét
từ
góc độ ấy, việc Lý Bạch đề cao cái Tôi trong thơ ông chưa phải là một
nội
dung hoàn toàn mới mẻ. Lý Bạch độc đáo chính là ở chỗ ông dám phá bỏ
cái
Tôi tinh thần, lý tưởng vẫn ngự trị trong thơ ca truyền thống, thay vào
đó
một hình tượng con người đầy cá tính, đơn nhất - là chính Lý Bạch. Với
sự
thể hiện cao độ cái "Tôi cá nhân", Lý Bạch đã vạch ra con đường sáng
tạo
chưa từng có mà Lý Dương Băng, người cùng thời với ông đã phải khâm
phục
thốt lên "Đơn độc đi suốt nghìn năm, duy chỉ có ông" ("Thiên tải độc
bộ,
duy công nhất nhân" - "Thảo đường thi tập"). Không giống như nhiều nhà
thơ
khác phải ép mình vào những hình mẫu chung chung để vay mượn sinh mệnh
trường
cửu, Lý Bạch đã để cho cái Tôi cá nhân ngạo nghễ thách đố thời gian và
ông
đã thắng !
[Dấu
ấn cá nhân và cá tính tràn ngập trong TTLB làm thành một nét phong cách
đặc
trưng.]
2.1.1 Để bộc lộ cái Tôi thì những thể thơ dài, tự do thường chiếm ưu
thế
hơn vì nó cho phép diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc, diễn biến tâm lý,
hành
động... Có lẽ vì thế mà giới nghiên cứu phương Tây khi đặc biệt đề cao
cái
"Tôi cá nhân, cá tính" của Lý Bạch đã dồn sự chú ý vào mảng thơ cổ
phong,
nhạc phủ (trường thiên) mà ít nhắc tới ( TTLB. Nhưng thực ra, ở chừng
mực
nhất định, TTLB lại thể hiện một cái "Tôi cá nhân" có lẽ còn đầy đủ và
sinh
động hơn cả trong nhạc phủ, cổ phong của ông nữa. Sở dĩ như vậy vì Lý
Bạch
đã khám phá và khai thác được khả năng "ký sự trữ tình" của tứ tuyệt.
Tứ
tuyệt ngắn nên nhanh, có thể chộp tả nhiều tình thiết sinh hoạt, tâm lý
bất
chợt lóe lên trong đời sống, ký họa chân dung "cái Tôi" từ nhiều góc độ
sinh
động (điều này thơ trường thiên khó theo kịp). Chưa bao giờ tứ tuyệt
lại
gắn với đời sống sinh hoạt của một cá nhân nhiều như ở TTLB. Tứ tuyệt
thời
Nam - Bắc triều đa phần sưu tập từ trong dân gian, do vậy mà lời của
cái
Tôi ít nhiều thường là phát ngôn là của một "dàn đồng ca" (chữ dùng của
Bakhtin)
hơn là của một cá nhân. Tứ tuyệt Sơ Đường lại càng ít quan tâm đến
những
vấn đề sinh hoạt đời tư. Riêng đến TTLB thì có thể nói rằng chỉ đọc tên
các
bài thơ thôi cũng thấy đầy những tên người, tên đất và các tình huống
đời
thường gắn với riêng Lý Bạch:"Tống Khư Lương huề nhị kỹ phó Hội Kê hí
hữu
thủ tặng" ("Tiễn Khư Lương mang hai kỹ nữ đến Hội Kê vui chơi, có bài
thơ
tặng"), "Tống ngoại sanh Trịnh Quán tòng quân", "Văn Vương Xương Linh
tả
thiên Long Tiêu dao hữu thử ký" ("Nghe tin Vương Xương Linh bị biếm
trích
về Long Tiêu, từ nơi xa có bài thơ này gửi tặng"), "Đáp Hồ Châu Gia
Diệp
tư mã vấn Bạch thị hà nhân" ("Trả lời quan tư mã Gia Diệp ở Hồ Châu hỏi
Bạch
là ai")... Thậm chí Lý Bạch có bài tứ tuyệt tên dài gấp rưỡi cả bài
thơ,
ghi lại chi tiết tình huống sáng tác ( :"Bạch vi thời mộ huyện tiểu
lại,
nhân lệnh ngọa nội, thường khu ngưu kinh đường, lệnh thê nô, tương gia
cật
trách, Bạch cức dĩ thi tạ vân" ("Bạch thời hàn vi đến chỗ quan huyện,
quan
nằm trong nhà, thường xua trâu làm ồn công đường, quan bà giận trách
mắng,
Bạch lập tức làm thơ đối đáp"). Không chỉ tên bài có xu hướng cụ thể
hóa
mà ngay trong nội dung TTLB cũng đầy những chi tiết riêng tư, về phản
ánh
sinh hoạt còn nhiều hơn cả trong thơ trường thiên của ông. Đọc toàn bộ
TTLB,
có thể hình dung được khá rõ cuộc sống của Lý Bạch, những miền đất mà
ông
qua, những con người ông gặp gỡ quen biết hay khâm phục... thấy được sở
thích
của ông, cá tính thông minh và ngang ngạnh, tưởng tượng ra khi ông say
rượu,
cười đùa, nhận quà, tặng thơ hay khóc bạn,... Tứ tuyệt của ông như một
dạng
nhật ký trữ tình, ghi lại những cảm xúc và sự kiện hàng ngày mà ông
chợt
hứng khởi, lưu tâm. Có thể nói Lý Bạch hầu như là người đầu tiên khai
thác
vai trò này của tứ tuyệt. Đọc tuyệt cú Sơ Đường như của Vương Bột, Thẩm
-
Tống, cho đến Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên..., thấy cái tôi tư tưởng,
triết
nhân hay cái tôi tâm lý - xã hội luôn lấn lướt con người cá thể, riêng
tư
của chính nhà thơ. Khó có thể biết được trong đời thật họ làm gì, sống
ra
sao, thích cái gì... Còn với Lý Bạch thì khác. Ông không ngần ngại ra
mặt
xưng Tôi hoặc xưng tên trực tiếp trong nhiều bài tứ tuyệt của mình -
điều
mà các nhà thơ khách rất tránh. Ông viết những câu thơ làm người ta
kinh
ngạc vì nó quá tự nhiên và quá thật :
- " Kim nhật trúc lâm yến,
Ngã gia hiền đãi lang ..."
("Bồi thị lang thúc du Động Đình túy hậu" - bài 1)
(Hôm nay yến tiệc trong rừng trúc
Nhà ta trân trọng đãi mời anh...)
- "Ngô ái Đồng Quan lạc
Thiên niên vị nghĩ hoàn ..." (Đồng Quan sơn túy hậu tuyệt cú)
( Ta yêu thú vui ở Đồng Quan
Ngàn năm chưa nghĩ đến chuyện về ...)
-"Tạc dạ Lương viên lý
Đệ hàn, huynh bất tri..." (Đối tuyết hiến tòng huynh Ngu Thành Tế)
( Đêm qua ở vườn Lương
Em lạnh, anh chẳng biết ...)
.......................
Nếu đặt những câu thơ như trên vào giữa mấy vạn bài thơ Đường, sẽ thấy
nó
lập thành một giọng điệu riêng biệt. Thơ Đường trọng "hư", "viễn",
thích
thời gian quá khứ, không gian vũ trụ, mọi biểu hiện tình cảm đều được
gợi
tả kín đáo, gián tiếp. Cảm nhận về thế giới thơ Đường, tác giả của "Thi
nhân
Việt Nam" đã hình dung đó là :"Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy có
muôn
ngàn thứ tiếng ta không nghe... ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất
êm...
Một sức mạnh vô hình, rất mềm mại nhưng rất chắc chắn đè lên hết thẩy.
Tình
trong mộng." [80:269]. Có thể nói rằng Lý Bạch đã hồn nhiên gạt bỏ sức
nặng
vô hình thống trị thơ ca thời đại ông với sự đột phá của một cái Tôi
thẳng
thắn, đầy tính cách và tự hào được phô bày nó. Đỗ Phủ được đánh giá là
có
công đưa cái "Thực" vào trong tứ tuyệt. Nhưng riêng về phản ánh cá tính
thì
TTLB lại sinh động và thực hơn hẳn thơ Đỗ. Dường như Lý Bạch là người
đánh
thức cái Tôi riêng tư bấy lâu vẫn rụt rè nép kính và cho nó một mảnh
đất
thích hợp để ra mắt, đó là tứ tuyệt. Cho nên sau Lý Bạch, có hiện tượng
nhiều
nhà thơ khi viết về đề tài xã hội, triết lý thế sự thì thích dùng cổ
thể
thi (trường thiên), luật thi... còn khi viết về mình, cho mình, tức sự,
mạn
hứng... thì lại đặc biệt dùng nhiều tứ tuyệt. Trường hợp Bạch Cư Dị là
một
ví dụ tiêu biểu, thơ "Tân nhạc phủ" của ông, phê phán hiện thực, chẳng
có
bài nào là tuyệt cú. Ngược lại, khi ông rút về "độc thiên kỳ thân" thì
thơ
tuyệt cú lại chiếm số lượng hết sức nhiều, như là một thể loại ưa thích
nhất
để bộc lộ cái Tôi.
Nói Lý Bạch đã phát hiện ra khả năng ký sự trữ tình của tứ tuyệt không
có
nghĩa là ông đã thu hẹp phạm vi phản ánh của thể thơ này. TTLB dám đưa
ra
những chi tiết sinh hoạt đời tư, bộc lộ trực tiếp cá tính. Nhưng nếu
chỉ
thế thì nó đơn giản là "mới" chứ chưa chắc đã "hay". Thành công xuất
sắc
của Lý Bạch ở đây là ông đã khắc họa được một cái Tôi bản lĩnh phi
thường
mà khát khao giải phóng cá nhân của nó đã vượt khỏi phạm vi riêng tư,
chạm
tới vấn đề của con người muôn thủa.
2.1.2. Mười mấy thế kỷ sau, ở Việt Nam, phong trào "Thơ Mới" tưởng như
đã
đảo lộn cả nền nếp sáng tác xưa cũ bằng chủ trương đổi mới thi ca.
Nhưng
bản chất của cái "Mới" ấy là gì? Tác giả của "Thi nhân Việt Nam" trả
lời
:"Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những
điều
kín nhiệm, u uất, cái khát vọng được thành thực" [80:19]. Cái Tôi cá
nhân
xuất hiện trên thi đàn Việt Nam ở thế kỷ hai mươi đó còn là một sự sửng
sốt,
lạ lùng :
"Ngày thứ nhất - ... chữ Tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực
bỡ
ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo quan niệm chưa
từng
có ở xứ này :quan niệm cá nhân... Bởi vậy, cho nên khi chữ "Tôi " với
cái
nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con
mắt
nhìn nó một cách khó chịu..." [80:53].
Những vần thơ tình cuồng nhiệt của Xuân Diệu, thơ Tiên của Lưu Trọng
Lư,
thơ Điên của Hàn Mặc Tử, thơ Say của Vũ Hoàng Chương... đều được xem là
táo
bạo trong việc thể hiện khát vọng giải phóng cá nhân. Nhưng hơn một
nghìn
năm trước thì TTLB đã ít nhiều đề cập đến một số khía cạnh của những
vấn
đề ấy rồi. Mặc dù do khác biệt về thời đại, bối cảnh xã hội..., bản
chất
của cái Tôi trữ tình không hoàn toàn giống, nhưng khát khao giải phóng
và
tự bộc lộ thì rất gần gũi. Khi bình luận về Lý - Đỗ, người ta nói rằng
thơ
Đỗ Phủ có cái lực của Đất, níu kéo người ta đi sâu hút vào muôn nghìn
cảnh
đời đau khổ và những lo âu thế sự nhân sinh. Thơ Lý Bạch lại có lực của
Trời,
đưa con người bay bổng lên bầu trời tự do và khát vọng. Nói như Bì Nhật
Hưu
thì nó "...lời nói ra ngoài trời đất, ý tứ ra ngoài sự biểu hiện của
quỉ
thần, đọc lên ắt thần chạy bát cực, đo lường ắt tâm mơ bốn biển, lỗi
lỗi
lạc lạc, quả thực không phải là tiếng nói ( của trần gian..." [Sđd
13:379].
Sở dĩ thơ Lý Bạch gây được ấn tượng như vậy, một phần quan trọng vì nó
đã
thể hiện - như chưa bao giờ có - một cái Tôi khao khát tự do, vượt ra
ngoài
mọi luật lệ trong đời và trong thơ. Cảm hứng phiêu dật trong TTLB chính
là
cảm hứng của cá nhân khi cảm thấy mình được giải phóng. Thơ ông cảnh
bao
la phóng túng đã đành, mà con người cũng bất chấp mọi qui tắc lễ giáo
ràng
buộc. Ông thích tả những hiệp khách, đạo sĩ vì họ sống tự do, không
tuân
thủ theo lối mòn sáo của các tập tục và lễ nghi xã hội. Ông ca tụng một
Sơn
công say khướt, loạng choạng lên ngựa làm trẻ con ở Tương Dương nhìn
cười
đứt ruột. ("Tương Dương khúc" bài 4). Ông tả những cô gái đẹp với đôi
chân
mà người Trung Quốc vẫn ngại ngần bó kín, che giấu thì giờ lộ ra trần
trụi,
trắng muốt như sương ("Việt nữ từ"). Chàng thanh niên quí tộc trong thơ
ông
làm quen với mỹ nhân theo kiểu ngạo nghễ lạ lùng : lấy roi ngựa phất
thẳng
vào xe của nàng. Còn mỹ nhân, đáp lại lối bày tỏ tình cảm ấy cũng theo
cách
cực kỳ phóng túng :
"...Mỹ nhân nhất tiếu, khiên châu bạc
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia". ("Mạch thượng tặng mỹ nhân")
(...Người đẹp cười, kéo rèm châu nhìn ra
Trỏ phía xa, lầu hồng chính là nhà thiếp)
Các nhân vật nữ trong thơ ông mạnh dạn, sử dụng vẻ e lệ như một thủ
thuật
để hấp dẫn phái mày râu. Ông tả cô thiếu nữ hái hoa sen, thấy người lạ
thì
quay thuyền đi, nhưng lại vừa đi vừa hát, trốn vào khóm hoa "vờ xấu hổ
không
ra" ("dương tu bất xuất lai") để dụ dẫn, gây chú ý ("Việt nữ từ" bài
3)...
Con người trong TTLB không biết sợ và không ngượng chính vì nó đầy bản
lĩnh,
ý thức về cá nhân và sống đúng bản chất hồn nhiên của mình - nó là một
biến
thân của Lý Bạch.
Khi viết về chính mình, Lý Bạch lại càng cuồng phóng hơn. Tứ tuyệt của
ông
miêu tả những mơ ước và cử chỉ lạ lùng, hoàn toàn trái ngược với những
phép
tắc xã hội. Nhìn một cây đại thụ khổng lồ, ông muốn được khản rỗng nó
thành
chén rượu để uống như sông biển, say không thôi chưa đủ mà phải say ngã
lăn,
nghiêng ngửa ở cửa nhà bạn mới thích ("Vịnh sơn tôn"). Khăn đầu và mũ
là
những thứ mà các nhà nho chăm chút giữ cho chỉnh tề, uy nghiêm hơn cả
thì
trong tứ tuyệt của ông đã hơn một lần bị lột ra, quẳng đi vì nó làm ông
vướng
víu ("Lỗ trung đô đông lâu túy khởi tác", "Hạ nhật sơn trung", "Cửu
nhật
Long sơn ẩm"...). Ông làm những vần thơ rơi mũ và về kẻ triều thần bị
trục
xuất bằng một giọng thơ thanh thoát vui vẻ như không màng chút tục lụy :
"... Túy khan phong lạc mạo
Vũ ái nguyệt lưu nhân ... " (Cửu nhật Long sơn ẩm)
(Say ngắm mũ rơi trong gió
Múa yêu trăng lưu chân người)/
Khuất Nguyên là nhà thơ Trung Hoa đầu tiên đã ý thức về cái Tôi của
mình
phi thường, lạc lõng giữa thời đại để từ đó viết lên một "Ly tao" bất
hủ.
Về mặt đó thì Lý Bạch đã gặp gỡ Khuất Nguyên, ông cũng viết những vần
thơ
về cái Tôi cô đơn và cao ngạo. Nhưng nếu Khuất Nguyên tự miêu tả như
một
"người xinh", hết sức trau chuốt, chỉnh đốn diện mạo, y phuc theo đúng
phép
tắc :"Mũ ta đội xốc cho cao ngất, áo xiêm ta buông thật dịu dàng... áo
như
thế thói đời chẳng mặc, Ta cứ theo phép tắc người xưa..." (Ly tao), thì
Lý
Bạch, ngược lại, bày tỏ cái Tôi của mình như một sự phá vỡ luật lệ,
ngang
nhiên, phóng túng. Bi kịch của Khuất Nguyên không chỉ nằm trong sự va
đập
với xã hội mà còn ở bản thân cái Tôi : vừa ý thức mạnh mẽ về cá nhân,
lại
vừa muốn cống hiến trọn vẹn nó cho xã hội, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
tư
tưởng Nho giáo mà trong đó cái Tôi cá nhân thường bị xem nhẹ và đè nén.
Cho
nên kết cục bế tắc của "Ly tao" là tất yếu và cái Tôi của Khuất Nguyên
luôn
trĩu nặng buồn đau, giằng xé. Lý Bạch khác Khuất Nguyên ở chỗ ông không
chỉ
tự ý thức về cái Tôi như một nhân cách cao cả, phi thường mà còn chú
trọng
đến nó như một cá nhân đầy khát vọng được giải phóng. Vì vậy mà nếu
Khuất
Nguyên đau khổ vì cô đơn, cảm thấy mình như người đẹp bị bỏ rơi thì Lý
Bạch
lại làm nhiều bài thơ ca ngợi và tự hào về sự đơn độc của mình ("Độc
tọa
Kính Đình sơn", "Khuyết đề" 2 bài, "Sơn trung vấn đáp"...). TTLB không
phải
không có những bài nói lên tâm sự u buồn, cô lẻ, nhưng điều đáng lưu ý
là
Lý Bạch không bao giờ hối tiếc, băn khoăn vì mình khác với đời. Sức ép
của
dư luận xã hội rất nặng nề, gây bao dằn vặt, đau khổ cho cái Tôi của
Khuất
Nguyên, đến Lý Bạch không hề được đếm xỉa đến. Ông đã đi đến tột cùng
của
ý thức giải phóng cá nhân và cái Tôi của ông không chịu ràng buộc bởi
bất
kỳ cái gì ngoài khát vọng của chính nó. Viết về Lý Bạch, nhà nghiên cứu
phương
Tây Stephen Owen đã phải nhận xét :
"... Đây là một nhà thơ làm kinh ngạc độc giả của mình và cưỡng bức suy
nghĩ
của họ về luật thơ và sự đúng mực. Các nhà thơ luôn tự hào khi viết
những
dòng thơ "gây kinh ngạc" cũng như độc giả luôn thích thú vì được ngạc
nhiên,
song sự thú vị ấy diễn ra bên trong cái ranh giới đã được định sẵn của
thị
hiếu... Nhưng Lý Bạch đã bước ra ngoài ranh giới đó và tìm được những
độc
giả yêu thích sự ngạo ngược ấy của ông... Lý Bạch đã tự đẩy lùi lại rất
xa
ranh giới của sự đúng mực, ông cũng thấy rằng mình phải không được câu
nệ
bất kỳ điều gì dù lớn lao đến đâu để đạt tới cái "kỳ" mà nó đã trở
thành
nhãn hiệu đặc trưng của ông...".[104:111]
[TTLB khuôn khổ hết sức nhỏ bé, lại khắc họa được hình tượng một cái
Tôi
hết sức kỳ vĩ, một phần quan trọng vì nó đã thể hiện sắc nét nhất sự
phá
lệ độc đáo đó của Lý Bạch - cả trong đời lẫn trong thơ.]
Có điều thơ Lý Bạch không phá lệ chỉ để tỏ ra khác người. Nói như
Stephen
Owen, cho rằng Lý Bạch không câu nệ điều gì để xây dựng cái "kỳ" như
một
nhãn hiệu đặc trưng - có lẽ vẫn chưa gần với bản chất của Lý Bạch. Thơ
ông
là tuyên ngôn trút bỏ mọi ràng buộc để sống trung thực với cái Tôi bản
thể,
tự nhiên. Người đời kinh ngạc và không theo ông được ở chỗ khi họ phải
đấu
tranh dai dẳng và dằn vặt đến thế để giải phóng cái Tôi cá nhân thì ông
lại
tự nhiên, thanh thản bước ra ngoài mọi câu thúc của phép tắc xã hội.
Theo
cách đó, ông đã độc đáo như chính bản chất của mình chứ không cần đến
một
sự lập dị hình thức. Sống giữa xã hội phong kiến lễ giáo nặng nề, ông
hồn
nhiên và vui vẻ viết một loạt bài tứ tuyệt tả cảnh ông đi chơi với kỹ
nữ
("Xuất kỹ Kim Lăng tử trình Lư Lục tứ thủ", Tống Khư Lương huề nhị kỹ
phó
Hội Kê hí hữu thử tặng"...). Ông làm thơ tặng riêng cả kỹ nữ và cái con
người
chẳng biết sợ trời, sợ đất, cười giễu cả công hầu khanh tướng kia lại
băn
khoăn không biết làm sao cầu được mối thân tình với nàng ca nữ đó
("Tặng
Đoạn Thất Nương"). Bạn đến chơi, ông uống rượu say, buồn ngủ, bèn làm
thơ
bảo thẳng:
"...Ngã túy dục miên, khanh thả khứ,
Minh triêu hữu ý bão cầm lai."
("Sơn trung dữ u nhân đối chước")
(...Tôi say muốn ngủ, anh hãy về đi,
Sớm mai có ý với nhau hãy ôm đàn đến)
Cách cư xử với khách mà xã hội cho là khiếm nhã, thất lễ quá quắt đó,
với
ông lại là biểu hiện của tình tri kỷ sâu sắc đến mức có thể quên cả
nghi
thức xã giao. Và khi những nhà nho phong kiến cố sức "khắc kỷ phục lễ",
"chiếu
trải không thẳng không ngồi"... , thì trong một ngày hè nóng nực, giữa
thanh
thiên bạch nhật, ông thoải mái... cởi trần truồng ra nằm hóng gió, lại
còn
ngang nhiên ghi lại "sự kiện" đó trong thơ :
" Lãn dao bạch vũ phiến,
Lõa thể thanh lâm trung
Thoát cân quải thạch bích,
Lộ đỉnh sái tùng phong" . ("Hạ nhật sơn trung")
tạm dịch:
Quạt lông lười phe phẩy,
Trần truồng giữa rừng xanh.
Cởi khăn treo vách biếc,
Sương rắc, gió reo quanh.
( Tả người khác lõa thể đã kém nhã, tả ngay mình lõa thể càng khó nói
hơn.
Lý Bạch đã xâm phạm những điều cấm kỵ đó, hơn thế, ông còn gọi thẳng
tên
nó ra không cần che đậy - từ "lõa thể" (trần truồng) trong thơ ông có
thể
coi là một cú sốc giữa thế giới thơ Đường trầm mặc, cổ nhã. Cởi trần
truồng
ra vẫn chưa "đã", còn cái khăn đầu vướng víu, ông lột nốt treo lên vách
đá.
Ba câu thơ đầu nối tiếp nhau với những động từ miêu tả cử chỉ liên tục
của
con người :phe phẩy quạt, cởi truồng, cởi khăn, treo vách... Không nói
là
nóng mà thấy được người bức bối làm đủ cách để dễ chịu hơn. Câu thơ
cuối
giãn ra với hình ảnh tả thiên nhiên : đỉnh sương rơi rắc, gió qua cành
tùng.
Sương và gió - hai cái mát ùa đến khiến người ta có thể cảm nhận niềm
sung
sướng giữa ngày hè oi bức, được cởi tung quần áo ra, nằm giữa rừng xanh
mà
lại được trời quạt mát ! Khi Lý Bạch trút bỏ mọi y phục, ông đã cùng
lúc
rũ tuột những qui ước, quan niệm xã hội để được sống như ý thích của
mình.
Bài thơ tràn ngập cảm giác khoan khoái, dễ chịu, không chỉ
mát mẻ về thể xác mà còn thanh thoát trong tâm hồn và tuyệt đối tự do.
Có thể nói rằng qua miêu tả những hành vi phá lệ của mình, Lý Bạch đã
hình
tượng hóa được khát vọng giải phóng cá nhân là ao ước của con người
muôn
thủa, và đặc biệt trong thời đại của ông.
2.1.3 Cái Tôi cá nhân, cá tính không chỉ chi phối hành động mà ngay cả
đời
sống tinh thần của Lý Bạch. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã lưu ý đến tính
chất
mâu thuẫn, phức tạp trong tư tưởng của ông. TTLB có bài mang đầy hoài
bão
nhập thế, ý thức trách nhiệm của bậc quân tử với đời ("Hoành giang từ",
"Tống
Lục phán quan vọng Tì bà hiệp", "Vĩnh Vương đông tuần ca"...), có bài
đượm
ý tưởng thanh thản, u nhàn của phật tử ("Thu Phố ca" bài 17, "Biệt Đông
Lâm
tự tăng", "Bạch lộ ti"...), có bài ca tụng thần tiên, ao ước được phiêu
du
đến cõi trời ("Diên chân quan", "Luyện đan tỉnh", "Đào nguyên" 2
bài...),
lại có bài cuồng phóng với tôn chỉ tự do, anh hùng của người hiệp khách
("Cổ
khách hành", "Vịnh sơn tôn", "Kết Miệt tử", "Thiếu niên hành"...). Thậm
chí
ngay trong một bài tứ tuyệt, Lý Bạch cùng lúc tự xưng vừa là " cư sĩ",
vừa
là "tiên", mà cũng vừa là "Phật" :
" Thanh Liên cư sĩ trích tiên nhân
Tửu tứ tàng danh tam thập xuân
Hồ Châu tư mã hà tu vấn,
Kim Túc Như Lai thị hậu thân "
("Đáp Hồ Châu Gia Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân" )
tạm dịch : Thanh Liên cư sĩ tiên giáng trần,
ẩn danh quán rượu ba mươi xuân.
Tư mã Hồ Châu còn muốn hỏi,
Như Lai Kim Túc mới hiện thân.
Hơn thế nữa, ông còn vui vẻ để tất cả các "ngài" "tu" trong ... quán
rượu
những 30 năm ròng ! "ẩn danh quán rượu" - ở đây ta lại phảng phất thấy
cách
sống của một anh hùng
ẩn tích chờ ngày xuất thế, hay một cuồng khách giang hồ. Có thể nói, Lý
Bạch
đã tổng hợp những hình mẫu tư tưởng tiêu biểu nhất của thời đại (Đạo -
Nho
- Hiệp - Phật) để xưng danh cho cái Tôi của mình. Cho nên nói rằng Lý
Bạch
chịu ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng triết lý trái ngược có lẽ chưa
hoàn
toàn chính xác. Nên chăng đặt ra vấn đề ngược lại : Lý Bạch đã chủ động
đi
tìm một triết lý toàn vẹn nhất, khả dĩ đáp ứng được băn khoăn về cái
Tôi
khổng lồ của ông. Giữa Nho - Đạo - Hiệp - Phật thì có vẻ ông ưa thích
Đạo
gia hơn cả vì nó đề cao tự do, phủ nhận mọi gò bó, cưỡng ép. Người đời
gọi
ông là "thi tiên" và trong nhiều bài tứ tuyệt của mình, ông đã tự nhận
mình
thành tiên ("Đáp Hồ Châu Gia Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân", "Đồng
Quan
sơn tuý hậu tuyệt cú", "Điểu Nha tự...". Song như vậy vẫn chưa đủ. Cá
nhân
tuy được giải phóng nhưng lại chưa được khẳng định như một nhân cách
giữa
đời. Có thể đó là lý do để ông tìm đến với Nho-Hiệp như một lý tưởng
hành
động để bộc lộ cái Tôi anh hùng. TTLB giọng điệu cảm hứng đa dạng, tư
tưởng
triết lý phức tạp nhưng vẫn có một điểm nhất quán - đó là sự ngự trị
của
một cái Tôi cá tính đơn nhất, đầy khát khao được giải phóng và tự khẳng
định.
Cái Tôi đó đã đóng một dấu ấn phong cách độc đáo trong toàn bộ TTLB. Có
điều
TTLB không dừng ở phản ánh cái Tôi. Lý Bạch đã thực sự làm nên một điều
kỳ
diệu mà hiếm có nhà thơ nào theo được :qua những chuyện riêng tư cá
nhân
mà khuấy động được vấn đề của thời đại và muôn thủơ. Cái đó có lẽ chỉ
có
thể lý giải bằng thiên tài của ông và nhân cách phi phàm mà tự bản thân
nó
đã có tầm vóc xứng đáng là biểu tượng của một thời.
Cái Tôi - cá nhân, cá tính không tự nhiên hình thành trong TTLB. Mặc dù
triết
lý tự nhiên của Đạo gia đã góp phần quan trọng khuếch trương tư tưởng
tự
do, phóng túng của cái Tôi trong TTLB nhưng ngay cả Đạo (và Nho, Hiệp
nữa)
cũng vẫn chưa đủ sức khơi dậy một ý thức cá nhân mãnh liệt. Phải đến
thời
kỳ Thịnh Đường và phải với một con người có những tố chất cá tính, tài
năng
và xuất thân đặc biệt như Lý Bạch, cái "Tôi cá nhân - cá tính" mới có
thể
xuất hiện. Trải qua hơn 100 năm thắng lợi liên tục, vẻ vang về mọi mặt
chính
trị, quân sự, kinh tế...xã hội Thịnh Đường tràn ngập hưng phấn về khả
năng
vĩ đại của con người, cũng từ đó mà ý thức về cái Tôi bừng dậy hơn bao
giờ
hết, đặc biệt là ở những người có tài năng được xã hội (kể cả vua) công
nhận
như Lý Bạch. Khi đời sống phát triển, các đô thị được mở mang, những
kinh
đô lớn như Trường An, Lạc Dương ... trở thành trung tâm giao dịch buôn
bán
tầm cỡ quốc tế, (thông thương với hơn 70 nước trên thế giới). Cùng với
giao
lưu hàng hóa là sự trao đổi những giá trị tinh thần. Chưa bao giờ ở
Trung
Quốc các luồng tư tưởng triết học được tự do tồn tại và cùng phát triển
đến
như vậy. Có thể nói rằng nếu không có thời kỳ Ngụy Tấn phá bỏ độc tôn
Nho
giáo, làm tiền đề cho không khí tự do tư tưởng bao trùm suốt thời đại
Sơ,
Thịnh Đường thì cũng không có một Lý Bạch cuồng phóng đến thế. Sinh
hoạt
đô thị cực kỳ phát triển dần dần hình thành trong lòng xã hội phong
kiến
một mô hình tiền tư bản với lớp người mới không chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của
Nho giáo nữa : tầng lớp thị dân và thương gia. Tư tưởng thị dân thực tế
và
bình đẳng đã đột phá cái Tôi khỏi gông cùm "khắc kỷ phục lễ" và lần đầu
tiên
cho nó ý thức mới mẻ về cá nhân. Xuất thân bình dân, (có lẽ là con một
thương
gia), Lý Bạch đã nhạy cảm hơn hẳn các thi sĩ cùng thời được đào tạo
chính
thống theo kiểu Nho giáo như Đỗ Phủ, Vương Duy... khi đón nhận luồng tư
tưởng
rất mới của thời đại ấy.
Có lẽ vì vậy mà TTLB bộc lộ một quan điểm khá bình đẳng về giai cấp và
chủng
tộc. Ông không những không đề cao tư tưởng "Đại Hán", kỳ thị ngoại tộc
mà
lại có vẻ thích những cái mới lạ, độc đáo của ngoại quốc. Từ "Hồ" chỉ
các
dân tộc ngoại bang, thường bị các nhà thơ Trung Quốc gắn với nghĩa là
"giặc",
phủ định. Riêng TTLB, ông miêu tả chim ưng đất Hồ, giường kiểu Hồ, y
phục
nhà Hồ... với sắc thái đẹp đẽ, đầy thiện cảm. Thậm chí những chàng
thanh
niên quí tộc phong lưu mã thượng, cưỡi ngựa trắng, yên bạc, đồng hành
với
gió xuân trong bài "Thiếu niên hành" (số 2) của ông còn chủ động chọn
những
cô gái xứ Hồ làm đối tượng :
" Lạc Hoa đạp tận du hà xứ,
Tiếu nhập Hồ cơ tửu tứ trung".
( Hoa rơi giẫm hết, về đâu nhỉ,
Cười vào quán rượu gái Hồ chơi).
Lý Bạch đem tư tưởng bình đẳng, phóng túng đó vào cả quan hệ tôn nghiêm
nhất
theo Nho giáo : Quân - Thần. Tứ tuyệt của ông do vậy mà có những tứ thơ
kỳ
lạ. Như ở bài "Tống ngoại sanh Trịnh Quán tòng quân" số 1, ông ví sa
trường
như chiếu bạc, trong đó bậc đại trượng phu khao khát lập công như con
bạc
đang say đánh, lại còn hơn thế vì đặt cược không phải bằng tiền mà bằng
cả
tính mạng để báo ơn Thiên tử, hoặc là chết, hoặc áo gấm trở về ("Trượng
phu
đổ mệnh báo Thiên tử"). Cách so sánh như thế quả rất táo bạo và hiện
đại.
Thậm chí nó còn phản ánh chút không khí náo nhiệt và thực tế trong sinh
hoạt
đô thị, mặc dù nòng cốt vẫn là tư tưởng "Trung quân báo quốc" theo kiểu
Nho
gia. Cái Tôi - cá nhân, cá tính trong TTLB, với đặc điểm ấy, có thể xem
là
một hiện tượng không tiền (và có lẽ là tuyệt hậu) trong lịch sử thơ ca
Trung
Quốc, kết tinh từ cuộc trao duyên kỳ lạ giữa cái "Tôi - nhân cách vĩ
đại"
theo ý thức hệ phong kiến và cái "Tôi - cá nhân" ,có lẽ thoát thai từ
tư
tưởng thị dân.
2.2 Bút pháp "Tả cảnh nhập thần " :
So sánh hai "thánh thủ" tuyệt cú đời Đường, Hồ ứng Lân (Minh) dẫn theo
Thẩm
Tổ Phân đã chỉ ra nét đặc sắc riêng trong bút pháp thơ tứ tuyệt của
từng
người :" Đại khái Lý tả cảnh nhập thần, Vương ngôn tình đạt tới đỉnh
cao.
Vương cung từ, nhạc phủ, Lý không so sánh được, Lý lãm thắng, kỷ hành,
Vương
không thể làm được" [Sđd128:28] ("Lý" :chỉ Lý Bạch, "Vương" :chỉ Vương
Xương
Linh - H.A chú thích). Nghiêm Vũ, nhà phê bình văn nghệ có tiếng thời
Nam
Tống cũng đánh giá rất cao bút pháp "nhập thần" trong thơ Lý Bạch. Ông
nói
:"Điểm tuyệt diệu nhất của thơ chỉ có một, đó là nhập thần. Thơ mà đạt
tới
chỗ nhập thần thì tận thiện, tận mỹ! Không thể thêm thắt gì được nữa!
Duy
chỉ có Lý Bạch, Đỗ Phủ đạt được mà thôi. Những người khác có lẽ hiếm
lắm"
[ Sđd 39:211].
( "Nhập thần" ở đây có thể hiểu là nhà thơ đem tư tưởng tình cảm của
mình
chan hoà làm một với đối tượng miêu tả, từ đó mà truyền lại được cái
thần
của vật đồng thời với cái thần của người sáng tác, cảm thụ. Đó không
đơn
giản là vấn đề kỹ thuật mà còn là chất lượng sáng tác. TTLB sở dĩ đạt
tới
đỉnh cao xuất sắc, cũng vì rất nhiều bài đã đạt tới trình độ "tả cảnh
nhập
thần". "Cảnh" cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là thiên
nhiên
mà còn là "bối cảnh" - đối tượng được miêu tả.
Để thâu tóm được cái "Thần" của cảnh, Lý Bạch thường sử dụng bút pháp
miêu
tả bao quát, chấm phá. Cảnh trong TTLB không chỉ khoáng đạt trong không
gian
được tái hiện mà phóng túng ngay cả trong cách thức miêu tả và phối
cảnh.
Đỗ Phủ khi tả cảnh thích đi sâu vào những chi tiết thực, sinh động:
- "...Oanh vàng gù cách tổ,
Cá trắng nhảy tung rong.
("Tuyệt cú" bài 2 - Khương Hữu Dụng dịch thơ)
- "... Bùn dẻo bay chim yến
Cát ấm ngủ uyên ương".
("Tuyệt cú" bài 1 - Chế Lan Viên dịch thơ)
- "... Cò im đầu bãi co chân ngủ,
Cá quẫy đuôi thuyền vỗ nước xao."
("Mạn thành" - Vân Đài dịch thơ)
Khó có thể tìm thấy trong TTLB lối miêu tả như vậy. Mặc dù TTLB cũng
rất
nhiều chi tiết, song tả cặn kẽ đến từng tiểu tiết như "cá trắng nhảy
tung
rong" hoặc " cò co chân ngủ"... thì quả là hết sức hiếm, còn nếu trong
một
bài tứ tuyệt mà đi tìm đến hai chi tiết như vậy thì chắc không có. Có
thể
nói dường như Lý Bạch không bao giờ để ngòi bút của mình ngưng đọng lâu
ở
một điểm. Nếu ông có tả chi tiết thì đó thường là một nét điểm xuyết
trên
nền phong cảnh bao la để gây ấn tượng mạnh mẽ về toàn cục. Như bài
"Hoàng
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng", ông đặc tả hình cảnh cánh
buồm
cô đơn xa mờ rồi mất hút để liền theo đó phác một nét đại bút về dòng
sông,
bầu trời. Bài "Dương xuân khúc", ông lưu ý đến một đóa đào hàm tiếu rơi
rụng
trong khu vườn nhỏ, để câu thơ tiếp tràn dâng cảm hứng bao la "tự chạnh
lòng
xuân", như "trăm cái lưỡi cùng nói bao lời". Bài "Tĩnh dạ tứ", ngòi bút
ông
vừa lắng lại ở ánh trăng đầu giường quánh, lạnh như sương thì ngay sau
đó
đã bay bổng lên với vầng trăng, tình cố hương vời vợi...Sự miêu tả kết
hợp
đó cho thấy ông có lẽ thích phác thảo hơn là tả chân. Nhiều bài tứ
tuyệt
tả cảnh của ông thậm chí gồm toàn những nét phác thanh thoáng, có ý
nghĩa
dựng lên một khung cảnh nhiều hơn là mô tả nó. Như bài "Thu Phố ca" số
12:
" Thủy như nhất phỉ luyện,
Thử địa tức "Bình thiên".
Nại hà thừa minh nguyệt,
Khán hoa thượng tửu thuyền"
Tạm dịch : Nước như một tấm lụa,
Đất này cõi Bình Thiên
Làm sao cưỡi trăng sáng,
Ngắm hoa, rượu trên thuyền.
Lý Bạch tả cảnh ông đi chơi hồ Bình Thiên vào đêm trăng sáng, ánh trăng
phản
chiếu trên mặt nước phẳng lặng khiến cả vùng hồ như tấm lụa trải rộng
mênh
mông. Có điều ông không tả hồ, cũng không tả trăng, chỉ phác một liên
tưởng
về tấm lụa cho thấy trăng nước hoà làm một, lại toát lên cái "thần" yên
ả,
thanh bình của cả một vùng trời nước. "Bình Thiên" là tên hồ, cũng có
nghĩa
"cõi trời yên bình". Câu thơ vừa nói được địa điểm thật của khung cảnh,
song
đồng thời lại nhấn thêm một tầng đồng nhất nữa : đất này là cõi trời
(địa-
tức-thiên). Trên cái nền trăng - nước, đất - trời tương hội đó, con
người
cũng lâng lâng giữa hai cảm giác tiên - tục. "Cưỡi vầng trăng sáng" -
tưởng
Lý Bạch đã thành tiên, song từ "nại hà" ("sao có thể") cho thấy ông chỉ
là
người thường mơ được thành tiên. Lên cõi trời không được, ông trở về
"ngắm
hoa trên thuyền rượu" - nhưng giữa trần gian, tao nhã với trăng - nước
-
rượu - hoa, ông lại xuất hiện như một vị tiên thoát tục. Đọc bài thơ,
thấy
ông tả tất cả, mà dường như cũng không tả gì. Không thể hình dung dáng
hồ,
cỏ cây hoa lá, biết là có người, nhưng cũng không rõ con người ấy cụ
thể
ra sao. Cái được miêu tả ở đây không phải là bản thân cảnh hay người mà
chính
là thần thái của nó. Toàn bài thơ toát lên ý tưởng về sự giao hòa thanh
thản,
thần tiên giữa trời - nước, cảnh - người.
Cùng sử dụng bút pháp chấm phá, nhưng cách miêu tả trong TTLB cũng
không
giống như ở tứ tuyệt của Vương Duy. Vương Duy không chỉ là nhà thơ mà
còn
là một họa sĩ kiệt xuất phái Nam tông, chuyên vẽ tranh thủy mặc. Dễ
thấy
ông vận dụng những thủ pháp miêu tả của hội họa vào trong thơ khiến thơ
ông
cũng như một bức tranh ("Thi trung hữu họa"). Tứ tuyệt tả cảnh của
Vương
Duy do vậy mà rất đặc sắc,kỹ thuật phối cảnh, tả hình quả đạt tới mức
điêu
luyện. Vương Duy thích sử dụng sự tương phản giữa những mảng màu tối -
sáng,
đậm - nhạt, nóng-lạnh, giữa hư và thực, giữa động và tĩnh..., lấy cái
này
làm nổi bật cái kia. Cảnh trong thơ ông có nhiều phát hiện tinh tế và
rất
có chiều sâu. Như bài "Lộc trại" :
Không sơn bất kiến nhân
Đãn văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
tạm dịch:
Núi vắng, người chẳng thấy,
Chỉ nghe vọng âm thanh,
Hồi quang vào rừng thẳm,
Phản chiếu lớp rêu xanh.
Ông tả tiếng vọng để làm nổi cái tĩnh của rừng núi theo nguyên tắc
"Không
cốc truyền âm" (động vắng càng vang). Ông gợi thanh âm của người vẳng
lại
để nhấn mạnh ý người đã đi, cho thấy núi càng vắng. Ông tả ánh phản
chiếu
của nắng xuyên qua rừng sâu, soi lên lớp rêu xanh, lấy chút sáng le lói
để
thấy cả cái thâm u dày đặc của rừng. Bút pháp, "vẽ mây nẩy trăng" trong
hội
họa được ông khai thác tối đa, do đó đọc thơ ông cần vận dụng trí tưởng
tượng,
xét đoán để nối kết những mảng đối lập, hình dung ra trước mắt một "bức
tranh
bằng lời" toàn vẹn, giàu ý vị. Còn TT tả cảnh của Lý Bạch ngược lại,
thiên
về cảm nhận trực giác. Ông không tả cảnh trước mắt mà tả cảnh trong
lòng.
Khác với Vương Duy, ông không ngắm cảnh như một họa sĩ hoặc một triết
nhân
vui thú điền viên để di dưỡng tính tình. Ông có khả năng kỳ diệu "nhập
thân"
vào đối tượng miêu tả. Tứ tuyệt tả cảnh của ông do đó mà có ý vị của
Trang
Chu mộng điệp, không biết là cảnh có Lý Bạch hay chính Lý Bạch đã hóa
thân
vào cảnh nữa! Lĩnh hội cái tinh thần của cảnh mà tả, Lý Bạch đã lược bỏ
mọi
chi tiết rườm rà, chú tâm khắc họa ấn tượng hơn là hình khối. Như trong
bài
"Vọng Lư sơn bộc bố", ông tả thác nước núi Lư sơn như dòng sông bị treo
ngược
lên, như dải Ngân hà bị rơi tuột từ chín tầng trời. Người đọc có thể
cảm
nhận dòng chảy dào dạt, mãnh liệt của một thác nước từ độ cao tót vời
tuôn
nước xuống - rất cao, rất mạnh và rất đẹp. Nhưng sự tưởng tượng chỉ
dừng
ở một ấn tượng chung như thế, không đi xa hơn để dựng thành một bức
tranh
toàn cảnh tỉ mỉ. Có hề gì, vì Lý Bạch đâu phải thợ vẽ, và ông tả thác
nước
núi Lư sơn một phần, song cái chính là ông biểu hiện dòng thác cảm xúc
trong
lòng ông khi ngắm Lư sơn. Do đó mà cảnh trong thơ ông đầy màu sắc chủ
quan,
ông dùng rất nhiều ví von, so sánh, ẩn dụ bởi nó nói lên rõ nhất cảm
nhận
của ông về cảnh. Khác với lối miêu tả điềm đạm, trầm tĩnh của Vương
Duy,
TTLB tả cảnh luôn lồng vào đó những cảm xúc, mơ ước. Ông nhận xét, liên
tưởng,
cho sông, núi, mây, trời... những buồn vui của con người. Nhân hoá là
một
thủ pháp ưa thích của ông. Gió trong thơ ông cũng biết xót tình li biệt
("Lao
Lao đình"), chim núi biết xấu hổ ("Thu Phố ca" bài 3), núi cũng biết
nhìn
người ("Độc tọa Kính Đình sơn"), trăng đau buồn trẫm mình ngoài Đông
Hải
("Khốc Triều Khanh Hoành")... . Có lẽ vì vậy mà thơ tả cảnh của ông như
có
hồn, tình và cảnh thống nhất tuyệt vời.
Lối thơ phù hoa đời Lục triều và đầu Sơ Đường, cho đến cả nhiều bài thơ
Tống
sau này, tả cảnh chỉ cố làm sao vẽ lên được một bức tranh thiên nhiên
mĩ
lệ, do đó lời thơ bay bướm mà lại khô khan vì thiếu tình cảm thật.
Những
câu như :
_ "... Lưu ba tương nguyệt khứ
Triều thủy đái tinh lai."
("Xuân giang hoa nguyệt dạ" - Dương Quảng)
(... Sóng trôi mang trăng đi
Nước triều dâng sao lại)
_ "... Thước phi sơn nguyệt thự,
Thuyền táo dã phong lưu."
("Lạc đê hiểu hành" - Thượng Quan Nghi)
(... Thước bay trăng núi sáng
Ve rộn gió đồng thâu. - Trần Trọng San dịch thơ)
.....................
hình ảnh rất đẹp nhưng nặng về cảnh, nhẹ về tình, khách thể lấn át chủ
thể.
Tứ tuyệt Sơ Đường về sau chú trọng tả tình, nhưng vì thế mà nhiều khi
cảnh
chỉ là phương tiện, điểm tựa để bộc bạch nỗi lòng. Như bài "Đăng U Châu
đài
ca" của Trần Tử Ngang, tả thi nhân "Trước không thấy người xưa. Sau
không
thấy người sắp đến" ("Tiền bất kiến cố nhân. Hậu bất kiến lai giả"),
cái
tầm nhìn cổ kim như vậy đâu phải là cảnh thấy được bằng mắt trên đài
cao.
Bảo rằng Trần Tử Ngang đứng trên đài U Châu hay đài nào khác, thậm chí
là
núi, lầu cao... thì cảnh trong thơ cũng không đổi khác, đơn giản vì nó
không
mang tính cụ thể mà chủ yếu là biểu tượng cho một tầm cao cần thiết để
thi
nhân mở rộng nhãn quan, tràn dâng cảm hứng - Bút pháp miêu tả ở những
bài
thơ như thế thường là "dung tình nhập cảnh" (tình là đối tượng miêu tả
chính,
nhưng lấy cảnh để tô điểm cho tình thêm sinh động, tự nhiên) hoặc "dung
cảnh
nhập tình" (cảnh là chính, lồng thêm một chút tình cho cảnh thêm sâu).
Mối
quan hệ giữa "tình" và "cảnh" tuy là hỗ trợ lẫn nhau nhưng vẫn có thể
phân
tách ra được, đặc biệt ở những bài tứ tuyệt có bố cục 2/2, nửa tả cảnh,
nửa
tả tình. TTLB không phải là không có những bài như vậy, nhưng với bút
pháp
"tả cảnh nhập thần", nhiều bài TTLB đã đạt tới mức cảnh, tình hòa nhập
("tình
cảnh giao dung"), tả cảnh mà cũng là tả tình. Những bài như "Hoàng Hạc
lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng", "Thu Phố ca" số 4, "Tống Lục phán
quan
vọng Tì Bà hiệp", "ức Đông sơn" 2 bài, "Khuyết đề" bài 1... hình ảnh và
tình
ý lồng trong nhau. Sở dĩ như vậy vì Lý Bạch chú tâm tả cái "Thần" -
điểm
tương giao giữa cả khách thể và chủ thể, ranh giới giữa người ngắm và
cảnh
không còn nữa mà chỉ có cảm xúc về cái toàn thể chế ngự tất cả. Bài
"Thu
Phố ca" số 4 của Lý Bạch :
" Lưỡng mấn nhập Thu Phố,
Nhất triêu táp dĩ suy.
Viên thanh thôi bạch phát,
Trường đoản tận thành ti."
tạm dịch : Đôi tóc mai khi vào Thu Phố,
Một sớm mai xơ xác buồn thương.
Vượn kêu giục tóc trắng vươn,
Sợi dài, sợi ngắn thảy dường như tơ.
Lý Bạch không tả Thu Phố, cũng không tả tâm tình. Ông chỉ ghi lại hình
ảnh
một mái tóc đột nhiên xơ xác đến thương tâm khi vào Thu Phố và bạc
trắng
bởi tiếng vượn kêu. Một mái tóc mà toát lên được cái "Thần" hoang sơ,
buồn
bã của Thu Phố và nỗi sầu đất khách mênh mang. Sầu vốn vô hình, nhưng ở
đây
ta như có thể quan sát được, thấy sức mạnh tàn phá nhanh chóng của nó -
chỉ
một sớm mai đủ làm xơ xác xơ mái tóc - đời người. Như thế vẫn còn chưa
đủ.
"Vượn kêu giục tóc trắng vươn". Cả Thu Phố dồn lại trong tiếng vượn
hoang
sơ, thôi thúc nỗi sầu lớn dần, ngổn ngang muôn mối cho đến điểm tận
cùng
bạc trắng ưu phiền "Sợi dài sợi ngắn thảy dường như tơ". Không biết Thu
Phố
buồn làm cho tóc trắng hay mối sầu tóc trắng đem lại chút buồn cho Thu
Phố
hoang sơ, hoặc đó là cộng hưởng cả hai nỗi niềm, thấy tóc bạc nhanh mà
thân
còn ở Thu Phố. Bài thơ ngắn ngủi mà ý cảnh thâm trường, tả nỗi sầu kỳ
lạ
như có sinh mệnh riêng, hay quả là vì đã đạt tới chỗ "tả cảnh nhập
thần".
Bút pháp "tả cảnh nhập thần" đặc biệt phát huy tác dụng ở thể loại tứ
tuyệt
do chỗ nó cùng có đặc trưng là tình túy, cô đọng. TTLB với bút pháp này
đã
đạt tới một hình thức diễn đạt nhuần nhị, chỉ vài nét phác mà đủ thâu
tóm
tinh thần của cả bối cảnh và tình người bao la, tả sông, núi, trăng,
nước...
không chỉ sinh động mà còn toát lên cái cao, xa, sáng, đẹp của nó.
2.3. Nghệ thuật lập tứ , kết cấu "ý tận ,khí hùng ":
"ý tận, khí hùng" là một đặc trưng - hay có thể nói là thành tựu nghệ
thuật
- đã đưa TTLB lên tới một đỉnh cao chưa từng có.
2.3.1. Vương Phu Chi (Thanh) trong "Khương trai thi thoại" đã nhận xét
:"...Sở
dĩ Lý
Bạch, Đỗ Phủ được gọi là bậc đại gia, ấy là vì những bài thơ không có
ý,
mười bài
chỉ chiếm không quá một, hai bài... "[39:152] .
TTLB lập ý thường rất độc đáo, một phần cơ bản vì ông hay đứng từ góc
độ
của cái Tôi cá nhân để cảm thụ và phản ánh thế giới, không theo lối mòn
công
thức của tiền nhân, cũng không lặp lại với chính mình. Do đó mà thơ ông
có
những ý tưởng và phát hiện mới mẻ. Như bài "Khốc Tuyên Thành thiện
nhưỡng
Kỷ tẩu" của ông :
"Kỷ tẩu hoàng tuyền lý,
Hoàn ưng nhưỡng "Lão Xuân" ?
Dạ đài vô Lý Bạch,
Cô tửu dữ hà nhân ? "(
tạm dịch : Cụ Kỷ về chín suối,
Còn ủ rượu Lão Xuân ?
Dạ đài không Lý Bạch,
Mua rượu biết ai cần ?
Lý Bạch làm thơ thương tiếc "cụ Kỷ", người vẫn ủ loại rượu "Lão Xuân"
ngon
nổi tiếng bán cho ông. Khóc một người thân quen đã mất, người ta hay
nói
tới nỗi trống trải, thiếu hụt của người còn lại trên cõi thế. Nhưng ở
đây,
Lý Bạch nói ngược lại. Ông băn khoăn không biết "cụ Kỷ" có đem tài nghệ
xuống
hành nghề ở suối vàng không và thương cho người quá cố phải cô đơn vì
cõi
âm không có Lý Bạch! Có vẻ như ông không nghiêm túc, nhưng thực sự, ông
đã
nói lên nỗi ngậm ngùi đúng như một kẻ trong làng rượu khóc người bán
rượu
yêu quí nhất. Vì rượu Lão Xuân kia chỉ có tay "cụ Kỷ" mới ủ được, nên
cụ
mất đi, cũng đem theo cả nó về nơi chín suối. Mà rượu ngon ấy, cũng chỉ
có
người sành rượu là Lý Bạch biết thưởng thức. Cho nên cõi âm không phải
không
người, nhưng thiếu Lý Bạch thì cụ Kỷ dù có nấu rượu cũng không còn ai
xứng
đáng để mua. ở đây có nỗi buồn của kẻ tri âm khóc người tri kỷ. Lý Bạch
không
nói mình thèm rượu mà lại bảo người quá cố muốn bán rượu cho ông. Chọn
cách
nói ngược kỳ lạ đó, ông đã diễn đạt sinh động kỷ niệm thân thương đã
thành
thói quen mà cái chết không xóa bỏ được và ý thức đau nhói về âm dương
cách
trở. Bài thơ lời giản dị mà vẫn gây kinh ngạc cho độc giả bởi ý tưởng
độc
đáo, mang đầy phong cách riêng của Lý Bạch. Tứ tuyệt của ông có không
ít
bài như vậy, ngay cả khi ông dùng những điển tích tưởng như quá quen
thuộc.
Bài "Bạch vi thời mộ huyện tiểu lại..." của ông :
" Tố diện ỷ lan câu,
Kiều thanh xuất ngoại đầu.
Nhược phi thị Chức Nữ,
Hà đắc vấn khiên ngưu ? "
tạm dịch : Mặt ngọc tựa lan can,
Ló đầu, giọng oanh vàng.
Nếu chẳng là Chức Nữ,
Cớ sao hỏi Ngưu Lang ?
Thời hàn vi, Lý Bạch xua trâu làm ồn công đường, quan bà giận ra trách
mắng,
ông làm ngay bài thơ này để đối đáp. Xưa nay, chuyện Chức Nữ - Ngưu
Lang
vẫn thường được nhắc tới trong thơ như một điển tích nhắc nhở về tình
yêu
đôi lứa và sự xa cách. Lý Bạch vận dụng nó trong bài thơ này với hàm ý
hoàn
toàn khác : để trách khéo lại quan bà. "Khiên ngưu" là cách gọi khác
của
Ngưu Lang, ở đây ám chỉ cả Lý Bạch vì chính ông cũng đang dắt trâu.
Theo
nghĩa đó, câu thơ cuối có hàm ý : "Không phải là Chức Nữ, bà (có tư
cách
gì) để hỏi đến ta ? " . ý thơ thật ngông và rất xược. Thế nhưng cũng
lại
rất tình ! Vì câu hỏi nghi vấn kia cũng có thể hiểu theo nghĩa khẳng
định
: Đúng nàng phải là Chức Nữ nên mới hỏi / để ý tới Khiên Ngưu (người
dắt
trâu) là ta. Huyện bà được ví von với tiên nữ. Và cuộc chạm mặt khó
chịu
kia lại được hiểu là buổi làm quen duyên nợ của tiên nữ và người trần.
Hỏi
còn gì thi vị hơn ? !
Hai bài thơ nêu trên có lẽ gây ấn tượng là TTLB hay lập ý qua cách nói
ngược
và tìm những phát hiện mới mẻ trong đó. Thực ra không hoàn toàn như
vậy.
ý trong TTLB không phải bao giờ cũng lạ lùng, ở rất nhiều bài, Lý Bạch
không
đi xa hơn cách nhìn truyền thống về đề tài, hình ảnh. Sức hấp dẫn của ý
thơ
trong TTLB rất đa dạng. Có thể là vì nó mới. Có thể vì nó mạnh. Mà cũng
có
thể vì nó rất đẹp...
TTLB thành công ở lập ý, một phần nữa có lẽ bởi Lý Bạch là một nhà thơ
đến
tận cùng bản thể. Truyền thuyết kể rằng ông ra đời là sao văn chương
Thái
Bạch giáng hạ phàm trần, ông về cõi bất diệt như một thi sĩ vồ trăng,
rồi
cưỡi lý ngư bay lên tiên giới. Trong đời thật, ông đã sống đúng như một
nghệ
sĩ lớn, coi khinh bạc vàng, phú quí, chỉ yêu lý tưởng, cái đẹp và thơ.
Khả
năng ứng khẩu thành thơ của ông cho thấy dường như chất thơ đã ở trong
huyết
quản của ông và cặp mắt nghệ sĩ cho phép ông nhìn đâu cũng phát hiện ra
thơ
tứ. Theo cách đó, TTLB rất có tứ và tứ đó căn bản là trữ tình.
Lập được ý đã khó, nhưng đạt tới chỗ "ý tận" thì quả là không nhiều nhà
thơ
có thể làm được như Lý Bạch. "ý tận" có nghĩa là phải diễn đạt được
thấu
đáo ý tưởng của nhà thơ thông qua hình tượng sinh động. Tứ tuyệt hoa
diễm
thời Lục triều lời lẽ, hình ảnh mĩ lệ nhưng thường mới chỉ dừng ở tả vẻ
bề
ngoài, chưa thấu được cái tinh thần, "ý cảnh", cho nên có thơ mà ít có
ý.
Tứ tuyệt Sơ Đường có bước tiến dài về chất khi đi sâu vào nắm bắt và
thể
hiện ý cảnh, nhưng phần nhiều lại chưa đạt tới độ nhuần nhuyễn khi lột
tả
nó. Như Vương Tích với bài thơ "Quá tửu gia" :
" Thử nhật trường hôn ẩm,
Phi quan dưỡng tính linh.
Nhãn khan nhân tận túy,
Hà nhẫn độc vi tỉnh."
Trần Trọng Kim dịch thơ : "Hôm nay uống rượu say lì,
Đành là không có ích gì dưỡng sinh.
Thấy người say cả xót tình,
Nỡ nào để có một mình tỉnh riêng."
Ông nói chuyện uống rượu mà ẩn ý sâu sắc, đặc biệt là hai câu cuối buồn
bã,
cao ngạo. Ông phát triển ý thơ Khuất Nguyên "Chúng nhân giai túy, duy
ngã
độc tỉnh" (người đời đều say, chỉ mình ta tỉnh) để cảm khái về thế sự,
tìm
ở say một cách phản ứng với đời. Tuy vậy, người đọc vẫn thấy ở bài thơ
một
người phát ngôn, trực tiếp đứng ra biện hộ, dẫn giải cho những hành
động
và suy tư của mình. Cùng ý tưởng như của Vương Tích, trong bài thơ
"Tương
Dương khúc" số 4 của mình, Lý Bạch lại có cách thể hiện khác :
" Thả túy Tập Gia trì,
Mạc khan "Đọa lệ" bi.
Sơn công dục thướng mã,
Tiếu sát Tương Dương nhi."
tạm dịch : " Ao Tập Gia cứ tạm say,
Chớ nhìn "Đọa lệ" bia này mà chi,
Sơn công muốn cưỡi ngựa đi,
Tương Dương lũ trẻ chết vì cười trông."
Chi tiết "tạm say" ("Thả túy") và "chớ nhìn bia rơi lệ" ("Mạc khan "Đoạ
lệ"
bi") gợi nỗi niềm u uất, mượn rượu để quên, rất giống ý thơ của Vương
Tích.
Có điều Lý Bạch đã lồng ý tưởng đó vào cảnh Tương Dương và hình tượng
Sơn
Công. Ao Tập Gia, bia Đọa lệ và Sơn Công là những địa danh, tên tuổi
nổi
tiếng ở Tương Dương, đồng thời cũng gợi liên tưởng về những người say
vĩ
đại trong lịch sử đã đến đây (Dương Hộ đời Tây Tấn và Sơn Giản trong
Trúc
lâm thất hiền), bất đắc chí với đời nên lui về với rượu và cảnh ẩn dật.
Không
khí say không chỉ trong chốc lát mà như đã thấm cả vào Tương Dương, cơn
say
dài qua ba thế hệ lịch sử (Dương Hộ, Sơn Giản và Lý Bạch - người kể
chuyện
giấu mặt). Vương Tích làm thơ say mà giọng điệu lý luận thì vẫn tỉnh.
Lý
Bạch làm thơ say, hình ảnh mới thật là say. Ông tả Sơn Công muốn lên
ngựa
mà làm lũ trẻ con ở Tương Dương cười đến chết - chắc là say lắm nên mới
có
những cử chỉ ngộ nghĩnh gây cười đứt ruột như vậy ! Trẻ Tương Dương
tỉnh
mà cười Sơn Công say, có biết đâu Sơn Công say vì không muốn tỉnh để
nhìn
bia "Rơi lệ". Ai say, ai tỉnh ? Nghịch lý cuộc đời dồn trong một nét tả
hình
sinh động như có thần. So với bài thơ của Vương Tích (Sơ Đường) thì
cách
diễn đạt của Lý Bạch ở đây đã uyển chuyển, nhuần nhị hơn, ý thơ thể
hiện
qua hình tượng, sâu sắc mà không lộ. Chu Khiếu Thiên khi nhận xét về
bút
pháp của TTLB đã cho rằng : "Tuyệt cú của Lý Bạch nói chung không dùng
tình
ngữ trừu tượng mà phần lớn dùng thủ pháp biểu hiện toàn ý tượng, tức là
dừng
lại ở tả cảnh hoặc tạo cảnh, tình cảnh trong đó để người đọc tự hiểu...
nói
rõ mà không nói hết." [148:60]
Đấy là nói tứ tuyệt tả tình của Lý Bạch, dùng nhiều ý tượng. Còn tứ
tuyệt
tả cảnh của ông, với bút pháp "tả cảnh nhập thần" (như đã phân tích ở
mục
2 chương này) lại thấu suốt ý cảnh. Tả tình qua cảnh, tả cảnh qua tình,
tình
cảnh giao dung, TTLB có lẽ do thế mà đạt tới chỗ "ý tận".
(
2.3.2. Hồ Chấn Hanh trong "Đường âm quì tiêm" nhận xét :"Thất ngôn
tuyệt
cú, đời Thịnh Đường chủ về khí, khí thành nhưng ý chưa nói hết, Trung,
Vãn
Đường chủ về ý, ý giỏi nhưng khí chưa thật hoàn chỉnh" [119:88]. TTLB
có
thể coi là một trong những ngoại lệ hiếm hoi vì nó đã thành công trên
cả
hai lĩnh vực : "ý" và "khí".
Trong lý luận văn học cổ Trung Quốc, "khí" là một khái niệm triết học
khá
trừu tượng và phức tạp. Viện sĩ I.X.Lixêvích khi tìm hiểu khái niệm về
"khí
" [ 42] đã dẫn lời của Mạnh Tử, Hàn Dũ, Tào Phi... và nhiều học giả
Trung
Quốc nổi tiếng khác để cho rằng người Trung Hoa coi "khí" là "nguyên tố
kích
thích chủ yếu của quá trình sáng tạo " (trang 52), là "năng lượng tinh
thần
của tác giả "(trang 77), và nói như Tô Triệt thì "Văn là hình thức thể
hiện
của khí" (trang 73). Chúng tôi hiểu "Khí" trong TTLB là sự biểu hiện
bút
lực của ông, nó gắn liền với tư chất và phong cách của nhà thơ khi cảm
thụ,
phản ánh thế giới và biểu hiện nội tâm. Nói TTLB "khí hùng", chúng tôi
muốn
nhấn mạnh đến chất HùNG như một đặc trưng xuyên suốt thế giới nghệ
thuật
của TTLB. TTLB tình điệu phong phú (có Hùng, có Sầu, nhàn nhã, phiêu
dật...)
song cách thức biểu hiện thì đều chung một bút lực hùng hồn.
Dù viết về đề tài gì và cảm hứng trữ tình có khác, toàn bộ TTLB đều
phản
ánh khát khao hướng thượng và hướng thiện. Ông thích lấy cái ĐẹP, cái
HùNG
làm đối tượng miêu tả đã đành mà ngay cả những bài TT ông miêu tả tâm
trạng
u sầu hay chia biệt... thì tình cảm cũng mạnh mẽ, hào phóng và không
bao
giờ tuyệt vọng. Đó là một đặc điểm dễ nhận thấy không chỉ trong TTLB mà
trong
toàn bộ thơ ca của ông nói chung. Sở dĩ như vậy bởi Lý Bạch căn bản là
một
nhà thơ lãng mạn. Ông lại sinh ra và lớn lên giữa hồi cực thịnh của đế
chế
phong kiến. Cái không khí lạc quan, phấn chấn bao trùm thời đại đó,
cộng
với tinh thần, lãng mạn sẵn có và đặc biệt là niềm kiêu hãnh, tự ý thức
về
cái Tôi vĩ đại của ông - tất cả những cái đó đã nuôi dưỡng ý khí cứng
cỏi,
hào hùng trong hồn thơ Lý Bạch mà thơ ca từ Trung, Vãn Đường về sau rất
ít
khi còn có được.
( Chất HùNG trong TTLB thể hiện ở những ý tưởng, hình ảnh độc đáo, táo
bạo,
cao sang, ở tình điệu lãng mạn, bay bổng và tràn trề sức sống. Chương I
của
luận án khi phân tích nội dung TTLB đã ít nhiều đề cập tới khía cạnh
này.
Cái Tôi cá tính phi phàm và khát vọng giải phóng cá nhân trong TTLB
cũng
là một biểu hiện của cái HùNG. Từ góc độ này thì "HùNG" trong TTLB thể
hiện
không khác trong thơ ca Lý Bạch nói chung là mấy. Song, giống như sức
lực
của con người không chỉ lộ ra ở tầm vóc mà còn phải bằng hành động, cái
"HùNG"
thể hiện rõ nhất qua sự vận động của tứ thơ. ở đây, nhà thơ đóng vai
trò
của một viên tướng, tài ba không chỉ ở chỗ tập hợp được đội binh hùng
mạnh
mà còn phải có tài điều khiển quân của mình. Lý Bạch là một chủ soái
như
thế trong thơ. Và tứ tuyệt, do kết cấu gọn, thoáng, bộc lộ rõ nhất bút
lực
hùng hồn ấy của ông khi thao túng đội quân ngôn từ, hình ảnh.
Đọc TTLB, dễ có cảm giác bị "ngợp", không chỉ vì những hình ảnh, ý
tưởng
hay cảm xúc kỳ lạ mà ông miêu tả mà còn vì cách ông đặt chúng bên nhau.
Ngòi
bút ông có thể đang lan tỏa mênh mông bỗng đột ngột thu dồn về một điểm
tinh
tế, lắng đọng, đang rất thực, đột nhiên biến hóa hư không, đang rất
tĩnh
bỗng dưng thành cực động... chuyển biến khôn lường. Như bài "Vọng Lư
Sơn
bộc bố", ông vẽ lên núi Lư Sơn như lò hương tỏa khói tím dưới ánh mặt
trời,
hình ảnh uy nghi, mĩ lệ, đến câu thơ thứ hai đột ngột miêu tả thác nước
như
dòng sông bị treo ngược lên ("bộc bố quải tiền xuyên"). Lẽ ra ông phải
dùng
từ "huyền" ("treo" - nghĩa trừu tượng) nhưng ông lại dùng từ "quải"
("treo"
- bằng tay một vật cụ thể). Dòng thác khổng lồ bị ông dùng cái đinh rất
nhỏ
là từ "quải" treo ngược lên, có cảm tưởng sẽ rơi tuột xuống bất cứ lúc
nào.
Hình ảnh thơ đang từ chỗ trầm tĩnh, vững chãi (câu 1) bỗng vụt lung lay
đáng
sợ (câu 2) và rơi xuống với tốc độ khủng khiếp ở câu 3 : "Chảy bay
thẳng
xuống ba nghìn thước" ("Phi lưu trực há tam thiên xích"), để rồi đột
ngột
ở câu kết lại bay vút lên với liên tưởng tận chín tầng trời "ngỡ Ngân
Hà
lạc cửu thiên". Phải có một bản lĩnh vững vàng tuyệt vời mới có thể dẫn
dắt
được ý thơ qua những khúc ngoặt đột ngột kỳ lạ như ông đã làm mà bài
thơ
vẫn trôi chảy "nhất khí", đầu cuối tương hợp. Những bài "Thu Phố ca" số
8,
"Bồi tòng tổ Tế Nam Thái thủ phiếm Thước Sơn hồ" bài 3, "Bôn vong đạo
trung"
bài 1, "Thanh khê bán dạ văn địch"... đều có bút pháp thể hiện linh
hoạt
như vậy. Hơn thế nữa, có khi ngay trong một câu thơ, bút lực phi phàm
của
Lý Bạch cũng đủ làm người đọc như bị cuốn vào cơn lốc của cảm hứng và
hình
tượng. Bài "Đăng Lư Sơn Ngũ Lão phong", hai câu đầu ông tả núi Ngũ Lão :
" Đông nam Lư Sơn, Ngũ Lão phong
Thanh thiên tước xuất kim phù dung"...
( Đông nam Lư Sơn là Ngũ Lão,
Trời xanh vút hiện đóa sen vàng...)
Núi rồi lại núi (câu 1), vươn đến trời xanh (câu 2) tưởng đã là cao,
song
từ nối từ, hình ảnh trong câu thơ cứ dâng lên không ngừng : trời xanh -
chót
vót - ló ra - sen vàng. Có thể hình dung thế núi vút lên, qua trời
xanh,
vươn cao chót vót để cuối cùng lộ ra kiêu hãnh như một đóa sen vàng mà
nền
trời xanh như là lá xòe ôm ấp. Nhạc điệu trong câu thơ cũng rất cao do
hầu
hết là sử dụng phù bình thanh, đặc biệt thêm hai từ "tước xuất" - thanh
cao
nhất ở giữa câu tạo một đỉnh âm thanh tương xứng với hình ảnh núi.
Tương
tự, bài "Lục thủy khúc", chỉ với năm chữ mà ông tạo được cảnh nước trời
trong
trẻo với mấy tầng ánh sáng lồng vào nhau ngời ngợi :
" Lục thủy minh thu nguyệt"
( Nước biếc sáng trăng thu)
Trăng và nước bên nhau đã sáng, nước biếc với trăng thu lại càng sáng
trong
hơn. Lý Bạch đặt từ "minh" (sáng, soi sáng) vào giữa, kết hợp hai mảng
sáng
ấy lại, làm nó ngời lên và trong suốt, phản chiếu long lanh lẫn nhau.
Sức
diễn tả trong câu thơ quả đã đạt tới điểm đỉnh. Và bút lực của Lý Bạch
ở
đây thể hiện ở khả năng cực tả :cực cao, cực sáng, cực đẹp... khiến
người
đọc cảm thấy choáng ngợp và hoàn toàn bị chinh phục trước thế giới của
ông.
Tứ tuyệt của Đỗ Phủ cũng diễn tả cảm xúc sâu sắc, hình ảnh và tứ thơ
cứng
cỏi, mạnh mẽ song chủ về TRáNG chứ không HùNG vì ý thơ nhiều bi thương,
ít
có chất lãng mạn, lạc quan khiến người ta phấn hứng, khao khát chờ
mong...
như TTLB. Tứ tuyệt Trung Đường về sau, ngay cả những bài rất nổi tiếng
như
"Thanh minh", "Xích bích" (Đỗ Mục), "Khuê oán từ" (Lưu Vũ Tích), "Mộc
lan
hoa", "Tảo khởi" (Lý Thương ẩn)... ý tứ sâu xa, diễn đạt điêu luyện
nhưng
cũng thiếu ý khí kiêu hùng, hào sảng, tình cảm say mê và giọng điệu lôi
cuốn,
chinh phục như ở TTLB.
Với đặc điểm "ý tận, khí hùng", TTLB đã tiến một bước dài về chất lượng
và
nghệ thuật sáng tác so với tứ tuyệt các thời trước ông, thậm chí đỉnh
cao
mà nó lập ra thì đời sau cũng còn phải ngưỡng mộ. Sở dĩ nói như vậy vì
với
bút pháp này, TTLB đã đạt tới độ hòa hợp giữa nội dung và hình thức
nghệ
thuật, đồng thời lại khẳng định một giọng điệu HùNG riêng đầy bản sắc
giữa
thi đàn.
2.4. Nghệ thuật diễn đạt " Thanh thuỷ xuất phù dung" :
Lý Bạch có câu thơ nổi tiếng như là một tuyên ngôn sáng tác của ông
"Thanh
thủy xuất phù dung. Thiên nhiên khử điêu sức" (Nước trong lộ hoa sen.
Tự
nhiên vứt bỏ trang sức đẽo gọt- "Kinh loạn li hậu, thiên ân lưu Dạ Lang
ức
cựu du thư, hoài tặng Giang Hạ Vi thái thú lương tể "). Cực lực phản
đối
lối thơ hình thức chủ nghĩa , ông ví nó như đẽo con khỉ tắm từ cành gai
nhỏ,
mất ba năm mới xong mà chẳng dùng được vào việc gì ("Cổ phong ngũ thập
cửu
thủ" bài 35). Tứ tuyệt của ông có thể coi là mẫu mực sống động cho
phương
châm nghệ thuật "Thanh thủy xuất phù dung" mà ông đề ra, do sự kết hợp
hài
hòa của hai yếu tố : tự nhiên và mĩ lệ.
2.4.1. ( Một điều tưởng như mâu thuẫn là, ngay khi Lý Bạch đề cao tự
nhiên
trong sáng tác, thơ ông lại đầy ắp yếu tố "Kỳ". Người đương thời như Bì
Nhật
Hưu đánh giá thơ ông "...Lời nói ra ngoài trời đất, ý tứ ra ngoài sự
hiểu
biết của quỉ thần" [13:379]. Còn đến thế kỷ 20, một nhà nghiên cứu
phương
Tây đọc thơ ông cũng lưu ý đến cái "Kỳ" như một nhãn hiệu đặc trưng cho
phong
cách sáng tác của ông [104:111]. TTLB thích miêu tả những cảnh - vật
phi
phàm, con người khác thường, chim thú hiếm lạ... ngay cả cảm xúc cũng
mạnh
mẽ, phóng khoáng đến mức làm người ta kinh ngạc. Có điều "Kỳ" mà không
bí
hiểm, quái lạ. Những câu thơ kinh dị như của Lý Hạ (Trung Đường) : "...
Lửa
đen đón người mới. Mồ hoang đom đóm bay). ("Cảm phúng"), không thể tìm
thấy
trong TTLB. TTLB cũng "Kỳ" song đều theo nghĩa tích cực, hướng về những
cái
đẹp đẽ, tươi sáng, phi phàm.
Thực chất "Kỳ" trong TTLB là biểu hiện của bút pháp lãng mạn. Vì lãng
mạn
nên Lý Bạch nhìn thực tế không hoàn toàn như nó có mà qua lăng kính của
ước
mơ và khát vọng. Cho nên TTLB "SầU", khác với TT Đỗ Phủ, "Bi". Sầu u
uất
mênh mang vì khát vọng, lý tưởng không thành chứ không trĩu nặng bi
thương
vì lo âu tục tụy. TTLB diễn tả mối SầU kỳ lạ bởi hoài bão của ông phi
thường,
phác họa một thiên nhiên cực lớn, cực rộng, bởi lòng ông quá bao la...
"Kỳ"
cũng là cách Lý Bạch đả phá trật tự bảo thủ, phủ nhận những ràng buộc,
nhỏ
nhen... để hướng trí tưởng tượng bay bổng lên bầu trời tự do mơ ước.
Với
ý nghĩa đó, "Kỳ" trong TTLB lại được sử dụng như một phương tiện để đề
cao
và khẳng định "Tự NHIÊN" - cái "Thiên Chân" của con người. (
TTLB yếu tố "Kỳ" rất đậm nhưng lại không xa lạ, huyễn hoặc. Người ta
kinh
ngạc trước thế giới mà Lý Bạch vẽ lên vì nó quá đẹp, quá vĩ đại, nhưng
trong
lòng ai cũng từng lấp lánh một góc của thế giới ấy. TTLB "Kỳ" song cốt
lõi
lại là "Chân". Ông dùng cái "Kỳ" để khuếch trương bản chất của "Chân",
khiến
nó trở nên sinh động và dễ nắm bắt. Như bài "Thu Phố ca" số 5 của ông,
tả
cảnh Thu Phố thông qua hình ảnh vượn trắng : " Thu Phố đa bạch viên,
Diểu đằng nhược phi tuyết.
Khiên dẫn điều thượng nhi,
ẩm lộng thủy trung nguyệt "
tạm dịch : Thu Phố nhiều vượn trắng,
Nhảy xa như tuyết bay.
Phá phách trên cành cây,
Uống trăng đùa trong nước.
Vượn trắng vốn cực kỳ quí hiếm, vậy mà ở Thu Phố lại có rất nhiều. Đó
là
một sự kỳ. Vượn trắng bay nhảy nhẹ nhàng, sáng ngời như tuyết bay. Đó
là
một cảnh kỳ. Vượn trắng phá phách trên cây. Trăng chơi đùa trong nước.
Vượn
không uống nước mà uống trăng. Sự kỳ mà cảnh cũng kỳ ! Nhưng để diễn tả
vẻ
hoang sơ của Thu Phố thì không gì sinh động và chân thực bằng những chi
tiết
"Kỳ" ấy. Vượn trắng tung hoành, phá phách tự do như chủ nhân của Thu
Phố,
đủ thấy nơi đây hoang dại, nguyên sơ như chưa từng in dấu con người.
Trăng
không thể đùa trong nước, nhưng bóng trăng in trong nước khi vượn uống
nước
tất phải lung lay, xao động như cũng biết đùa. Chi tiết miêu tả tưởng
phi
lý song lại rất thực và cũng rất đẹp. Bài thơ đi từ tả cái "Kỳ" của Thu
Phố
nên giọng điệu trữ tình cũng đặc biệt, mà chỉ có nó mới lột tả hết được
tâm
trạng phức tạp của Lý Bạch khi ở Thu Phố : buồn vì nó hoang vắng, say
mê
vì nó đẹp và khâm phục vì nó lạ ! Tương tự như vậy khi Lý Bạch nói "Tóc
trắng
ba nghìn trượng. Theo mối sầu dài mãi..." ("Bạch phát tam thiên trượng.
Duyên
sầu tự cá trường..." - "Thu Phố ca" bài 15), ông đã
cực tả độ dài sợi tóc để ngầm gợi bản chất phi thường của mối SầU. Vì
sầu
kỳ lạ nên
tóc theo đó mà bạc trắng và dài kỳ lạ. Hình tượng thơ đẹp mà sống động
chính
nhờ sự miêu tả khuếch đại đó. Những bài "Hoành giang từ" (6 bài), "Đề
tình
thâm thụ ký Tượng công", "Đồng quan sơn túy hậu tuyệt cú", "Khốc Triều
Khanh
Hoành"... của Lý Bạch đều có bút pháp miêu tả tương tự.
"Kỳ" khiến TTLB rất khác với tứ tuyệt của Đỗ Phủ. Đỗ Phủ thiên về dùng
chi
tiết THựC để tả CHÂN. Chu Khiếu Thiên trong "Đường tuyệt cú sử" đánh
giá
rất cao Đỗ Phủ và dành hẳn một chương để khẳng định Đỗ Phủ là "người đã
mở
ra hướng mới trong nghệ thuật tuyệt cú" ("Tuyệt cú nghệ thuật thác tân
giả").
Ông nhận xét tuyệt cú Thịnh Đường trọng tả tình, chủ về tình cảnh, quí
hư,
viễn, nhạt đạm, ý cảnh hư. Còn tuyệt cú Đỗ Phủ trái lại nhiều yếu tố
nghị
luận, trực tả tâm ý, sắc thái đậm ý cảnh thực1, ( tóm lại là yếu tố
"Thực"
rất mạnh. TTLB về bút pháp có vẻ gần với tuyệt cú Thịnh Đường hơn vì
với
yếu tố "Kỳ", ông đã đưa cái "HƯ" vào sự phản ánh khiến bài thơ ý cảnh
lung
linh. Có điều Chu Khiếu Thiên khi phân tích nghĩa khai phá của tứ tuyệt
Đỗ
Phủ đã nhấn mạnh đến tính chất "MớI" nhiều hơn là "HAY", mà dường như
đây
là một sự thực. Đỗ Phủ đã táo bạo vạch ra một con đường riêng trong tứ
tuyệt,
song không phải lúc nào ông cũng thành công. Thực tế là đã có ý kiến
phê
bình tứ tuyệt của ông "THựC" quá cho nên "TRựC" quá, thiếu cái uyển
chuyển,
hàm súc "gợi mà không tả" vốn là một đặc trưng của thể loại này. Giáo
sư
Dịch Quân Tả trong cuốn "Văn học sử Trung Quốc" cũng nhận xét :"Có một
điểm
đáng chú ý là thơ tuyệt cú của Đỗ lại thua Lý" [13:399] . Đỗ Phủ có một
số
bài tứ tuyệt rất hay, nhưng chính ở những bài này, ông thường quay về
với
bút pháp "hư, viễn", ít nhiều đưa cái "Kỳ" vào trong miêu tả. ("Qui
nhạn",
"Tuyệt cú", "Phục sầu"...).
TTLB với bút pháp "ảo trung hữu chân" - lấy cái kỳ ảo để lột tả bản
chất
chân thực, sinh động, đã đạt tới sự hài hòa giữa hai yêu cầu CHÂN (tự
nhiên)
và Mỹ(đẹp),có thể xem là một biểu hiện của phương châm "Thanh thủy xuất
phù
dung" mà Lý Bạch
đã đề ra.(
2.4.2. Tuy nhiên, TTLB không phải bao giờ cũng "Kỳ". Nói đúng ra, Lý
Bạch
thích lấy cái "Kỳ" làm đối tượng miêu tả, nhưng ông lại diễn đạt nó
theo
cách thức hoàn toàn tự nhiên, hầu như không trau chuốt, đẽo gọt. Người
đời
thán phục ông không chỉ vì thơ hay mà còn vì tài thơ mẫn tiệp, Đỗ Phủ
ca
tụng ông uống một đấu rượu thì làm được trăm bài thơ ("Lý Bạch nhất đấu
thi
bách thiên"). Phong cách sáng tác tự nhiên của Lý Bạch trái ngược hẳn
với
Đỗ Phủ. Đỗ Phủ thích tả THựC, song hình thức diễn đạt lại rất dụng
công,
nắn nót từng chữ khiến người ta "đọc chẳng kinh người, chết chửa thôi".
Còn
Lý Bạch, như Nghiêm Vũ nhận xét, lại "sở trường ở ý thơ phun thẳng từ
trong
lòng ra" [117:600]. Chính ở điểm này mà Lý Bạch được nhiều nhà thơ đời
sau
phục là tài hoa và có năng khiếu thiên bẩm hơn Đỗ Phủ.
Lý Bạch thành công nhất ở những thể thơ tự nhiên, không gò bó : nhạc
phủ,
cổ thi và tứ tuyệt. Nếu nói đến tính chất phóng túng thì không gì bằng
cổ
thể thi và nhạc phủ. Còn nếu chú ý đến tính chất giản dị, thanh thoáng
thì
có lẽ tứ tuyệt là thể loại đáng lưu ý nhất.
2.4.2.1. Kết cấu phổ biến nhất trong TTLB là "tuyền thủy thuận lưu"
(như
nước suối chảy xuôi dòng), ý thơ móc nối tự nhiên, lưu loát. ("Tĩnh dạ
tứ",
"Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký", "Sơn trung
vấn
đáp", "ức Đông Sơn nhị thủ"...). Kết cấu thơ tứ tuyệt của Vương Duy
nhìn
chung chặt chẽ và nhiều lý tính, mặc dù nó ẩn dưới một hình thức thanh
nhã.
Còn TTLB mạch thơ bị chi phối mạnh mẽ bởi cảm xúc, mà đã là cảm xúc thì
nó
hết sức tự nhiên, không tuân thủ qui tắc nào cả.
( TTLB hay có lối mở đầu "trực phá" (đi thẳng vào vấn đề). Chu Khiếu
Thiên
nhận xét hai câu đầu của bài TTLB thường "lấy ý tràn đầy làm sóng" ("dĩ
dật
ý tác ba")1. TTLB ngay từ phút đầu đã đưa người đọc xâm nhập thẳng vào
thế
giới của nó, tên bài thơ và câu thơ thứ nhất thường có mối liên hệ chặt
chẽ.
Như bài "Biệt Đông Lâm tự tăng" (Tạm biệt sư chùa Đông Lâm), câu đầu đã
giới
thiệu ngay địa điểm và sự việc "Đông Lâm tống khách xứ" (Đông Lâm nơi
tiễn
khách). Bài "Cửu nhật Long sơn ẩm" (ngày mùng chín uống rượu ở Long
sơn)
câu đầu lặp lại y nguyên tên bài thơ. Bài "Nga Mi sơn nguyệt ca", câu
đầu
tả ngay vầng trăng "Nga Mi sơn nguyệt bán luân thu" (Trăng núi Nga Mi
nửa
vầng thu)... Cũng có khi TTLB không miêu tả ngay đối tượng và địa
điểm...,
nhưng lại gợi rất rõ một không khí trữ tình mà nó sẽ bao trùm lên toàn
bài.
Như bài "Độc tọa Kính Đình sơn" số 1, câu đầu không tả núi, chỉ tả chim
bay:
"Chúng điểu cao phi tận" (chim bầy cao bay hết), song hàm ý về một độ
cao
và sự cô đơn khác thường đã hé lộ - mà đó chính là ý tưởng quán xuyến
toàn
bài. Bài "Tặng Uông Luân" biểu lộ cảm nhận sâu sắc về tình bạn nên câu
đầu
gợi lên bối cảnh chia ly - thời điểm bộc lộ rõ nhất tình lưu luyến :"Lý
Bạch
thừa chu tương dục hành" (Lý Bạch cưỡi thuyền sắp sửa đi)... Cách phá
đề
của TTLB giản dị mà không nhàm chán, thẳng thắn mà không lộ liễu cũng
bởi
gốc của nó là "Tự nhiên". Vì "tự nhiên" như bày ra trước mắt nhưng lại
biến
hóa khôn lường, câu phá đề của TTLB "nói rõ mà không nói hết", vẫn
khiến
người đọc ngạc nhiên và bị cuốn hút vào bài thơ. Như bài "Đồng Quan sơn
túy
hậu tuyệt cú", câu phá đề thật lạ lùng :
" Ngô ái Đồng Quan lạc..."
( Ta thích Đồng Quan vui...)
Thông thường ra, một câu khái quát cảm xúc chung như thế phải đặt ở vị
trí
kết, khi nhà thơ đã miêu tả và phân tích đầy đủ mọi dữ kiện để có thể
truyền
cảm giác đó một cách mạnh mẽ tới người đọc. Mà ngay cả cho một câu kết
thì
cách nói "Ta thích..." ("Ngô ái...") đó cũng có vẻ quá lộ liễu, không
chừa
lại chút tưởng tượng nào cho độc giả. Thế mà Lý Bạch lại đưa nó ngay
lên
đầu ! Có vẻ như ông đã - bằng sự "tự nhiên thái quá" của mình - đẩy bài
thơ
vào ngõ cụt vì những câu thơ sau có khả năng chỉ là minh họa buồn tẻ
cho
một định lý đã được khẳng định trước. Toàn bài tứ tuyệt đó như sau :
" Ngô ái Đồng Quan lạc,
Thiên niên vị nghĩ hoàn.
Yêu tu hồi vũ tụ,
Phật tận Ngũ tùng san (sơn) "
tạm dịch : Ta yêu vui thú Đồng Quan,
Nghìn năm chưa chắc đã toan xa rời.
Muốn quay múa ống tay chơi,
Lướt nhanh thẳng tới tận nơi Ngũ Tùng.
Lý Bạch viết bài này khi say rượu ở Đồng Quan. Người say khó mà kìm giữ
được
cảm xúc trong lòng. Cứ qua cách ông nói thẳng tuột "Ta yêu vui thú Đồng
Quan"
đủ thấy hơi men đang bốc. Cho nên ông mới khẳng định "nghìn năm chưa
nghĩ
đến chuyện về", cứ như là ông có thể sống và yêu Đồng Quan lâu đến thế.
Thời
gian đã chẳng ảnh hưởng gì được tới ông mà không gian cũng vậy. Phơi
phới
thần tiên, ông chỉ cần phất ống tay một vòng là lướt đến tận núi Ngũ
Tùng
(cách Đồng Quan năm dặm). Bài thơ đúng là giọng điệu của một "ông tiên
rượu"
("Tửu trung tiên"), hào hứng, say sưa và nhẹ lâng lâng ! Câu phá đề của
Lý
Bạch đặt trong bài thơ quả là tuyệt diệu để gợi lên cảm giác của người
say,
thấy mình rất lớn và rất tự do, có thể nói và làm tất cả theo ý thích
mà
không cần lý giải. Giả sử thay câu đầu bằng cách nói gián tiếp, tả Đồng
Quan
đẹp nên không muốn về, thì ý thơ sẽ tỉnh táo, chỉ đề cao được Đồng Quan
mà
đánh mất cá tính, cái Tôi nhợt nhạt và thụ động không tương xứng với
phong
độ ở hai câu kết. Trong cách phá đề hết sức tự nhiên, Lý Bạch đã bộc lộ
sự
nhạy cảm với bản chất của vấn đề, không cần đưa đẩy nhiều lời mà đạt
ngay
được hiệu quả "khai môn kiến sơn" (mở cửa thấy núi).
TTLB thường chuyển ý cũng rất tự nhiên. Mặc dù thơ ông có nhiều hình
ảnh
đối lập để gây ấn tượng, song ông ít khắc họa mâu thuẫn. Lối chuyển ý
ngoặt
sang hẳn hướng khác như ở các bài "Khuê oán", "Tây cung thu oán"...
(Vương
Xương Linh), lấy cảnh đối lập với tình làm nổi lên sự ngang trái... rất
hiếm
trong TTLB. Có lẽ vì Lý Bạch chủ trương tự nhiên, mà cách kết cấu như
thế
cho thấy ít nhiều đã có sự bố trí, dàn cảnh. Cái cảm giác TTLB được
viết
một lèo, như "phun từ trong lòng ra" có lẽ một phần cũng vì cách ông
chuyển
ý rất trôi chảy, bài thơ đầu cuối hô ứng, đạt tới độ "nhất khí". TTLB
thích
nâng cao chứ không hay lật lại vấn đề. Lối suy tư trăn trở như của
Vương
Duy trong "Mạnh Thành ao", Giả Đảo trong "Độ Tang càn"... lấy ý tưởng
"luân
hồi" để đánh giá cảm xúc của mình, thấy nó rất tương đối, dễ đổi
thay...,
hầu như không có trong TTLB. Có thể đó cũng là lý do khiến có ý kiến
cho
rằng TTLB thiếu một chiều sâu trầm lắng, bình tĩnh đánh giá cuộc đời từ
nhiều
góc độ như Đỗ Phủ, Vương Duy. Dù sao thì TTLB với kết cấu trôi chảy
theo
dòng cảm xúc nhất quán, mãnh liệt, cũng gây ấn tượng mạnh mẽ theo kiểu
khác.
Ông đã không mổ xẻ thế giới như một phẫu thuật gia để hiểu về nó, mà
như
một nghệ sĩ, ông muốn cảm thấy nó dưới hình hài tự nhiên, trọn vẹn.
Chính
vì thế, TTLB luôn vận động hướng tới một sự thống nhất lớn. Nói như vậy
không
có nghĩa là nó không có những chuyển ý bất ngờ. Đã được chuẩn bị trước
mà
vẫn ngạc nhiên, đó mới là sự ngạc nhiên thú vị nhất, và TTLB đã đạt
được
trình độ đó (Xin xem phân tích các bài "Tặng nội" tr. 63, "Quân hành"
tr.37
của luận án). Bất ngờ trong TTLB do đó mà thường mang ý nghĩa khám phá
chứ
không phải là cái bẫy kỹ xảo.
(
2.4.2.2. Ngôn ngữ trong TTLB cũng hết sức trong sáng và dễ hiểu. Ông
không
chơi chữ cầu kỳ và cách diễn đạt của ông tự nhiên đến mức có vẻ không
được
trau chuốt cho lắm. Vậy mà ông lại "dấn thân" vào một thể loại mà do số
chữ
quá ít ỏi, yêu cầu đầu tiên của nó là ngôn ngữ hàm súc, tinh túy ! Lý
Bạch
giải quyết mâu thuẫn này hết sức nhẹ nhàng : bằng con đường Tự NHIÊN.
Thơ
ông hướng tới khắc họa cái CHÂN, kết cấu trôi chảy tự nhiên thì ngôn
ngữ
phù hợp nhất phải là thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị. Bất cứ một sự
phô
bày, đẽo gọt ngôn từ nào cũng sẽ trở nên kệch cỡm và mâu thuẫn với tính
"CHÂN"
là gốc của tứ thơ. Cũng giống như đa số các thi sĩ thời đại ông, Lý
Bạch
đưa vào tứ tuyệt của mình khá nhiều điển cổ, điển tích. Có điều chúng
phần
lớn đều thuộc loại thông dụng, không cần phải tra cứu cầu kỳ mới hiểu
được
và thường chỉ đóng vai trò bổ sung chứ không quyết định được ý thơ. Như
bài
"Tương Dương khúc" số 4 của ông ( Xin xem trang 94 của luận án), nếu
không
hiểu bia "Đọa lệ" có nghĩa gì và "Sơn Công" là ai thì người đọc vẫn có
thể
cảm nhận được hàm ý Lý Bạch gửi gắm ở đây - dù chưa thật trọn vẹn.
Một điều đáng lưu ý là TTLB mặc dù ngôn ngữ giản dị nhưng cũng lại rất
đẹp
và dùng từ rất táo bạo. Như cách ông tả buổi gặp gỡ với bạn trong tiệc
rượu
ở Tây Giang : ... " Tương phùng bất giác túy
Nhật đọa Lịch Dương xuyên "
("Xuất kỹ Kim Lăng tử trình Lư Lục tứ thủ", bài 3)
... ( Gặp nhau bất giác đã say
Mặt trời rụng xuống sông này Lịch Dương).
Gặp nhau, uống say là chuyện thường tình. Nhưng Lý Bạch đặt trợ từ "bất
giác"
(chợt/lúc nào không biết) trước từ "túy", gây cảm giác vừa gặp đã say,
không
phải say rượu mà say vì tương phùng. Từ "lạc" (lặn) sẽ thích hợp hơn
khi
tả mặt trời, nhưng Lý Bạch lại dùng từ "đọa" (rơi rụng) như thể vầng
dương
kia không lặn xuống từ từ mà giống trái cây chín thình lình rơi rụng
trong
chớp mắt. Lý Bạch dùng từ rất mạnh mẽ để diễn tả cảm xúc mãnh liệt về
một
tình bạn đủ làm say lòng và quên cả thời gian, trời đất - trước sự lớn
lao
của nó thì mặt trời dường như cũng trở nên nhỏ bé, không bền vững ! Có
thể
thấy Lý Bạch không trau chuốt từ ngữ nhưng hiệu quả diễn đạt lại cực
cao
và hình ảnh thơ rất đẹp. Chỉ vài từ mà ông phác họa được một sự kết hợp
đầy
thi vị : gặp bạn, lại có rượu, giữa buổi hoàng hôn, trên dòng sông. Chi
tiết
"mặt trời rụng" ("Nhật đọa") còn gợi tả nỗi luyến tiếc về thời gian
trôi
nhanh đến sững sờ, cho thấy cuộc gặp gỡ kia rất tuyệt. Câu thơ lời giản
dị
mà ý cảnh thâm trường, sinh động, đẹp đẽ. Nhìn chung, TTLB sở trường về
sử
dụng những động từ mạnh, mới đọc tưởng như thô, song lại cực kỳ gây ấn
tượng
và rất sinh động. Như từ "lõa thể" (trần truồng) trong bài "Hạ nhật sơn
trung"
( Xin xem trang 80 của luận án), từ "biến" trong câu "Sầu dung biến hải
sắc"
("Mặt u buồn làm đổi sắc biển") - bài "Bôn vong đạo trung ngũ thủ" số
2),
từ "đọa" (rơi) trong câu "Tương Khan nguyệt vị đọa" ("Nhìn nhau trăng
chưa
rơi" - bài "Việt nữ từ" số 4), từ "trầm" (đắm mình) trong câu "Minh
nguyệt
bất qui trầm bích hải" ("Trăng sáng không về, đắm mình ở biển xanh" -
bài
"Khốc Triều Khanh Hoành")...
( Lưu Đại Khôi (đời Thanh) trong "Luận văn ngẫu ký" đã đề cao giản dị
là
"cảnh giới tận cùng của văn chương" ("cố giản vi văn chương tận cảnh").
Sở
dĩ như vậy vì theo ông :" những tay bút già dặn thì giản dị, ý chân
thực
thì giản dị, từ thiết thực thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí
đầy
đủ thì giản dị, phẩm chất cao quí thì giản dị, thần cao xa mà hàm chứa
không
cùng thì giản dị" ("bút lão tắc giản, ý chân tắc giản, từ thiết tắc
giản,
vị đạm tắc giản, khí uẩn tắc giản, phẩm quí tắc giản, thần viễn nhi hàm
tàng
bất tận tắc giản") [39:178]. TTLB với bút pháp tự nhiên giản dị đã bộc
lộ
một tài thơ vĩ đại.
2.(4.3. Nhưng cái gì đã quyết định phong cách tự nhiên đó trong TTLB ?
Có
thể thấy Lý Bạch đã học tập rất nhiều ở dân ca ( Xin xem cụ thể ở
chương
3). Tứ tuyệt của ông nhiều bài không chỉ lấy nguồn cảm hứng từ dân ca
mà
cả phong vị bình giản mà đẹp đẽ cũng rất gần gũi. ("Việt nữ từ ngũ
thủ",
"Lục thủy khúc", "Tương Dương khúc" 4 bài, "Cán sa thạch thượng
nữ"...).
Chính điều đó đã khiến thơ ông - mặc dù nói rất nhiều về cái Tôi - lại
dễ
hiểu và mang tính nhân dân hơn cả thơ Đỗ Phủ - vị "thánh thi" của lê
dân.
Song dân ca là vốn chung, tại sao với Lý Bạch lại có ảnh hưởng nhiều
hơn
các nhà thơ khác ? Sở dĩ như vậy vì trong tâm hồn Lý Bạch vốn sẵn có
một
sợi dây đồng điệu - đó là bản chất "anh nhi" (đứa trẻ thông minh) của
ông.
Lý Chất (đời Minh) trong "Đồng tâm thuyết" khẳng định :" Những áng văn
chương
hay nhất trong thiên hạ chưa bao giờ lại không nảy sinh từ trái tim trẻ
thơ"
[ Sđd 39:106] ("Thiên hạ chi chí văn, vị hữu bất xuất vu đồng tâm yên
giả
dã"). "Trái tim trẻ thơ" ("đồng tâm") ở đây là bản năng hướng tới
"Thiên
chân", lời nói tự nhiên phát ra từ tấm lòng chân thực. Với chủ trương
"Thanh
thủy xuất phù dung", Lý Bạch đã đi tìm cái đẹp từ trong sự chân thực và
tứ
tuyệt của ông là đóa sen nở ra từ hồn thơ tinh khiết, sạch trong. Cuộc
sống
nay đây mai đó, du lịch nhiều tiếp xúc với đủ hạng người (Lý Bạch đã 3
lần
viễn du, cả cuộc đời đã đi ( hầu khắp đất nước) có lẽ cũng góp phần làm
tăng
tính cách phóng túng trong đời và tự nhiên trong thơ Lý Bạch. Một
nguyên
nhân sâu xa hơn của bút pháp tự nhiên trong sáng tác Lý Bạch có lẽ là
ảnh
hưởng của Đạo gia. "Đạo" theo Lão Tử là "Đường thiên nhiên". Lão Tử chủ
trương
bỏ cái "trí", chỉ minh triết và lặng lẽ hòa mình vào sự vận động của
đại
Tự Nhiên, như vậy sẽ tìm tới ĐạO. TTLB dường như đã mang được tinh thần
đó
của ĐạO khi nó gạt bỏ tối đa suy lý, xét đoán, chú trọng tả CHÂN TÂM
theo
một con đường "nhất khí", với ngôn ngữ tự nhiên, giản dị.
x
x x
2.5. Trong bốn đặc trưng bút pháp nêu trên của TTLB thì "cái Tôi" cá
tính"
và "Thanh thủy xuất phù dung" có lẽ là tiêu biểu nhất cho cá tính sáng
tạo
của Lý Bạch. Còn "Tả cảnh nhập thần" và "ý tận, khí hùng" lại chủ yếu
nói
lên thành tựu nghệ thuật mà TTLB đạt tới. Có thể nói rằng với những đặc
điểm
phong cách đó, Lý Bạch đã cống hiến cho thể loại tứ tuyệt trên cả hai
phương
diện : cá tính độc đáo và nghệ thuật điêu luyện. TTLB do đó không chỉ
"hay"
mà còn "mới", không chỉ xuất hiện như một hiện tượng nổi bật mà còn để
lại
những bài học kinh nghiệm sáng tác mẫu mực, góp phần thúc đầy sự phát
triển
của thể loại.
Chương 1 và 2 của luận án đã khảo sát TTLB như một chỉnh thể thống
nhất,
so sánh nó với thơ cùng loại của các nhà thơ khác và thơ khác loại của
chính
Lý Bạch để tìm ra nét hấp dẫn độc đáo. Song muốn hiểu sâu hơn về TTLB
thì
không thể dừng lại ở đó mà phải thâm nhập vào cơ cấu bên trong của nó,
khám
phá đặc điểm riêng cũng như mối quan hệ đan chéo, bổ sung giữa từng thể
loại
nhỏ của tứ tuyệt. Đó chính là nhiệm vụ của chương 3 luận án.
Phạm Hải Anh