Chương
3
Những đặc sắc trong từng thể loại tứ tuyệt
Dựa trên những
tiêu
chí khác nhau, TTLB (hiểu theo nghĩa rộng, gồm toàn bộ các bài thơ 4
câu
của Lý Bạch) có thể phân làm nhiều loại. ở đây, chúng tôi dựa trên hai
dấu
hiệu hình thức dễ nhận thấy nhất để phân loại là : việc áp dụng luật
Đường
và số chữ trong câu.
3.1. Cổ tuyệt - Luật tuyệt - Tứ tuyệt bán cổ bán luật :
3.1.1. Nếu căn cứ vào việc áp dụng luật Đường trong bài thơ mà xét thôi
thì TTLB có thể chia làm ba dạng lớn :
a- Cổ tuyệt : những bài tứ tuyệt viết theo thể cổ, hoàn toàn tự do,
gieo vần Bằng hoặc vần Trắc :
Như bài " Trâu Diễn cốc" : "Yên cốc vô noãn khí,
Cùng nham bế nghiêm âm.
Trâu tử nhất xuy luật,
Năng hồi thiên địa tâm".
Bài này các chữ thứ hai trong câu không niêm với nhau (theo luật thì
chữ thứ hai của câu 1 và câu 4, câu 2 và câu 3 phải cùng thanh), chữ
thứ hai và
chữ thứ tư trong một câu không ngược thanh. Do vậy có thể biết là nó
hoàn toàn không theo luật mà được viết theo lối cổ thể thi, hình thức
tự do. Tương tự, như bài "Hí Đỗ Phủ" :
" Phạn Khỏa sơn đầu phùng Đỗ Phủ
Đỉnh đái lạp tử nhật trác ngọ.
Tá vấn nhân hà thái sấu sinh ?
Tổng vị tòng tiền tác thi khổ. "
Bài này cũng không có niêm mà lại gieo vần trắc ("ngọ" - " khổ") do đó
có thể khẳng định là thuộc cổ thể.
b- Luật tuyệt : Những bài tứ tuyệt theo luật Đường, có niêm, luật, gieo
vần bằng, có thể có đối hoặc không. Vì chỉ dựa trên những dấu hiệu hình
thức để phân loại, nên với những bài TTLB lấy đề tài từ nhạc phủ, cổ
thi, phong vị rất gần gũi với dân ca, nhưng vẫn giữ niêm, luật, vần
bằng, ... theo đúng luật Đường thì chúng tôi vẫn xếp vào dạng luật
tuyệt. Như bài "Tương Dương khúc" số 4, tuy lấy đề tài cũ trong nhạc
phủ song về hình thức rất đúng luật :
"Thả túy Tập Gia trì,
Mạc khan "Đọa lệ" bi.
Sơn Công dục thướng mã,
Tiếu sát Tương Dương nhi."
chữ thứ 2 của câu 1 và câu 4, câu 2 và câu 3 niêm với nhau, chữ thứ 2
và thứ 4 trong mỗi câu đều ngược thanh, vần là vần bằng ("bi" - "nhi"),
bài thơ
rất đúng luật nên chúng tôi vẫn coi là luật tuyệt. (Việc phân loại hoàn
toàn
căn cứ vào hình thức sẽ tạo điều kiện dễ dàng, rành mạch hơn cho các
thống
kê sau này). Ngoài ra còn có dạng luật tuyệt phá luật : bài thơ có
niêm,
vần bằng, chỉ có tối đa một hoặc hai câu phá luật về thanh điệu (lẽ ra
thanh
bằng lại là thanh trắc hoặc ngược lại). Như bài "Oán tình" :
" Mỹ nhân quyển châu liêm,
Thâm tọa tần nga mi,
Đãn kiến ngân lệ thấp,
Bất tri tâm hận thùy.
Bài này phá luật ở câu 1 (từ "châu" lẽ ra phải có vần trắc).
c. Tứ tuyệt bán cổ - bán luật : Những bài tứ tuyệt không hoàn toàn theo
cổ thể mà cũng không hẳn theo luật . Bài thơ có niêm luật rất tề chỉnh
nhưng lại theo vần trắc - như bài " Vương Chiêu Quân" :
" Chiêu Quân phật ngọc yên,
Thượng mã đề hồng giáp.
Kim nhật Hán cung nhân,
Minh triêu Hồ Địa thiếp."
Bài này không những có niêm, đúng luật bằng trắc mà thậm chí còn đối ở
liên cuối. Tuy vậy về vần thì lại theo lối cổ thi (vì luật thi luôn
luôn phải là
vần bằng, bài này lấy vần trắc ). Do vậy mà chúng tôi tạm gọi đây là
hình thức "tứ tuyệt bán cổ - bán luật". Một dạng khác là bài thơ có câu
theo cổ thể, lại có câu theo luật thi mà dấu hiệu dễ thấy nhất là hình
thức đối. Như
bài :"Thượng hoàng tây tuần Nam kinh ca" bài 7 :
" Cẩm thủy đông lưu nhiễu Cẩm thành,
Tinh Kiều bắc quải tượng thiên tinh.
Tứ hải thử trung triều Thánh chủ,
Nga Mi sơn hạ liệt tiên đình."
Bài này hai câu đầu rất đúng luật, lại có đối. Nhưng hai câu sau phá
ra, thất niêm (chữ thứ 2 của câu 3 không niêm với câu 2, câu 4 không
niêm với câu 1). Về hình thức toàn bài thì không theo luật, nhưng cắt
riêng mỗi liên lại âm luật tề chỉnh, cho nên gọi là "bán cổ - bán luật".
Theo cách phân loại như trên, khảo sát toàn bộ TTLB (193 bài), chúng
tôi có bảng thống kê như sau :
Loại
Số bài
Cổ tuyệt
70
Luật Đúng luật
Phá luật
99
8
TT bán cổ - bán luật
16
3.(1.2 Con số thống kê cho thấy một thực tế khá bất ngờ: mặc dù Lý Bạch
có phong cách sáng tác tự nhiên, không ưa gò bó, được xem là "không
thích
luật thi" [91:37], song những bài luật tuyệt đúng luật lại chiếm tỉ lệ
quá
nửa trong TTLB
(99/193 bài). Một điểm nữa cũng đáng lưu ý là trong số luật tuyệt của
Lý Bạch lại có rất nhiều bài lấy đề tài từ nhạc phủ, ca từ, hoặc đề tài
mới, song phong vị hồn nhiên, tươi sáng rất gần với dân ca. Như bài
"Tương Dương khúc" số 4, bài "Thu Phố ca" số 4, 6, 7, 8, 9, 14, 15, bài
"Việt nữ từ" số 3, "Lục thủy khúc", ... tên là "khúc", "ca", "từ" ...,
song niêm luật rất tề chỉnh, còn phong vị mỗi bài một vẻ, nhưng hầu hết
đều khơi nguồn cảm hứng từ dân ca. Hoặc như các bài "Lao Lao đình",
"Cán sa thạch thượng nữ", "Trường Môn oán" bài 2, "Bồi tòng Tổ tế Nam
Thái thủ phiếm Thước Sơn hồ" bài 2... thì tuy là luật tuyệt song từ
ngôn ngữ đến hình ảnh lại bình dị, mang đậm phong cách dân gian, như
chưa hề qua tay đẽo gọt. Trái lại, cổ tuyệt của Lý
Bạch thì không nhất thiết lúc nào cũng mang dáng dấp dân ca mà có nhiều
bài
giọng điệu cao sang, tứ thơ sâu sắc. Ngay cả những bài Lý Bạch ca tụng
hai
vua (Đường Minh Hoàng và Túc Tông), Vĩnh Vương, trang trọng là thế,
song hình
thức cũng không câu nệ phải là luật thi mà quá nửa là cổ tuyệt ("Vĩnh
Vương
đông tuần ca" bài 1, 3, 4, 6, 8, ( 9, "Thượng hoàng tây tuần Nam kinh
ca"
bài 5, 6, 9, 10). Thậm chí ngay với cùng một chủ đề, đề tài, một chùm
TTLB
lại có bài theo thể cổ, có bài theo luật, có bài bán cổ bán luật (Chùm
"Thu
Phố ca" 17 bài, bài số 3, 5, 11, 13, 16 là cổ tuyệt, bài số 4, 7, 8, 9,
10,
14, 15 là luật tuyệt đúng luật, bài số 6 là luật tuyệt phá luật). Thực
tế
phức tạp này cho thấy luật thi không ràng buộc gì ngòi bút Lý Bạch. Cổ
tuyệt
của ông không cứ phải bình dị, gần với dân ca, còn luật tuyệt cũng
không
nhất thiết phải cao sang, uyên bác. Điều đó có thể gây trở ngại không
vượt
qua nổi nếu muốn tìm đặc điểm nội dung của từng thể loại cổ tuyệt -
luật
tuyệt - bán cổ bán luật trong TTLB, nhưng lại chứng minh rất rõ tính
sinh
động, đa dạng của bút pháp thơ Lý Bạch. Thẩm Đức Tiềm đã từng nói về
luật
trong làm thơ :"Thi quí ở tính tình, cũng cần phải có phép tắc... Nhưng
cái
gọi là phép ấy là đi ở lúc phải đi, dừng ở lúc phải dừng, còn các chỗ
khởi
phục, chiếu ứng, thừa tiếp, chuyển hoán là tự đem tinh thần mà nhận ra.
Cho
nên phép làm bài chỉ là để dạy người mới học, không đủ để nói với bậc
cao
minh" [83:48]. TTLB với luật thi chính là như vậy.
3.1.3. Tuy nhiên, việc đưa luật thi vào tứ tuyệt hay dùng hình thức thơ
cổ thể trong TTLB không phải là tùy tiện và vô nghĩa. Nó chịu sự chi
phối
mạnh mẽ của phong cách sáng tác tự nhiên của Lý Bạch, và chính ở đây
với
bản sắc riêng độc đáo, Lý Bạch đã đem lại những cống hiến mới mẻ cho tứ
tuyệt
trên cả hai phương diện : kế thừa, đổi mới cổ thi và hoàn thiện hóa
luật
thi.
Lý Bạch đã kế thừa một di sản thơ tứ tuyệt khá đồ sộ từ kho tàng dân
gian và sáng tác của tiền nhân. Hình thức cổ tuyệt thì trước ông, người
ta đã viết
rất nhiều, đương thời và sau này cũng vậy. Ông cũng không phải là người
đầu
tiên sáng tạo ra
luật tuyệt, công lao này thuộc về các nhà thơ Sơ Đường như Thẩm Thuyên
Kỳ, Tống
Chi Vấn... . Thế nhưng TTLB vẫn là những cống hiến mới mẻ xét từ góc độ
thể loại. Nói như vậy, vì Lý Bạch đã có công bắc nhịp cầu nối liền hai
dòng
sáng tác dân gian và bác học trong tứ tuyệt, hòa hợp thế mạnh của chúng
và
nâng lên đỉnh cao hoàn mĩ.
3.1.4. Các nhà thơ cổ điển Trung Quốc nói chung có khuynh hướng thích
mượn "cổ" để nói "kim", lấy sáng tác của tiền nhân làm chuẩn mực, đào
sâu những đề tài cũ, vận dụng điển cổ, điển tích... nhằm bộc lộ mình
trong một so sánh ngầm có tính lịch đại. Lý Bạch không phải là ngoại
lệ, thậm chí ông còn hăng hái đề ra chủ trương "phục nguyên cổ" nữa. Có
điều ý tưởng "phục cổ" của ông
không đơn giản là tâm lý tôn sùng quá khứ. Ông đề cao phong cốt tự
nhiên mà
hùng hồn của Kinh Thi, Sở Từ, văn học Kiến An... để phản đối lại lối
thơ hoa
lệ, duy mĩ vẫn còn khá thịnh hành đương thời. Trong rất nhiều cái hay
của
tiền nhân, ông chọn một đặc điểm hợp với phong cách tự nhiên của mình
nhất
để ca ngợi, thực ra cũng là cách ông tự khẳng định :"Đại Nhã cửu bất
tác.
Ngô suy cánh thùy trần..." _ "Cổ phong ngũ thập cửu thủ" (Thơ Đại Nhã
đã
lâu không làm. Ta yếu thì còn ai bày tỏ được...). Nói như vậy để thấy
rằng
Lý Bạch khi học tập tiền nhân cũng rất ý thức về vai trò của cái Tôi để
kế
thừa và bổ sung những nét mới cho di sản quá khứ nữa. TTLB khi khai
thác
nguồn đề tài cũ trong nhạc phủ, cổ phong... cũng theo hướng như vậy.
Thơ ca dân gian phong phú, dồi dào nhựa sống nhưng nhìn chung còn chưa
được hoàn thiện về kết cấu và điêu luyện trong diễn đạt. Tái sinh qua
TTLB, nó trở nên hàm súc và nhuần nhị hơn nhiều. Như bài "Tương Dương
khúc" số 2
của Lý Bạch:
" Sơn Công túy tửu thời,
Mính đinh Cao Dương há.
Đầu thượng bạch tiếp li,
Đảo trước hoàn kỵ mã
Tạm dịch :
Sơn Công ngấm rượu rồi,
Bí tỉ xuống Cao Dương.
Mũ trên đầu lộn lại,
Rồi cưỡi ngựa, lên đường.
Bài này hầu như tóm tắt lại từ một bài đồng dao dài hơn, vẫn lưu truyền
ở Tương Dương :
" Sơn Công xuất hà hứa ?
Vọng chí Cao Dương trì.
Nhật tịch đảo túy qui,
Mính đinh vô sở tri.
Phục năng thừa tuấn mã,
Đảo trước bạch tiếp li "
tạm dịch : Sơn Công đi đâu thế ?
Nhằm hướng "Cao Dương trì".
Chiều về say lướt khướt,
Bí tỉ chẳng biết chi.
Ngựa vẫn trèo lên được,
Mũ trắng còn lộn đi.
Bài "Tương Dương khúc" số 2 của Lý Bạch gần như sử dụng tất cả các hình
ảnh, chi tiết và hầu hết từ vựng của bài đồng dao này, chỉ lược bớt đi
một
số chữ và kết cấu lại, vậy mà hiệu quả nghệ thuật đã khác hẳn. Bài đồng
dao dùng hình thức đối đáp khiến giọng điệu "kể" lấn át "tả", lời thơ
chất phác, có phần dàn trải. Lý Bạch lược bỏ lời hỏi đáp, người kể
chuyện giấu mặt, bài
thơ như một bức họa hình Sơn Công, tuy vẫn chỉ là những hình ảnh ấy
nhưng sắc nét và sống động do "tả" thay thế "kể". Kết cấu của hai bài
thơ cũng rất
khác, có thể thấy được điều đó qua trật tự các từ trong bài :
Bài đồng dao:
"Đi" - "Cao Dương" - "say" - "bí tỉ" - Lên ngựa - lộn lại mũ
(xuất) - (Cao Dương) - (túy) - (mính đinh) - (thừa mã) - (đảo - bạch
tiếp li)
"Tương Dương khúc" :
"Say" - "bí tỉ" - "xuống Cao Dương" - "Mũ" - "lộn lại" - "rồi lên ngựa"
(Túy) - (mính đinh) - (Cao Dương há) - (bạch tiếp li) - (đảo) - (hoàn
kỵ mã)
Bài đồng dao diễn biến khá đơn giản theo một logíc tuyến tính. ở "Tương
Dương khúc", Lý Bạch đã đảo ngược tất cả các trật tự đó. Ông không tả
Sơn
Công đến Cao Dương rồi mới say mà lại đưa yếu tố "say" lên trước. Sơn
Công
của ông đã say sẵn, thậm chí còn đến mức bí tỉ rồi mới xuống Cao Dương,
là
"điểm uống rượu" thật sự ! Nhà thơ dân gian tả Sơn Công say "không biết
gì"
("vô sở tri") mà vẫn bò được lên ngựa, thậm chí còn cố gắng lộn lại cái
mũ
để làm dáng - chi tiết đã rất có tính điển hình và sinh động. Nhưng Lý
Bạch lại tinh tế hơn một chút khi ông đảo lại trình tự, để Sơn Công
chỉnh mũ rồi mới lên ngựa. Chỉ một sự khác biệt này thôi đủ làm nổi bật
tính cách của Sơn
Công - ngang tàng, khinh bạc mà vẫn chăm chút đến sự hiện diện của cái
Tôi
(mũ) trong mọi hoàn cảnh và trên hết. So với nguyên mẫu thì Sơn Công
của
Lý Bạch có vẻ "say" hơn mà đồng thời lại cũng "tỉnh" hơn ! Đó là chưa
kể
Sơn Công trong bài đồng dao là đối tượng miêu tả chính và thực sự. Còn
trong
"Tương Dương khúc", đó lại là biểu tượng, lung linh hình bóng của chính
Lý
Bạch ở Tương Dương; trong miêu tả có ẩn dụ, lời gần tình xa.
"Tương Dương khúc" số 4 đã giản lược đến 1/3 số chữ so với nguyên mẫu
(10/30 chữ) mà ý tứ lại sâu sắc hơn, từ ngữ vẫn mộc mạc mà giọng điệu
lại đạt tới chỗ hàm súc. Có thể nói bài tứ tuyệt của Lý Bạch vừa giữ
được tính hồn nhiên, sinh động vốn là nét đặc sắc của thơ ca dân gian,
song lại thể hiện nó qua một bút pháp điêu luyện rất "Đường" : tả mà
không kể, hàm súc, cô đọng, nói rõ mà không nói hết.
"Tương Dương khúc" số 4 có thể coi là một ví dụ điển hình cho sự tiếp
thu có chọn lọc và sáng tạo của Lý Bạch đối với sáng tác dân gian vì nó
hình thức
rất giống nguyên mẫu mà chất lượng lại cao hơn. Tuy vậy, không phải tất
cả
các bài TTLB mô phỏng tiền nhân đều có tỉ lệ lặp lại từ ngữ, hình ảnh
trong
nguyên mẫu cao như vậy. Nhìn chung, ông thường sử dụng đề tài cũ như
một
gợi ý để phát triển tư tưởng, cảm hứng mới mẻ của mình ("Lục thủy
khúc",
"Thiếu niên hành", "Ngọc giai oán", "Nhật xuất đông nam ngung hành",
"Tĩnh
dạ tứ"...). Trong khi học tập rất nhiều ở dân ca, TTLB nhìn chung không
chỉ
hoàn thiện hơn về kết cấu mà còn độc đáo trong lập tứ. Có khi chỉ thay
đổi
vài tứ so với nguyên mẫu, bài tứ tuyệt của ông đã sáng hẳn lên ý tưởng
khác
mà nguyên mẫu không hề có. Như bài "Tĩnh dạ tứ" của ông :
"Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương "
Tương Như dịch thơ : Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Có thể thấy nó chịu ảnh hưởng khá rõ từ một bài "Tí dạ thu ca" trong
nhạc phủ Nam triều :
"Thu phong nhập song lý,
La trướng khởi phiêu dương.
Nghênh đầu khán minh nguyệt,
Ký tình thiên lý quang. "
tạm dịch: "Gió thu vào song cửa,
Phấp phới bay trướng là.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Tình gửi ánh trăng xa. "
Bài này dùng môtíp "gió thu vào trướng là" để gợi tả người con gai
trong khuê phòng thu sang nhớ bạn tình. Hình ảnh thơ rất trữ tình, đặc
biệt là hai
câu cuối tả cô gái ngước trông trăng rồi gửi tâm tình vào ánh trăng xa
ngàn
dặm, ý tứ bồi hồi, tha thiết. Lý Bạch dựa trên tứ ấy để tả tâm trạng
khách
tha hương, như ngầm ví tình cố hương cũng day dứt, xao động như nỗi
niềm
tương tư trai gái. Và thậm chí còn hơn nữa khi ông sáng tạo thêm chi
tiết
:
"Cúi đầu nhớ cố hương ". ("Đê đầu tư cố hương")
Bài "Tí dạ thu ca" chỉ miêu tả động tác "ngẩng đầu" rồi "gửi tình vào
ánh trăng muôn dặm", tình ý lan tỏa mênh mông nhưng không có điểm dồn
tụ, hướng ngoại mà ít hướng nội, hình ảnh đẹp song thiếu độ sâu lắng.
Còn ở "Tĩnh dạ tứ", trăng tỏa sáng ngời thu hút ánh mắt, nhưng người -
rốt cuộc không nỡ, không thể ngắm vì nó quá gợi niềm đau tha hương. Chi
tiết "cúi đầu" thể hiện nỗi ngậm ngùi, hướng nội, ý thơ đang bay bổng
bỗng trầm lắng, tình xa mà ý
sâu. Nhạc phủ Nam triều nói chung thường có phần trau chuốt, ỷ lệ về
hình thức, ngay cả bài "Tí dạ thu ca" nêu trên cũng không thoát khỏi xu
hướng đó.
Lý Bạch với "Tĩnh dạ tứ" hình ảnh rất đẹp mà lời lẽ lại giản dị đến mức
tưởng
chừng không đẽo gọt, đủ thấy ông chỉ chắt lọc lấy phần hay mà cải sửa
được
chỗ yếu, và điều quan trọng hơn, thơ ông lại có khí cốt cứng cỏi, hùng
hồn
mà ca từ, nhạc phủ nhìn chung còn thiếu.
Đọc những bài tứ tuyệt Lý Bạch lấy đề tài, hình ảnh từ văn học dân
gian, có thể thấy hai đặc điểm : Thứ nhất, ông đã "phục cổ" để "mở
kim", đổi mới về bút pháp cũng như lập tứ, đề xuất ra những sáng tạo
riêng. Đây thực ra là ý đồ chung của hầu hết những thi sĩ sáng tác trên
các đề tài cũ, song không
phải ai cũng làm được như ông. Thứ hai, có lẽ là điểm độc đáo của Lý
Bạch
: ông không lấy mới át cũ mà đã hoà nhập được cái Tôi của mình vào nền
tảng
phong phú của dân ca để tôn nét đẹp của cả hai lên. Như bài "Việt nữ
từ"
số 3 :
" Da Khê thái liên nữ,
Kiến khách trạo ca hồi.
Tiếu nhập hà hoa khứ,
Dương tu bất xuất lai ".
tạm dịch : Da Khê cô gái hái sen,
Vừa nhìn thấy khách chèo thuyền quay ra.
Hát, cười lẩn bóng hà hoa,
Giả vờ e thẹn không ra đến ngoài.
Bài này về đề tài và hình ảnh ít nhiều có chịu ảnh hưởng từ nhạc phủ
Nam triều với bài "Tí dạ tứ thời ca" :
" Thanh hà cái lục thủy,
Phù dung ba hồng tiên.
Lang kiến dục thái ngã,
Ngã tâm dục hoài liên. "
tạm dịch : Lá xanh phủ nước biếc xanh ,
Phù dung mơn mởn muôn cành hồng tươi.
Chàng nhìn muốn hái em rồi,
Lòng em vương vít bên nơi sen hồng ".
Cùng chịu ảnh hưởng của nhạc phủ Nam triều, Vương Xương Linh viết bài
thất tuyệt "Thái liên khúc" :
" Hà diệp, la quần nhất sắc tài,
Phù dung hướng kiểm, lưỡng biên khai.
Loạn nhập trì trung khan bất kiến,
Văn ca thủy giác hữu nhân lai."
Bùi Khánh Đan dịch thơ :
Quần lụa, sen xanh, một sắc tươi,
Phù dung ánh má, cả hai cười.
Trong ao thấp thoáng khôn tìm bóng,
Vẳng tiếng ca nghe biết có người.
Bài "Thái liên khúc" hình ảnh có vẻ giống "Tí dạ tứ thời ca" hơn do
cùng chú ý so sánh vẻ đẹp của hoa sen và cô gái, nhưng tình điệu cũng
như ngôn ngữ đã khác rất xa. Tuy là tả thôn nữ song hình ảnh thơ sang
trọng, rực rỡ. Hình thức đối ở liên thơ thứ nhất và bút pháp đồng nhất
hóa từng bước trong tả sen và người tạo ấn tượng về một vẻ hoàn mĩ cổ
điển. Giọng thơ không còn là lời bộc bạch tâm tình mạnh bạo dưới lớp vỏ
e thẹn thiếu nữ mà là sự miêu tả tinh tế, ngoạn mục, sắc sảo của nhà
duy mĩ. Bài thơ ý, cảnh trong sáng, tuyệt đẹp, rất được truyền tụng.
Nhưng có một điểm chúng tôi băn khoăn là nếu bảo thiếu nữ trong "Thái
liên khúc" là một mỹ nhân quí tộc đi thưởng hoa
thì có gì khác ? Vẻ đẹp của cô gái ở đây dường như nổi trội quá (Hoa
sen
hướng cả vào má,đôi bên cùng nở "-"Phù dung hướng kiểm lưỡng biên
khai"), cái duyên mộc mạc đồng quê và chất xuân tình của rạo rực của
thôn nữ chưa được bộc lộ rõ. Bài "Việt nữ từ" số 3 của Lý Bạch,lời lẽ
giản dị hơn,về độ mỹ lệ thì không bằng nhưng tả gái quê mới đúng thật
gái quê :duyên hơn là đẹp, và đầy sức sống. Lý Bạch tả cảnh làm duyên
"vờ xấu hổ" của cô gái để làm nổi sự chất phác ngay trong mánh khóe dễ
thương. Về điểm này, ông đã phát
triển được ý câu kết bài "Tí dạ tứ thời ca" : cô gái biết chàng trai
thích
mình nhưng cứ vờ chối là đang bận lòng với hoa sen. Có điều ý thơ của
Lý
Bạch còn táo bạo hơn. Và khi gợi tả khao khát trao duyên của thôn nữ,
ông
đã lồng vào đó ý tưởng giải phóng cá nhân, tự do truy cầu hạnh phúc vốn
rất
mạnh mẽ trong bản chất cái Tôi của ông. Bài "Thái liên khúc" của Vương
Xương
Linh rất hay, song dường như "hương đồng gió nội" đã bay ít nhiều, thay
bằng
vẻ đẹp tinh tế của hoa cảnh trong vườn. Lý Bạch với những bài như "Việt
nữ
từ" số 3 lại vạch ra một khuynh hướng "phục cổ" mới : vẫn giữ được
phong
vị hồn hậu của dân ca, đồng thời lại khẳng định được bản sắc của cái
Tôi
độc đáo.
Một điểm nữa cũng cần lưu ý là bài "Việt nữ từ" số 3 của Lý Bạch lời lẽ
lưu loát mà thanh luật hài hòa hơn hẳn "Tí dạ tứ thời ca" do đã được
luật
hóa. Từ góc độ luật thi mà xét thì đây là một bài thơ hoàn toàn đúng
luật
(trong khi "Thái liên khúc" của Vương Xương Linh lại thất niêm, theo cổ
thể),
nhưng Lý Bạch đã khiến người ta quên cả luật mà chỉ thấy thơ ! Bước
chuyển
tiếp, kế thừa Mới và Cũ, cái Tôi và nền tảng văn hóa dân gian trong
TTLB
quá uyển chuyển, nhuần nhị đến mức khó nhận ra.
TTLB học tập nhiều ở tiền nhân nhưng ông cũng có những sáng tạo hoàn
toàn mới mẻ. Nhiều bài cổ tuyệt của Lý Bạch lấy đề tài mới, hình ảnh
cao sang, mĩ lệ mà bút pháp thâm trầm, hàm súc, khác rất nhiều so với
dân ca. ("Vĩnh Vương đông tuần ca" bài 1, 3, 4, 8, "Thượng hoàng tây
tuần Nam kinh ca" bài 5, 6, 9, 10, "Thu Phố ca" bài 15...). Như bài
"Thu Phố ca" thứ 15 của ông :
" Bạch phát tam thiên trượng,
Duyên sầu tự cá trường.
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương."
tạm dịch : Tóc bạc ba nghìn trượng,
Dài mãi theo mối sầu.
Chẳng biết trong gương sáng,
Sương thu vào từ đâu ?
Lý Bạch dùng môtíp quen thuộc : tả tóc trắng để gợi nỗi ưu phiền, nhưng
cách xây dựng hình ảnh của ông thật độc đáo. Thơ ca dân gian thường có
cách
dẫn nhập theo phú, tỉ, hứng - nói chung đi dần từng bước tả đối tượng,
từ
xa đến gần. Tới TTLB, ở những bài như "Thu Phố ca" này, Lý Bạch ngay từ
phút đầu đã đi thẳng vào hình tượng trung tâm, dựng lên một hình ảnh
đầy ấn tượng, choán ngợp với mái tóc trắng vĩ đại dài 3000 trượng. Dài
thế vẫn chưa hết, câu thơ sau tả linh hồn tóc trắng (sầu) với từ
"trường" ở cuối câu tiếp nối độ dài bất tận. Càng tả chiều dài thì ấn
tượng về màu tóc trắng càng mạnh mẽ vì nó không phải là một mảng, một
đoạn bạc trắng mà ngời lên 3000 trượng và còn vươn xa mãi. Nhưng trắng
dến thế vẫn chưa đủ. Lý Bạch tả tóc bạc soi gương sáng, đã trắng càng
trắng thêm đến mức tưởng không phải tóc nữa mà là
sương thu đọng ngời ngời. Ba sắc độ trắng lồng vào nhau thành một ấn
tượng thống nhất, mạnh mẽ. Hình ảnh "thu sương" đọng lại ở câu cuối
không chỉ là ấn tượng về thị giác (trắng) mà còn về xúc giác (lạnh),
gợi tả nỗi buồn tê tái. Bút pháp khoa trương tầng tầng lớp lớp khiến
người đọc chưa hết kinh ngạc về độ dài của mái tóc đã lại bị choáng
ngợp bởi sắc trắng ngời kỳ lạ. Những hình ảnh cao sang mà kỳ vĩ đó, thơ
ca dân gian hiếm khi có được. Không chỉ thế mà ý tứ bài thơ cũng rất
sâu sắc, tình xuyên thấm trong cảnh, tả tóc
trắng đồng thời là tả mối sầu. Sầu làm tóc bạc đến thế đã đủ buồn, lại
càng
thấm thía hơn khi thêm phần tự ý thức (soi gương). Sầu thấy được mà
không
chạm tới được (như sương thu trong gương sáng), chất ngất mà không biết
từ
đâu dồn lại ("bất tri ... hà xứ"), quả không phải là nỗi buồn thế tục
mà
như gợi được tâm tư "vạn cổ sầu". Bài thơ vỏn vẹn 20 chữ mà dồn nén bấy
nhiêu
ý tưởng, không thừa một chữ, không thiếu một từ. Bút pháp già dặn này
rất
khác so với lối diễn đạt nói chung chất phác của dân ca hay ít nhiều
hoa
mĩ trong nhạc phủ, ca từ. Hơn thế nữa, nó bộc lộ rất rõ giọng điệu
riêng có
của Lý Bạch : ngậm ngùi u uất nhưng lại hào phóng và cực kỳ lãng mạn,
đẹp
rất đẹp mà sầu cũng thật sầu ! Điều đáng nói là ở đây hình thức cổ thi
không
hề mâu thuẫn với chất giọng cao sang, trí tuệ. Có thể nói rằng với
những
bài như "Thu Phố ca" số 15 này, Lý Bạch đã "bác học hóa" cổ thể thi,
khai
thác tiềm năng diễn đạt đa dạng vô cùng của nó.
3.1.5. Nếu như Lý Bạch đã có công trong việc "bác học hóa" cổ tuyệt,
hoàn thiện nó
cả về kết cấu, thanh điệu hình ảnh và cấu tứ thì với luật tuyệt, ông
lại đem vào phong cách tự nhiên, tươi sáng khiến nó gần lại với hình
thức giản dị của dân ca. Ông tuân thủ theo luật mà luật tuyệt của ông
lại không có vẻ
gì gò bó. Đây là một bước tiến bộ dài về kỹ thuật so với luật tuyệt đầu
sơ
Đường.
Tỉ lệ bài thơ có đối chỉnh trong TTLB ít (16/193 bài), trong 99 bài
luật tuyệt chỉ có 8 bài có đối và chỉ là đối trong một liên thơ chứ
không phải toàn bài. Dường như khi áp dụng luật thi vào tứ tuyệt, Lý
Bạch chủ yếu cải tiến thanh điệu cho trôi chảy, hài hòa chứ ít chú ý
đến tạo một bố cục cân đối, chuẩn mực qua khai thác hình thức đối. Lý
Bạch có vẻ không ưa dùng đối lắm, cũng như ông không thích sự mực thước
và gò bó. Có lẽ một trong những nguyên nhân khiến Lý Bạch sáng tác
nhiều luật tuyệt là vì thể thơ này không bất buộc có đối mà bố cục đơn
giản hơn bát cú nhiều. Khai thác yếu tố tự nhiên
này của luật tuyệt, TTLB do vậy nhiều bài tuy đúng luật mà vẫn có phong
vị
hoạt bát, giản dị của dân ca. Đỗ Phủ có bài "Tuyệt cú" có thể coi là
mẫu mực
về luật trong tứ tuyệt :
" Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên.
Song hàm Tây lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. "
Tản Đà dịch : " Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình."
Bài này không những hoàn toàn đúng niêm, luật mà cả 4 câu đối từng cặp
một rất chỉnh (về thanh điệu, từ loại, hình ảnh). Gần 200 bài TTLB hầu
như rất ít có bài nào như vậy, trừ vài bài như "Thu Phố ca" (số 6) và
"Đỗ Lăng tuyệt cú"... có đối ở cả hai liên thơ nhưng lại phá luật :
" Nam đăng Đỗ Lăng thượng,
Bắc vọng Ngũ Lăng gian.
Thu thủy minh lạc nhật,
Lưu quang diệt viễn sơn. " ("Đỗ Lăng tuyệt cú")
tạm dịch : Phía Nam lên mãi trên Đỗ Lăng,
Vọng về phương Bắc, giữa Ngũ Lăng.
Nước thu sáng bóng vầng dương lặn,
ánh trôi nhòa xóa núi xa xăm."
Bài thơ câu 1 ảo cú (chữ "Lăng" lẽ ra phải là vần trắc nhưng lại là vần
bằng, đổi thanh cho chữ "Đỗ" đứng cạnh, lẽ ra vần bằng nhưng lại là vần
trắc
để cân bằng lại), có thể coi là vẫn theo luật, nhưng câu 3 rõ ràng đã
phá
luật khi chữ "lạc" lại cùng thanh trắc với chữ "thủy" mà không có gì
cứu
ảo. Riêng về đối thì bài này chỉnh đến từng chữ ("Nam" đối với "Bắc",
"Đỗ
Lăng thượng" với " Ngũ Lăng gian", "thủy" với "quang", "minh" với
"diệt",
"lạc nhật" với "viễn sơn"...) nhưng lại gây cảm giác nó vẫn tự nhiên
hơn
so với đối trong bài "Tuyệt cú" của Đỗ Phủ. Có thể là vì mối liên hệ
sâu
giữa các câu thơ vẫn theo trật tự nối tiếp, trôi chảy : Vì lên Đỗ Lăng
(câu
1) mới nhìn được vào giữa Ngũ Lăng (câu 2). Vì nhìn nên mới thấy nước
mùa
thu sáng bóng mặt trời lặn (câu 3). Từ ý "mặt trời" ở câu 3 mới chuyển
xuống
tả ánh sáng ("quang") ở câu 4 : ánh sáng chuyển động xóa nhòa bóng núi
xa.
Như vậy, đối chỉ là hình thức để tạo tương phản lung linh cho hình ảnh
thơ
thêm đẹp. Còn trong bài "Tuyệt cú" của Đỗ Phủ, đối ngẫu dường như là
logíc
chính nối hai câu trong một liên với nhau. Vì câu thứ nhất tả "hai cái
oanh
vàng" ("lưỡng cá hoàng li"), nên câu sau số lượng cũng phải được qui
định
chính xác thành "một hàng cò trắng" ("nhất hàng bạch lộ"). Tương tự ở
liên
thơ thứ hai, vì nhà thơ đã điểm thêm tưởng tượng vào bông tuyết thường
thành
ra "Tây Lĩnh thiên thu tuyết" cho nên câu thơ sau, con thuyền cũng phải
được
ước lệ cho tương xứng thành "Đông Ngô vạn lý thuyền". Có thể thấy ở đây
sự
gia công của Đỗ Phủ để tạo một vẻ đẹp cân xứng cổ điển và đó là lý do
qui
định sự tồn tại bên nhau của các câu thơ chặt chẽ đến mức ý nghĩa của
vế
đầu chi phối cả vế sau và ngược lại, cũng chỉ hoàn chỉnh nhờ có sự bổ
sung
của vế sau. Trong TTLB, đối đã ít, lại càng ít khi đóng vai trò quyết
định
nhằm lập ra một bố cục thẩm mỹ cân đối, trau chuốt như ở bài "Tuyệt cú"
nêu
trên của Đỗ Phủ. Vậy thì đối trong TTLB có giá trị gì?
Theo La Căn Trạch trong "Lịch sử phê bình văn học Trung Quốc", thì đối
ngẫu có mầm mống từ thuyết "Tứ thanh bát bệnh" của Chu Ngung Thẩm Ước -
chủ trương xây dựng một loại thơ văn âm điệu tiết tấu theo nhau biến
đổi, trên đã có thanh bằng thì dưới phải dùng thanh trắc. Đến cuối đời
Lục Triều lại có thuyết căn cứ vào nội dung phân ra 4 kiểu đối : đối
lời, đối sự, đối thuận, đối ngược
("Văn tâm điêu Long " của Lưu Hiệp - thiên "Lệ từ"). Sang đời Đường,
hai
thuyết này hòa hợp, đối cả về thanh và về nghĩa. La Căn Trạch còn khẳng
định
sự phát triển của đối ngẫu trong thơ ca đời Đường :" Sơ Thịnh Đường là
thời
đại chú trọng đối ngẫu, Trung Đường là thời đại chú trọng sứ mệnh xã
hội
trong thơ, Vãn Đường ngũ đại cho đến đầu Tống là thời đại chú trọng đến
thi
cách" [43:5].
(
Chúng tôi cho rằng nếu quan niệm đối xứng là gốc của đối thì ngay trong
"Đạo Đức kinh" (Lão tử) đã có thể thấy rất nhiều câu manh nha hình thức
đối
:
- "Vô danh thiên địa chi thủy
Hữu danh vạn vật chi mẫu..."
(" Không tên là gốc gác của trời đất
Có tên là mẹ của vạn vật " - Nguyễn Duy Cần dịch).
- "Hữu vô tương sinh,
Nan dị tương thành..."
("Có với không cùng sinh,
Khó và dễ cùng thành..." - Nguyễn Duy Cần dịch).
........................
So với phép đối ngẫu trong Đường thi thì kiểu đối này còn khá đơn giản,
tần số lặp (về cấu trúc và về ý) rất lớn. Nó ít nhiều gợi liên tưởng
đến
lối "trùng dương điệp cú" phổ biến trong Kinh Thi. ở mức độ nào đó,
hình
thức đối manh nha trong "Đạo Đức kinh" này có tác dụng nhấn mạnh, láy
đi
láy lại một vấn đề từ nhiều góc độ - nghĩa là giá trị hùng biện nhiều
hơn
giá trị thẩm mĩ. Đến thơ Đường, đối ngẫu đã qua một quá trình phát
triển
dài để trở thành một nghệ thuật biểu hiện độc đáo. Đỗ Phủ là bậc thầy
về
luật thi và đối ngẫu. Ông đã đưa đối trở thành một phương thức lý tưởng
để
miêu tả với bút pháp cổ điển mẫu mực, hình thức cân đối và ý tứ thâm
trầm
- do đặt các hình ảnh tương đồng hoặc tương phản bên nhau nên phát huy
được
liên tưởng và tưởng tượng ngoài sự miêu tả (Như đối trong bài "Tuyệt
cú"
nêu trên của ông có hiệu quả thẩm mĩ rất cao, bài thơ đẹp trang trọng
như
một bộ tranh tứ bình). Riêng đối trong TTLB ít nhiều lại có ý vị khác.
Tuy
vẫn là hình thức đối song mối quan hệ giữa hai câu trong một cặp đối
thường
là nối tiếp tự nhiên (như ở bài "Đỗ Lăng tuyệt cú" nêu trên) hoặc câu
sau
láy lại, bồi thêm ý câu trước. Như ở bài "Thu Phố ca" số 6 :
" Sầu tác Thu Phố khách,
Cưỡng khan Thu Phố hoa.
Sơn xuyên như Diệm huyện,
Phong nhật tự Trường Sa ."
tạm dịch : Buồn làm khách Thu Phố,
Gượng xem Thu Phố hoa.
Núi, sông như huyện Diệm,
Gió trời tựa Trường Sa.
Bài luật tuyệt này thuộc loại "độc đắc" trong TTLB vì có cả hai liên
đối, song cũng phá luật ngay ở câu một, thế là ngay từ đầu, nguyên tắc
cân đối về hình thức (thanh điệu) đã bị phá bỏ, chưa kể "Thu Phố" đối
với "Thu Phố" cũng là phá cách. Rõ ràng ở đây Lý Bạch đã dùng đối để
gây một ấn tượng khác chứ ít chú trọng đến sự tương xứng hài hòa,
nghiêm cẩn của nó. Ông khai thác hình thức tương phản của đối để làm
nổi rõ sự thuần nhất của tâm trạng, cho thấy cảnh huống cũng thay đổi,
nhưng dù làm gì, nhìn vào đâu cũng thấy vẫn một mối sầu. Đối cho phép
khoanh vùng một trạng thái cảm xúc, hình ảnh khiến cho liên thơ có tính
hoàn chỉnh tương đối, đưa sự miêu tả lên trọn vẹn, cực điểm. Sự liên
kết giữa hai liên thơ có đối trong "Thu Phố ca" (bài 6) gây cảm giác
người đọc lạc vào không khí sầu bao trùm cả liên thứ nhất, vừa bước ra
đã lại rơi vào vòng xoáy của nỗi nhớ nhung "Núi sông như huyện Diệm,
Gió trời tựa Trường Sa". Lý Bạch đã khai thác ở đối khả năng cực tả,
xoáy sâu, nhấn mạnh một ý tưởng, hình ảnh. Riêng về khía cạnh này thì
đối trong TTLB lại có ý nghĩa hùng biện, gần với lối diễn đạt trùng
điệp mà đối xứng trong "Đạo Đức kinh" như nêu trên. Có thể thấy ở TTLB
nhiều câu đối như vậy :
_" Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao Đài nguyệt hà phùng... ("Thanh bình điệu" bài 1)
( Nếu không thấy ở đầu non Quần Ngọc,
ắt phải gặp ở dưới trăng Dao Đài ).
_" Lôi cổ tào tào huyên Vũ Xương,
Vân kỳ lạp lạp quá Tầm Dương " ("Vĩnh Vương đông tuần ca" bài 3)
( Trống như sấm ầm ầm náo động Vũ Xương,
Cờ như mây phần phật qua Tầm Dương)
_" Tô Vũ Thiên sơn thượng,
Điền Hoành hải đảo biên... ("Bôn vong đạo trung" bài 1)
( Tô Vũ trên núi Thiên sơn,
Điền Hoành ngoài hải đảo...)
.................
Phải chăng đối trong TTLB là sự trở về đơn giản hóa ? Nếu coi giản dị
là một biểu hiện của "bút lão" (bút pháp điêu luyện, già dặn) thì đối
trong TTLB
là như vậy. Ông đã làm chủ hôn cho cuộc giao duyên giữa nghệ thuật đối
ở
đỉnh cao hoàn mĩ của nó trong Đường thi và hình thức hóa đối xứng giản
dị,
đầy tính thuyết phục trong sáng tác của tiền nhân. Cho nên đối trong
TTLB
điêu luyện mà vẫn tự nhiên, sâu sắc mà lại hùng hồn.
Một điểm nữa cũng cần lưu ý là đối trong TTLB còn là một biểu hiện của
bút pháp lãng mạn. Vì lãng mạn nên Lý Bạch thích tuyệt đối hóa vấn đề
và dựng lên
những hình ảnh, tình huống tương phản kỳ lạ để gây ấn tượng. Đối đã
giúp ông thực hiện ý đồ đó. Nhận xét về tập thơ "Những bài thơ phương
Đông" của Víchto Huygô - cây bút tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn
phương Tây thế kỷ Xix, giáo sư Phùng Văn Tửu lưu ý : "Trong tập thơ
này, tác giả còn sử dụng rộng rãi những yếu tố tương phản, thủ pháp
quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn
để nhấn mạnh sự đối lập giữa lý tưởng và hiện thực" [78:35]. Có thể tìm
thấy
ở hình thức đối trong TTLB sự tương đồng lý thú về bút pháp thể hiện
lãng
mạn, dù giữa Lý Bạch với V.Huygô có khoảng cách của hơn chục thế kỷ và
Đông
- Tây cách biệt.(
Như vậy, đối trong TTLB mặc dù số lượng không nhiều nhưng quả là một
hiện tượng đáng lưu tâm do nó có sự kết hợp đặc biệt giữa hình thức đối
xứng vốn có từ rất lâu trong văn học Trung Quốc với bút pháp đối ngẫu
đang cực thịnh ở đời Đường và thủ pháp tương phản - đặc trưng của bút
pháp lãng mạn. Đối không chỉ xuất hiện trong luật tuyệt mà Lý Bạch đã
đưa nó cả vào cổ tuyệt và những bài tứ tuyệt bán cổ bán luật ("Vương
Chiêu Quân", "Điền viên ngôn hoài", "Dạ há Trưng Lỗ đình", "Vĩnh Vương
Đông tuần ca" bài 6,7...). Lại một
lần nữa có thể thấy rằng Lý Bạch đã xóa nhòa ranh giới ước lệ giữa cổ
thể
thi và luật thi. Ông viết như là ông muốn :"Say hứng lên hạ bút lay Ngũ
Nhạc.
Thơ thành cười ngạo khinh Thương Châu" ("Hứng hàm lạc bút dao Ngũ Nhạc.
Thi
thành tiếu ngạo lăng Thương Châu" - "Giang Thượng ngâm"). Theo cách làm
thơ
ấy thì những qui ước về luật thơ quá bé nhỏ chẳng ràng buộc gì được
ông. Cổ
tuyệt, luật tuyệt hay bán cổ bán luật dưới ngòi bút ông nhập thành một
thể
là TTLB với tất cả sự giàu có, độc đáo của một phong cách thơ vĩ đại đủ
sức
gồm cả cái cái hay của cổ, kim mà vẫn không đánh mất bản sắc của mình.
3.2. Ngũ tuyệt - Thất tuyệt :
3.2.1. Nếu căn cứ vào số chữ trong một câu thơ thì TTLB lại có thể chia
làm 2 dạng lớn :
- Ngũ tuyệt : bài thơ mỗi câu 5 chữ, toàn bài 4 câu 20 chữ.
- Thất tuyệt : bài thơ mỗi câu 7 chữ, toàn bài 4 câu 28 chữ.
Ngoài ra còn có 3 bài hình thức tạp ngôn, liên trên là ngũ ngôn, liên
dưới lại thất ngôn, chúng tôi tạm coi là dạng trung gian giữa ngũ tuyệt
và thất tuyệt. ("Hoành Giang từ"
bài 1, "Hệ Tầm Dương thượng Thôi Tương Hoán tam thủ" bài 3, "Tống xá
đệ").
Theo cách phân loại như trên, khảo sát toàn bộ TTLB (193 bài), chúng
tôi có bảng thống kê như sau :
Loại
Số bài
Ngũ tuyệt
98
Thất tuyệt
92
Tạp ngôn tuyệt cú
(kết hợp ngũ ngôn và thất ngôn)
3
Con số thống kê cho thấy hình thức tạp ngôn số lượng không đáng kể,
thực chất có thể tạm coi là kết hợp giữa hai dạng ngũ tuyệt và thất
tuyệt, vì vậy,
chúng tôi sẽ không xếp hẳn thành mục riêng để khảo cứu.
Nếu như rất khó tìm ra đặc điểm nội dung của từng loại cổ tuyệt, luật
tuyệt, bán cổ bán luật trong TTLB thì với ngũ tuyệt và thất tuyệt, sự
phân biệt tương
đối rõ hơn. Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng thể loại để khám
phá
ra những nét riêng của nó.
3.2.2. Ngũ tuyệt :
Trong thế giới TTLB, ngũ tuyệt "hòa" mà không "đồng". Nó có những đặc
trưng riêng, nhất là khi so sánh với thất tuyệt.
Một cái nhìn bao quát cho thấy ngũ tuyệt Lý Bạch đề tài nói chung khá
dung dị. Chiếm số lượng nhiều nhất là những bài viết về sinh hoạt đời
tư của Lý Bạch ("Biệt Đông Lâm tự tăng", "Phú đắc bạch lộ ti", "Bồi thị
lang thúc du Động Đình hồ túy hậu tam thủ"... ) và các bài lấy đề tài
cũ từ nhạc phủ ca từ ("Việt nữ từ ngũ thủ", "Cán sa thạch thượng nữ",
"Nhật xuất đông nam ngung hành"... ). Lý Bạch với ngũ tuyệt dường như
thích hướng nội hơn là hướng ngoại.
Ngũ tuyệt của ông ít bài làm để thù tặng hay xưng tụng, ít hô hào, bày
tổ
chí khí mà thiên về biểu hiện tâm trạng, tự khắc họa chân dung nhà thơ
giữa
muôn cảnh sắc đời thường và giữa thiên nhiên. Nhân vật trung tâm ở đây
do
đó vẫn là chính Lý Bạch với cá tính độc đáo, song cái Tôi dường như ít
phô
trương (mặc dù vẫn rất cao ngạo, vĩ đại). Lý Bạch miêu tả cuộc sống ở
Thu
Phố ("Thu Phố ca" 14 bài), khi ông uống rượu ở Long Sơn ("Cửu nhật Long
Sơn
ẩm"), ở Đồng Quan ("Đồng Quan sơn túy hậu tuyệt cú"), lúc buồn bã tiễn
bạn
("Tống Ân Thục", "Tống Lục phán quan vọng Tì Bà hiệp"...), hào hứng xem
người
ta thả chim ưng ("Quan phóng bạch ưng"), ngậm ngùi chua xót ngắm núi
Mộc
Qua ("Vọng Mộc Qua sơn")... . Điểm qua về cuộc sống của ông (được miêu
tả
trong ngũ tuyệt) thì thấy phần lớn là cảnh sinh hoạt riêng tư mà ít
hoạt
động xã hội. Lý Bạch suốt đời ôm ấp hoài bão chính trị nhưng trong ngũ
tuyệt,
ông ít thể hiện nó một cách trực tiếp, nếu có chăng chỉ thấp thoáng qua
miêu
tả nỗi sầu vô hạn, phi thường hoặc nỗi niềm tưởng nhớ Trường An ("Thu
Phố
ca" bài 4, 6, 7, "Tống Lục phán quan vọng Tì Bà hiệp", "Bôn vong đạo
trung"
bài 1, 2 ... ). Không gian trong ngũ tuyệt Lý Bạch là thứ không gian
đời
thường, tràn ngập cảnh sắc thiên nhiên và có phần xa lánh thế giới ồn
ào
của những quan hệ xã hội phức tạp và tham vọng. Chỉ nhìn vào những chim
thú
mà Lý Bạch miêu tả ở đây cũng thấy một điểm khá lí thú. Ngũ tuyệt của
ông
như một thế giới sinh động của các loài động vật hoang dã quí hiếm :
vượn
trắng nhảy nhót như tuyết bay, hú lên làm người nghe đứt ruột, bạc đầu,
cò
trắng bay từng đàn, lướt qua chiếu rượu, âu trắng nhàn nhã, quấn quít
bên
người, con đà điểu lông ngũ sắc, chim ưng trắng muốt ... ("Thu Phố ca"
bài
3, 4, 5, "Đề tình thâm thụ ký Tượng công", "Bồi thị lang thúc du Động
Đình
hồ túy hậu" bài 2, "Quan phóng bạch ưng"... ). Sang đến thất tuyệt,
toàn
bộ những chim thú hoang dã đột nhiên biến mất sạch ! Về miêu tả con
người
cũng có những khác biệt như vậy. Ngũ tuyệt Lý Bạch tả ông già nhà quê ở
Thu
Phố ("Thu Phố ca" bài 16), anh chàng thợ rèn ("Thu Phố ca" bài 14), cô
gái
hái hoa sen ở Da Khê, cô thôn nữ xinh đẹp đất Ngô ("Việt nữ từ ngũ
thủ",
"Cán sa thạch thượng nữ"), cô gái hái dâu họ Tần ("Nhật xuất đông nam
ngung
hành"), khóc cụ già bán rượu ("Khốc Tuyên Thành thiện nhưỡng Kỷ
tẩu")... .
Tất cả những nhân vật quê mùa mà đẹp đẽ đó cũng vắng bóng ở thất tuyệt.
Cảnh
thiên nhiên trong ngũ tuyệt nhìn chung cũng hoang sơ hơn trong thất
tuyệt.
Có thể nói rằng nếu coi giản dị, chân thực là một đặc trưng hấp dẫn của
TTLB thì nó thể hiện đậm nét nhất trong mảng ngũ tuyệt. Không chỉ vì đề
tài
hay đối tượng miêu tả có phần dung dị mà chất giọng thơ cũng rất hồn
hậu,
tự nhiên. Lý Bạch có một biệt tài : trong khuôn khổ rất bé nhỏ của ngũ
tuyệt, ông miêu tả được rất nhiều mà vẫn không gây cảm giác dồn nén ý
vào những con
chữ chật chội, trái lại, bài thơ của ông rất thanh thoáng, tự nhiên.
Như
bài "Bồi tòng tổ Tế Nam thái thủ phiếm Thước Sơn hồ" :
" Hồ khoát sổ thiên lý,
Hồ quang dao bích sơn.
Hồ tây chính hữu nguyệt,
Độc tống Lý Ưng hoàn. "
tạm dịch: Mặt hồ nghìn dặm rộng thênh,
ánh hồ núi biếc bồng bềnh chuyển lay.
Trăng lên chính mé hồ tây,
Cô đơn tiễn Lý Ưng quay trở về.
Bản dịch đã cố gắng truyền đạt lại vẻ đẹp của Thước Sơn hồ trong nguyên
bản : Mặt nước bao la, bóng núi lồng bóng nước, sắc biếc của núi hòa
với
ánh lung linh của mặt hồ, và trên nền xao động của nước hồ bóng núi,
vầng
trăng im tỏa sáng ngời. Bức tranh thiên nhiên hình - sắc giao hòa và
cực
kỳ khoáng đạt, dựng lên một không gian trữ tình (hồ), thời gian trữ
tình
(trăng lên) và tâm lí trữ tình (tiễn bạn). Bài thơ trên tả hồ càng đẹp
thì
dưới càng gợi sâu tình lưu luyến lúc ra về, dưới tả nỗi buồn đưa tiễn
mênh
mang càng cộng thêm chiều rộng tâm tình cho hồ vốn bao la ở trên. Mặc
dù
đã hết sức chuyển dịch những cảnh đẹp, tình sâu ấy vào bài thơ lục bát,
chúng
tôi vẫn bất lực không thể giữ lại được ở bản dịch cái ý vị thoáng đãng
nằm
ngay trong hình thức, kết cấu của nguyên bản. Lý Bạch để ba từ "Hồ" nối
tiếp
liên tục ở ba câu thơ đầu, gợi cảm giác cái mênh mông của mặt nước như
dềnh
lên tràn ngập ngay cả trong kết cấu, đẩy ngòi bút lướt đi quá bước
chuyển
thông thường (lẽ ra nằm ở câu 3). Và từ "độc" (cô đơn, một mình) bản
thân
nó đã có vẻ trơ trọi trong hệ thống "hồ" liên tục ở trên. Bài thơ hầu
như
không có mĩ từ, không dùng điển tích, ngôn ngữ giản dị đến thanh khiết
và
kết cấu cực kỳ tự nhiên. Hình thức thanh nhã xứng với nội dung trong
sáng.
Đây là một đặc điểm khá phổ biến trong ngũ tuyệt Lý Bạch. Lý do ông ít
dùng
lối diễn đạt cầu kỳ, khoa trương ngôn ngữ một phần vì ngũ tuyệt mỗi câu
chỉ
có 5 chữ, muốn nêu nhiều ý tất phải kiệm lời. Tuy nhiên yêu cầu thể
loại
đó thực ra cũng chưa đủ để chi phối ngòi bút của ông (như nhạc phủ Lục
triều
phần lớn là ngũ tuyệt mà vẫn rất hoa mĩ). Cái chính là Lý Bạch đã sẵn
có
một phong cách sáng tác giản dị, tự nhiên và ông tìm được ở ngũ tuyệt
một
hình thức rất phù hợp để bộc lộ. Cho nên có thể nói ngũ tuyệt Lý Bạch
có
những sở trường mà ngay thất tuyệt của ông cũng không so sánh được.
Càng
hướng về những đề tài, cảm hứng mộc mạc, tự nhiên thì ngũ tuyệt Lý Bạch
lại
càng hay. Có lẽ vì thế mà Lý Bạch tả thiên nhiên hoang vắng hay người
quê
hầu hết đều dùng ngũ tuyệt chứ không phải thất tuyệt. Tương tự, tất cả
các
bài tứ tuyệt tả Lý Bạch bất chấp phép tắc, say ngả nghiêng xiêu vẹo,
ngất
ngưởng ngắm mũ rơi, trần truồng hóng mát hay cuồng ngạo ca vang... đều
là
ngũ tuyệt. ("Lỗ trung đô đông lâu túy khởi tác", "Cửu nhật Long sơn
ẩm",
"Hạ nhật sơn trung", "Khuyết đề" bài 2...). Nếu nói về bộc lộ cá tính,
có
lẽ ngũ tuyệt Lý Bạch đã đi xa hơn cả thất tuyệt nữa. Không chỉ đề tài
có
tính hướng nội hơn, cử chỉ nhân vật ít nhiều thoải mái hơn mà ngay cả
ngôn
ngữ trong ngũ tuyệt dường như cũng tự do hơn trong thất tuyệt. Chính ở
ngũ
tuyệt mà độc giả có thể bắt gặp những ví von dân dã đến mức gần như nôm
na
:
- " Ngã tự giá cô điểu,
Nam thiên lãn bắc phi..." ("Túy đề Vương Hán Dương sảnh")
( Ta như con gà gô,
Từ phía nam lười nhác bay về phương bắc).
- " Tam bách lục thập nhật,
Nhật nhật túy như nê..." ("Tặng nội")
( Ba trăm sáu mươi ngày,
Ngày ngày say như con nê)
những lối xưng hô trực tiếp, kể việc cụ thể :
- " Tạc dạ Lương viên lý,
Đệ hàn huynh bất tri..." ("Đối tuyết hiến tòng huynh Ngu Thành Tế")
( Đêm qua ở vườn Lương,
Em lạnh, anh chẳng biết...)
- " Kim nhật trúc lâm yến,
Ngã gia hiền đãi lang..."
("Bồi thị Lang thúc du Động Đình túy hậu" bài 1)
( Hôm qua yến tiệc trong rừng trúc,
Nhà ta trân trọng đãi mời anh...)
rất nhiều khẩu ngữ, và đặc biệt cả sự xuất hiện của hư từ lặp đến 2 lần
trong một câu (mà thất tuyệt dài hơn nhưng không hề có) :
" Thạch duẩn như trác bút
Huyền chi sơn chi điên..." ("Đề Lâu sơn thạch duẩn")
( Măng đá như bút cao ngất
Treo trên đỉnh núi... )
Nói như vậy không có nghĩa là diễn đạt trong ngũ tuyệt kém trau chuốt
hơn trong thất tuyệt. Ngôn ngữ, hình ảnh trong ngũ tuyệt nhìn chung
trong sự bình
dị có vẻ đẹp riêng của nó và đặc biệt là phù hợp đề tài cũng như cảm
xúc
mà nó diễn tả.
Có lẽ độc giả sẽ phần nào thất vọng nếu cố gắng tìm trong ngũ tuyệt Lý
Bạch những vần thơ nhiệt huyết sục sôi của người hùng trong chiến trận.
Cảm hứng trữ tình bao trùm ở đây không phải là HùNG mà chủ yếu là SầU
và NHàN. Ngũ tuyệt Lý Bạch thiếu hẳn đề tài về người lính, chiến tướng
và chiến trận, ngay
cả khát vọng lập công của ông cũng không được bày tỏ trực tiếp. Giấc mơ
chính
trị của Lý Bạch khúc xạ trong ngũ tuyệt thành một giọng điệu u buồn,
ngậm
ngùi, nhiều khi như là nỗi sầu vạn cổ dồn lại chứ không rõ nguyên nhân.
Trong
ngũ tuyệt, Lý Bạch thường diễn tả nỗi sầu bằng giọng điệu giản dị, càng
tăng
tính chân thực , xúc động của tình cảm ("Tĩnh dạ tứ", "Thu phố ca" bài
6,
"Tống Ân Thục" ...). Riêng về cảm hứng nhàn dật, phiêu du thì ngũ tuyệt
Lý
Bạch diễn tả đặc biệt thành công. Hình thức ngũ tuyệt vốn gần gũi với
dân
ca, tự nhiên, cho nên rất phù hợp để lột tả cảm xúc thanh thản, không
gò
bó. "Nhàn" trong ngũ tuyệt Lý Bạch ít nhiều khác với trong thất tuyệt.
Nếu
thất tuyệt viết về đề tài này có khuynh hướng thiên về thoát tục, thần
tiên,
tả cảnh đào nguyên, Tây Vương Mẫu trồng đào, Cát Hồng luyện đan...
("Đào
nguyên nhị thủ", "Sơn trung vấn đáp", "Đình tiền vãn hoa khai", "Luyện
đan
tỉnh"...) thì ngũ tuyệt trái lại, thường diễn tả một cái nhàn từ trong
tâm,
ung dung tự tại. "Nhàn" trong ngũ tuyệt Lý Bạch thường cũng là tâm
trạng trong
lúc say nên giọng điệu thơ lâng lâng rất đặc biệt, không chỉ nhàn tâm
mà
nhàn cả thân nữa. Bài thất tuyệt "Sơn trung vấn đáp" của Lý Bạch tả tâm
trạng
nhàn đã rất hay:
" Vấn dư hà ý thê bích san,
Tiếu nhi bất đáp, tâm tự nhàn.
Đào hoa lưu thủy diểu nhiên khứ,
Biệt hữu thiên địa phi nhân gian".
tạm dịch : " Hỏi ta sao dừng ở núi xanh,
Cười chẳng buồn thưa, tự thấy nhàn.
Đào trôi thăm thẳm theo dòng nước,
Riêng đất này đâu phải nhân gian."
song cái "nhàn" ở đây dường như còn nằm trong khuôn mẫu qui ước, cho
nên phải mượn ý tưởng thần tiên (về cảnh đào nguyên) để thấy mình thoát
tục. Với
ngũ tuyệt, Lý Bạch nhàn ngay trong cõi thế, chẳng cần thần tiên mà tự
mình
cũng phơi phới, phiêu dật. Như khi ông bồng bềnh trên thuyền rượu, nghe
tiếng
chèo thuyền đều đặn, ngắm vầng trăng lãng đãng theo về, chim âu trắng
ríu
rít quanh mình ("Bồi thị lang thúc du Động Đình túy hậu" bài 2), khi
ông
say rượu dưới trăng,múa hát,cười nhìn gió thổi mũ bay lăn lóc ("Cửu
nhật Long
sơn ẩm"),khi ông thấy mình như con gà gô lười nhác,say đi trong trăng
mà
về ("Tuý đề Vương Hán Dương sảnh"),khi ông nóng bức cởi trần truồng ra
hóng
gió ("Hạ nhật sơn trung")hay cao hứng hú dài đoạn tuyệt với nhân
gian,định lên Đông Sơn quét mây trắng ("ức Đông Sơn" bài 2)...những lúc
đó thì ông chẳng
nói đến một chữ "nhàn" mà bài thơ đã toát lên một không khí nhàn nhã
,thân
tâm đều nhẹ lâng lâng .
Hình ảnh trong ngũ tuyệt Lý Bạch nhìn chung cũng có nét riêng.ở đây,dù
tả thật hay liên tưởng, Lý Bạch thiên về chọn những hình ảnh đẹp một
cách trong trẻo,hồn nhiên.Không những ông ít dùng ví von so sánh cầu kỳ
mà ngay cả mầu sắc hình khối cũng có vẻ thuần khiết hơn, giản dị hơn so
với thất tuyệt. Ông
tả cảnh núi kề bên sông,nước xanh,cát trắng ngời như tuyết ("Tương
Dương khúc
" bài 3),cảnh thiếu nữ hái cỏ tần trên dòng nước biếc, trăng thu vằng
vặc,đoá
sen yêu kiều hé mở như thốt được thành lời ("Lục thuỷ khúc"),cảnh cò
bay
trong ánh trăng như lụa,chành trai bồi hồi nghe cô gái hái ấu trong đêm
hát
suốt dọc đường về ("Thu phố ca"bài 13)...Cũng có khi cảnh trong ngũ
tuyệt
Lý Bạch cũng buồn bã .Ông tả đêm gió thu ở Thuỷ Quốc,bùi ngùi nhớ
Trường An
("Tống Lục phán quan vọng Tì Bà hiệp "),giọt nước mắt rỏ vào bình rượu
dưới
núi trong tiếng vượn đoạn trường ("Đề tình thâm thụ ký Tượng Công")...
Lại
có những hình ảnh cứng cỏi, khí phách : măng đá như bút cao ngất trên
đỉnh
núi muốn viết bất bình lên trời xanh ("Đề Lâu sơn thạch duẩn"), ngọn
Kính
Đình sơn cô đơn mà cao ngạo ("Độc tọa Kính Đình sơn"), núi Thủy Xa kỳ
lạ
giữa nghìn trùng núi non Thu Phố, đá nghiêng như muốn sập trời ("Thu
Phố ca"
bài 8)... Tất cả những hình ảnh đó trong ngũ tuyệt Lý Bạch gồm đủ mọi
cảnh
sắc, tâm trạng, nhưng đều gặp gỡ nhau ở điểm đẹp đẽ mà lại rất tự
nhiên, thiên
về một cái đẹp nguyên sơ, không mượn bàn tay trang điểm, tôn tạo của
con
người.
Mặc dù TTLB xưa nay rất được đề cao, song nếu có lời khen đặc biệt nào
cho một thể loại nhỏ của tứ tuyệt thì nó hầu hết là về thất tuyệt. Ngũ
tuyệt nghiễm
nhiên được (bị ?) xem là một bộ phận của cái toàn thể, mang cái hay
chung
chứ chưa bật lên đặc sắc. Thực tế nghiên cứu cho thấy ngũ tuyệt không
chỉ
có một số bài lẻ rất hay mà cả mảng thơ này cũng hợp thành một giai
điệu riêng
quyến rũ, có những nét độc đáo
mà thất tuyệt không so sánh được !
Ngũ tuyệt không phải là một thể thơ chính thức thành hình ở đời Đường
như thất tuyệt mà có cội nguồn sớm hơn nhiều từ cổ ca dao, nhạc phủ. Do
đó, mặc dù được "Đường hóa", hình thức của nó ít nhiều vẫn còn giữ được
vẻ hồn nhiên, bình dị phảng phất đường nét của mẹ sinh thành là dân ca.
Đến Lý Bạch thì tiềm năng "tự nhiên" này của ngũ tuyệt trở thành một
gien trội do bắt gặp sự tương đồng về phong cách. Chính với ngũ tuyệt
mà Lý Bạch đã bộ lộ một cách
đầy dủ nhất vẻ đẹp "Thiên Chân", nó hồn nhiên, nhưng cũng vì thế mà đầy
cá
tính. Chúng tôi đánh giá cao ngũ tuyệt Lý Bạch không chỉ vì nó thể hiện
rõ
nhất phong cách sáng tác giản dị mà đẹp đẽ của ông. Ngũ tuyệt có một
giá
trị độc đáo ở chỗ nó đã khắc họa được sinh động một diện mạo Lý Bạch
rất
"đời", trong đó cái vĩ đại được thể hiện qua một hình thức bình dị,
trong trẻo nhất và đó mới thật là tầm cỡ của một thiên tài !
Song cũng có nhiều điểm ngũ tuyệt Lý Bạch thiếu mà thất tuyệt lại có và
bộc lộ nó một cách xuất sắc...
3.2.3. Thất tuyệt :
Không phải ngẫu nhiên mà thất tuyệt Lý Bạch được xem là "thần phẩm",
"thánh phẩm", là "tuyệt xướng", hay bậc nhất trong hàng thất tuyệt đời
Đường.
Xét rộng ra trong toàn bộ thơ Lý Bạch thì thể ngũ ngôn (776 bài) lấn át
hẳn thất ngôn (102 bài) với tỉ lệ hơn 7/1. Chỉ riêng trong tứ tuyệt,
thất
ngôn mới chiếm số lượng tương đối bình đẳng so với ngũ ngôn (ít hơn có
6
bài). Và điều thú vị là không chỉ về số lượng mà chất lượng của thất
tuyệt
ở đây nhiều khi được đánh giá cao hơn cả ngũ tuyệt nữa. Tại sao ở tứ
tuyệt,
Lý Bạch đột nhiên lại "ưu ái" thất ngôn như vậy ?
Nguyên nhân phát triển đặc biệt của thất tuyệt Lý Bạch có lẽ nằm trong
bối cảnh ra đời của nó. Thể loại thất tuyệt nói chung hình thành muộn
hơn ngũ tuyệt, manh nha từ ca hành thất ngôn đoản thể, đến Sơ Đường số
lượng còn rất
ít mà sang Thịnh Đường thì phát triển đột biến, thậm chí lấn át cả ngũ
tuyệt.
Sở dĩ như vậy vì thời kỳ này, Đường Minh Hoàng tại vị say mê âm nhạc,
lập
ra nhóm Lê viên, sưu tầm thơ hay để phổ nhạc, hát xướng, mà trong đó
thì
thể thơ thất tuyệt gốc từ ca hành với giai điệu trầm bổng được luật hóa
càng
du dương, hài hòa là hình thức phù hợp nhất (còn ngũ tuyệt hình thức 5
chữ
quá mộc mạc so với yêu cầu này). Thất tuyệt do đó lên ngôi như một thứ
"mốt"
thời thượng, người sáng tác cũng nhiều mà lại được hưởng ứng và truyền
tụng
rộng rãi nhờ có âm nhạc tiếp sức. Có lẽ đó cũng là một trong nhiều
nguyên
nhân khiến thất tuyệt Lý Bạch đương thời được để ý hơn ngũ tuyệt chăng ?
Song Lý Bạch không đơn giản là người để thị hiếu thời đại lôi cuốn ngòi
bút của mình. Lý do ông đến với thất tuyệt và thành công có thể là vì
thể
thơ nay hình thức vẫn khá tự do mà nhạc điệu thất ngôn lại giàu có,
uyển
chuyển hơn ngũ ngôn. Lý Bạch rất giỏi về nhạc phủ còn thất tuyệt nguồn
gốc
cũng từ nhạc phủ, ca từ. Ông đã đem sở trường của mình vào tứ tuyệt và
thất
tuyệt của ông do vậy không kiểu cách, cầu kỳ mà hay ở sự lưu loát, đầy
nhạc
tính. Lý Bạch chú ý đến vẻ đẹp chân thực, tự nhiên, song bản chất lãng
mạn
cũng khiến ông yêu thích một cái gì tràn đầy, tuyệt đối. Thất tuyệt số
chữ
trong mỗi câu nhiều gấp rưỡi ngũ tuyệt, cho phép mở rộng không gian của
dòng
thơ, sung sức hơn trong diễn tả, bộc lộ. Với những đặc điểm thể loại đó
mà
thất tuyệt Lý Bạch có những sở trường mà ngũ tuyệt chưa phát huy hết
được.
Lý Bạch với thất tuyệt có vẻ hướng ngoại hơn và tràn trề khát vọng hành
động. Đề tài thơ cập nhật hơn ngũ tuyệt với những bài miêu tả diễn biến
chính
sự, xã hội ("Thượng hoàng tây tuần Nam kinh ca thập thủ", "Vĩnh Vương
đông
tuần ca thập nhất thủ"...) chiếm đến 1/4 tổng số bài thất tuyệt. Nhân
vật
trung tâm ở đây không thường xuyên là chính Lý Bạch nữa mà có nhiều
nhân
vật mang tính lịch sử, thời đại : Vĩnh Vương, Minh Hoàng, Dương Quí
Phi,
Triều Khanh Hoành, Đỗ Phủ... Không gian thơ không chỉ có rừng suối và
bó
hẹp với một hai người bạn tâm giao mà mở rộng về hướng đô thành với
cảnh
sinh hoạt đô thị, cung đình và chiến trận. Giữa không gian ấy, Lý Bạch
cũng
xông xáo hoạt động, lớn tiếng ca ngợi những tráng sĩ xả thân vì nghĩa
("Kết
Miệt tử"), chiến tướng anh hùng ("Quân hành", "Vĩnh Vương đông tuần ca
thập
nhất thủ", ...), chính mình cũng hăng hái đầu quân ("Biệt nội phó trưng
tam
thủ"...) và ngay khi thất bại rồi vẫn mãnh liệt một khát khao hành động
("Hoành Giang
từ lục thủ"...).
Nếu như chất giọng thường thấy trong ngũ tuyệt là hồn nhiên thì thất
tuyệt trái lại, nổi bật lên với giọng điệu cao sang, đài các. Nhân vật
trong thất tuyệt thường là những bậc vương giả, phi tần, mĩ nhân, công
tử quí tộc... mà rất ít hoặc không hề xuất hiện ở ngũ tuyệt. Thế giới
thất tuyệt đầy ắp những đồ vật sang quí : bạch ngọc, hoàng kim, bảo
đao... cảnh tượng xa hoa mĩ lệ, lầu gác, đền đài, tiền bạc như nước
chảy. Cứ nhìn vào một chén rượu của Lý Bạch cũng đủ thấy độ trân quí:
" Lan Lăng mĩ tửu uất kim hương,
Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang..." ( "Khách trung tác ")
(Rượu ngon Lan Lăng đượm hương cỏ uất kim,
Chén ngọc rót mang ra, ánh lên màu hổ phách...)
Trong ngũ tuyệt, thương vợ, Lý Bạch đùa bà đã lấy phải một con sâu
rượu, lời thơ
giản dị đến nôm na ("Tặng nội"). Sang đến thất tuyệt, cùng nói về thân
phận cô đơn của bà Lý, hình ảnh thơ chợt quí phái, ước lệ hẳn :
"... Bạch ngọc cao lâu khan bất kiến,
Tương tư tu thướng Vọng Phu sơn"
("Biệt nội phó trưng" bài 1)
(... Lầu bạch ngọc cao nhìn không thấy,
Tương tư muốn lên núi Vọng Phu... )
Đến nàng kỹ nữ trong thất tuyệt Lý Bạch cũng còn có cái vẻ cao quí,
cách vời của tiểu thư chốn đài trang :
" La vát lăng ba sinh võng trần,
Na năng đắc kế phỏng tình thân..." ("Tặng Đoạn Thất Nương")
( Tất lụa sóng xô sinh lưới bụi
Sao có kế gì để cầu được mối thân tình...)
Trách gì Lý Bạch không tả những người nhà quê, thôn nữ... ở đây vì nó
hồn nhiên, mộc mạc quá so với thế giới thất tuyệt cao sang cả về giọng
điệu và hình ảnh. Thất tuyệt Lý Bạch sở trường về miêu tả tài tử, giai
nhân quí tộc. Sự sang trọng toát ra không chỉ từ diện mạo hình thức mà
dường như ngay cả trong cốt cách. Lý Bạch có một bài ngũ tuyệt tả chàng
công tử đẹp trai đến mức kinh động lòng người :
" Bạch ngọc thùy gia lang,
Hồi xa độ Thiên Tân.
Khan hoa đông mạch thượng,
Kinh động Lạc Dương nhân" ("Lạc Dương mạch")
tạm dịch : Chàng trai mặt ngọc nhà ai,
Quay xe về đến mạn ngoài Thiên Tân.
Ngắm hoa bên phía đường đông,
Mà làm kinh động bao lòng Lạc Dương.
Nhưng anh ta so với chàng thiếu niên tuấn tú trong bài thất tuyệt "Mạch
thượng tặng mĩ nhân" thì không thể sánh được cả về vẻ đẹp cũng như khí
phách
kiêu kỳ :
" Tuấn mã kiêu hành đạp lạc hoa,
Thùy tiên trực phất ngũ vân xa.
Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc,
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia. "
tạm dịch : Đạp hoa rụng, nghêng ngang tuấn mã,
Roi ngựa mềm phất thẳng xe mây.
Rèm châu vén, giai nhân cười nụ,
Lầu hồng nhà thiếp lối này đây.
Bút pháp miêu tả của Lý Bạch ở hai bài thơ rất khác. Bài ngũ tuyệt hơi
pha giọng kể, giới thiệu đầy đủ nhân vật, lộ trình, địa điểm, lời lẽ
tương đối giản dị, bộc trực. Bài thất tuyệt chỉ chộp tả một khoảnh khắc
sinh động, bộc
lộ rõ nhất nhân vật. Không nói chàng trai đẹp mà vẫn thấy anh ta cực kỳ
tuấn
tú. Tuấn mã là ngựa quí, dáng lại kiêu kỳ ("kiêu hành") và còn "ngạo"
nữa
(đạp lên hoa rụng). Đã "quí", đã "kiêu", đã "ngạo" chưa đủ, lại còn
"ngông" : phất thẳng roi vào xe mây ngũ sắc ! Các chi tiết, hình ảnh
thơ tầng lớp nối tiếp cũng "bắc bậc làm cao" y như con người được miêu
tả vậy. Nhưng ngông ngạo như vậy mà vẫn làm xiêu lòng người - không
phải đám khán giả chung chung "Lạc Dương nhân" (như ở bài "Lạc Dương
mạch") mà lọt hẳn vào mắt xanh của một giai nhân quí tộc. So với chàng
mặt ngọc trong bài ngũ tuyệt "Lạc Dương mạch" thì chàng công tử ở đây
không chỉ đẹp mà còn có cá tính và phong độ hơn hẳn, không chỉ kiêu
ngạo mà còn tình tứ.
Lý Bạch trong thất tuyệt có một giọng ngợi ca mà ngũ tuyệt ít có. Ông
ca ngợi vua sáng, tôi hiền, đất nước phồn hoa, binh hùng tướng mạnh,
ông ca ngợi
những giai nhân khuynh quốc, những chàng tuổi trẻ hào hoa, khí phách,
...
và cả tự ca ngợi mình nữa ! Có lẽ vì nhiều bài thơ ca tụng như thế nên
ngôn
ngữ, hình ảnh trong thất tuyệt nhìn chung rất hoa lệ, đầy mĩ từ. Bút
pháp
miêu tả đang rất giản dị ở ngũ tuyệt đến đây bỗng trở nên ước lệ hẳn.
Đơn
cử như những chim thú hoang kỳ lạ được nhắc đến nhiều trong ngũ tuyệt,
sang
đến thất tuyệt được thay thế gần như hoàn toàn bởi các loài vật mang
đầy
tính tượng trưng, trang trọng : rồng, hổ, ngựa xích thố, chim nhạn, phỉ
thúy,
cá kình... . Bên cạnh những màu tự nhiên, thanh khiết vốn được ưa
chuộng trong
ngũ tuyệt, ở đây xuất hiện thêm nhiều màu sắc rực rỡ : ngũ sắc, hổ
phách,
hồng, đỏ, vàng... và những màu ước lệ : nguyệt sắc, thu sắc, hoa
quang... . Yếu tố ước lệ và tưởng tượng trong thất tuyệt Lý Bạch nhiều
hơn trong ngũ tuyệt, có khi ông lồng nó vào tả thực khiến ý thơ chợt hư
viễn, đài các hẳn lên. Như trong bài "Việt trung lãm cổ", nếu nói "Cung
nữ như xuân hoa mãn điện" (Cung nữ như hoa xuân đầy điện) thì là tả
thực, Lý Bạch chỉ đảo vị trí
một từ, thành "Cung nữ như hoa mãn xuân điện" (Cung nữ như hoa, đầy
điện mùa
xuân), thổi một làn tưởng tượng ảo huyền, biến cung điện thường thành
"điện
mùa xuân", không chỉ đẹp mà phản ánh được không khí tưng bừng của chiến
thắng
phá Ngô. Tương tự ông tả trăng khuyết núi Nga Mi là "nửa vầng thu"
("Nga
Mi sơn nguyệt bán luân thu" - "Nga Mi sơn nguyệt ca"), lấy cái hữu hình
gắn
với cái vô hình, trăng hóa thành thu, thu hiển lộ ra trăng... Hay khi
ông
làm thơ kể chuyện uống rượu chịu, nhưng hóa ra món nợ ấy không phải
tiền
:
"... Thả tựu Động Đình xa nguyệt sắc,
Tương thuyền mãi tửu bạch vân biên."
("Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân chí du
Động Đình hồ" - bài 2)
(... Tạm nhắm ở Động Đình, nợ sắc trăng,
Đáp thuyền mua rượu bên mây trắng).
Ông đã đem cả chất lãng mạn, nên thơ (trăng, mây) vào quan hệ thực dụng
(mua bán, vay nợ) khiến bài thơ nhắc đến nợ mà ý tứ sang trọng, bay
bổng,
và ngược lại, trong tình cảm phiêu dật lại có chút đằm sâu (yêu đến mức
cảm
thấy mình mắc nợ ánh trăng !)...
Có gì mâu thuẫn giữa những đặc điểm nêu trên của thất tuyệt Lý Bạch với
phong cách sáng tác tự nhiên, đề cao "Thiên chân" của ông ?
Có thể khẳng định Lý Bạch không hề thay đổi trong thất tuyệt. Song
dường như ở mảng thơ này, ông bộc lộ rõ hơn một phương diện khác của
tính cách và
tâm hồn. Nếu ngũ tuyệt phản ánh một Lý Bạch hồn nhiên trong đời thực
thì thất
tuyệt lại thiên về khắc họa một Lý Bạch của những lý tưởng và khát
vọng. Vì
vậy, không gian trong thất tuyệt phần nhiều là không gian xã hội - nơi
con
người có thể thi thố tài năng, hoặc không gian thần tiên - thế giới mơ
ước
của con người. Lý tưởng và mơ ước bao giờ cũng đẹp, cũng cao quí, huống
hồ
Lý Bạch bản chất lãng mạn, nên dễ hiểu vì sao thất tuyệt của ông lời ý
cao
sang, sáng đẹp, chính là phản ánh chân thực khát vọng phi thường của
ông
vậy. Thất tuyệt Lý Bạch ca ngợi nhiều mà không sa vào tán tụng. ở những
nhân
vật kiêu hãnh, đầy nhiệt huyết mà ông miêu tả đều thấy phảng phất khí
cốt
cao ngạo, duy mĩ của ông, ông nói về họ cũng là cách bộc lộ chính mình.
Cho
nên thất tuyệt Lý Bạch cao sang mà vẫn chân thực, hoa lệ mà vẫn tự
nhiên bởi
nó trung thành với nhân cách, tâm hồn ông.
Cũng chính vì thiên về phản ánh lý tưởng, khát vọng, thất tuyệt Lý Bạch
có một giọng điệu hào hứng say mê lôi cuốn kỳ lạ. "HùNG" trở thành một
trong những cảm xúc trữ tình chủ đạo.
Thất tuyệt Lý Bạch không chỉ viết về lý tưởng, mơ ước. Ông cũng có
nhiều bài thơ lấy đề tài hoài cổ, thương nhớ bạn, những bài thơ dụ lãm
nhàn dật, thậm chí đùa tếu... Nhưng dường như viết về đề tài gì, thất
tuyệt của ông cũng có xu hướng cực tả : cực đẹp, cực hùng, cực sầu, cực
thần tiên... Ông ưa thích những hình ảnh không chỉ đẹp mà còn phải phi
thường, gây ấn tượng : sóng lớn, gió dữ, núi cao chót vót, nhân vật
kiêu hùng hay tuyệt sắc... Ngũ tuyệt của ông tả nỗi sầu thiên về cảm
xúc ngậm ngùi, u uẩn. Sang đến thất
tuyệt với chùm 5 bài "Hoàng Giang từ" tả phong ba dữ dội, sóng như núi
phun
tuyết trắng, đánh phá cổng trời, một lần chồm lên lay động cả Tam
sơn... ,
dường như không chỉ sầu nữa mà muốn gào thét lên nỗi đau đớn vì phải bó
tay.
Bài thơ còn lại trong chùm này thuộc thể tạp ngôn, nhưng hai câu đầu
năm
chữ thì giản dị, bộc trực :
" Nhân đạo Hoành giang hảo,
Nùng đạo Hoành giang ố... " ("Hoành Giang từ" bài 1)
( Người bảo Hoành giang hiền hòa,
Ta bảo Hoành giang đáng ghét)
hai câu sau chuyển sang thể thất ngôn lại phá ra với những hình ảnh phi
thường, dữ dội :
"... Nhất phong tam nhật suy đảo sơn,
Bạch lãng cao vu Ngõa cung các."
(... Một ngọn gió thổi ba ngày liền, đổ núi,
Sóng trắng cao hơn lầu Ngõa cung)
Hai bài thơ tạp ngôn tứ tuyệt còn lại của Lý Bạch cũng đều kết hợp giữa
giọng điệu giản dị của ngũ ngôn và bay bổng, cực tả của thất ngôn. Có
lẽ
vì vậy mà những bài tạp ngôn tứ tuyệt hình thức thất ngôn bao giờ cũng
nằm
ở câu kết, giống như hành trình từ khởi nguồn chân phác để tìm tới
những
khám phá hư, viễn; hoặc lấy cái cực tả, phi thường để diễn đạt mạnh mẽ
tình
cảm chân thực. Lý Bạch đã rất có ý thức khai thác đặc trưng của thể
loại
!
Chính với bút pháp cực tả, tràn trề cảm xúc, hưng phấn mãnh liệt trong
thất tuyệt mà mảng thơ này gây ấn tượng mạnh mẽ, thể hiện tập trung
nhất đặc tính cao - đẹp - phi phàm vốn là "thần lực" khó học theo được
của ngòi bút Lý Bạch
và cũng rất tiêu biểu cho không khí lãng mạn Thịnh Đường. Có lẽ vì vậy
mà
thất tuyệt Lý Bạch được đương thời đánh giá là "thần phẩm" chăng ?
Thất tuyệt đã bổ sung những nét đẹp riêng làm hoàn chỉnh diện mạo TTLB.
Nhìn đại thể, nếu ngũ tuyệt hồn nhiên thì thất tuyệt đài các; ngũ tuyệt
ưu
du, nhàn nhã, tinh tế thì thất tuyệt mãnh liệt, đậm đà... Ngũ tuyệt là
bè
trầm nhân cách, thất tuyệt là bè cao khát vọng. Hai giọng điệu ấy bổ
sung
cho nhau, cho thấy một phong cách thơ tứ tuyệt vừa phong phú đa dạng,
vừa
thống nhất, đặc sắc. Tất nhiên, đây chỉ là một cái nhìn khái quát tương
đối
trên cả hai mảng thơ ngũ tuyệt và thất tuyệt Lý Bạch, còn cụ thể từng
bài
thì không phải lúc nào cũng theo khuynh hướng chung đó mà tùy từng
trường
hợp đều có những ý vị riêng. Như trường hợp chùm "Thu Phố ca" 14 bài
ngũ
tuyệt, bài thì dân dã nồng hậu, bài thì u uất, cao sang... nhưng nhìn
chung
tính hồn hậu vẫn chiếm ưu thế... là một ví dụ.
x
x x
Nhìn lại hệ thống TTLB, có thể thấy cổ tuyệt, luật tuyệt và tứ tuyệt
bán cổ bán luật của ông không có sự khác biệt rõ rệt lắm về giọng điệu
cũng như nội dung, trong khi ngũ tuyệt và thất tuyệt khác nhau tương
đối rõ. Có lẽ vì tứ tuyệt khuôn khổ nhỏ hẹp nên số chữ nhiều ít trong
câu rất quan trọng để bộc lộ nội dung, góp phần qui định phương thức
thể hiện gián tiếp hay trực
tiếp..., chưa kể câu thơ dài ra thì nhạc điệu cũng biến đổi rõ rệt. Còn
luật
thơ chỉ có khả năng điều chỉnh thanh điệu, âm luật cho hài hòa chứ ít
ảnh
hưởng đến dung lượng của bài. Tình hình phân loại TTLB cho thấy ở đây,
dường
như ông đã chú trọng đến chất lượng nội dung hơn là câu nệ hình thức.
Nhưng
mối quan hệ nội dung - hình thức là tác động qua lại, xuyên thấm lẫn
nhau,
nên cùng với những đổi mới về nội dung, ở đây, Lý Bạch đã để lại sáng
tạo
độc đáo trên từng thể loại của tứ tuyệt. Ông đã có công bác học hóa cổ
tuyệt,
hoàn thiện và tự nhiên hóa luật tuyệt. Ông phát triển tố chất hồn
nhiên,
trong sáng giống dân ca của ngũ tuyệt, đồng thời lại đưa được cá tính
phi
thường vào hình thức giản dị. Với thất tuyệt, ông khai thác làn điệu du
dương
của nó, nâng lên thành một chất giọng cao sang, biến đổi về chất tứ
tuyệt
nhạc phủ hoa lệ kiểu cung đình do đã cho nó một khí cốt kiêu hùng và
tình
cảm chân thực, mãnh liệt.
TTLB không chỉ đặc sắc so với các dòng thơ khác mà đã độc đáo ngay
trong chính nó, giữa từng thể loại của tứ tuyệt với nhau. Sự phong phú
của TTLB cũng phản ánh sự đa dạng của phong cách.
KếT LUậN
1. Tổng kết những thành tựu và cống hiến nổi bật của TTLB :
1.1 Trong lịch trình thơ TT Trung Hoa, TTLB xuất hiện khi thể loại này
manh nha từ thời Hán Ngụy, qua khoảng 500 năm phát triển đến Thịnh
Đường đã định tình hình và nảy nở sung mãn cả về số lượng và chất
lượng. Lý Bạch đã hấp thụ tinh hoa của TT từ 3 dòng: TT cổ thi, nhạc
phủ thời Hán Ngụy với đặc trưng
hồn hậu, tự nhiên, TT Nam Bắc triều hoa lệ, giàu chất trữ tình và TT Sơ
-
Thịnh Đường hàm súc, thanh nhã. Cái vốn thơ phong phú, giàu có ấy cùng
với
thị hiếu thời đại say mê sáng tác và thưởng thức TT đã là môi trường
thuật
lợi nhất để thiên tài của Lý Bạch tỏa sáng trong TT.
1.2 So với dòng thơ cùng loại, TTLB đã nổi bật lên như một hiện tượng
đáng chú ý về số lượng (193 bài - cho đến lúc đó là nhiều nhất) và có
diện phản ánh rộng rãi với nhiều khám phá mới mẻ.
So với thơ khác loại của chính Lý Bạch, TTLB cũng có những đặc sắc và
sáng tạo riêng. Nếu nhạc phủ, cổ phong trường thiên của Lý Bạch mạnh về
phô bày những cảm xúc mãnh liệt, tư tưởng phức tạp, tưởng tượng hào
phóng bay bổng, hình ảnh liên hoàn chồng chất và hình thức diễn đạt tự
do thì TTLB lại thành công nhất khi chộp tả một thần sắc của cảnh, khắc
họa một nét tâm trạng, gieo
một ấn tượng, truyền một rung động, đạt tới chỗ "ngôn tuyệt ý bất
tuyệt", hàm súc, cô đọng. Đặc điểm đó đã chi phối mạnh mẽ hàng loạt
phương diện nghệ thuật của TTLB (bút pháp miêu tả, kết cấu, hình ảnh,
ngôn ngữ...).
1.3 Đóng góp lớn nhất của Lý Bạch cho nền thơ TT Trung Hoa là ở chỗ ông
đã xác lập được một phong cách vững vàng và vô cùng độc đáo trong TT.
Chịu sự quy định của thể loại, phong cách sáng tác của Lý Bạch ở đây
thể hiện tập trung qua 4 đặc điểm:
- Cái "Tôi cá nhân, cá tính"
- Bút pháp "Tả cảnh nhập thần"
- Nghệ thuật lập tứ và kết cấu "ý tận, khí Hùng"
- Nghệ thuật diễn đạt "Thanh thủy xuất phù dung..." tự nhiên mà mỹ lệ.
Trong đó, cái "Tôi - cá nhân, cá tính" có thể xem là hạt nhân độc đáo
của TTLB. Nó ảnh hướng đến hàng loạt phương diện nội dung và nghệ thuật
khác của
mảng thơ này. Với ý thức mạnh mẽ về cái Tôi cá nhân mà Lý Bạch đã khám
phá
khả năng "Ký sự trữ tình" của TT, đi sâu phản ánh sinh hoạt đời tư (là
mảng
đề tài mà TT trước đó ít khi đề cập đến). ở một chừng mực nào đó, có
thể
nói với sự đột phá của cái "Tôi cá nhân, cá tính" Lý Bạch đã làm một
cuộc
cách tân trong thế giới TT đời Đường cổ nhã, đem vào cho nó màu sắc
sinh
động tươi rói của đời thường và khát khao giải phóng cá nhân mãnh liệt.
Giọng
điệu phiêu dật trong TTLB có lẽ là phản ánh cảm hứng của cá nhân thấy
mình
được giải phóng khỏi mọi trói buộc, thanh thản, tự do.
Về mặt nghệ thuật, thể hiện trung thành cái Tôi - nhân cách phi phàm và
đầy cá tính, TTLB do đó có sự kết hợp lạ kỳ của những yếu tố tưởng như
trái
ngược: chân thực và kỳ ảo, bình dị và phi thường.... Bút pháp "Thanh
thủy
xuất phù dung" đề cao tự nhiên mà vẫn cực kỳ mỹ lệ trong TTLB là một hệ
quả
nghệ thuật của cái Tôi đó. Tương tự, bút pháp miêu tả "Tả cảnh nhập
thần"
và thành tựu trong lập tứ, kết cấu của TTLB như "ý tận, khí hùng"...
trước
hết đều liên quan đến cái Tôi - cá tính sáng tạo độc đáo của Lý Bạch.
Phong cách của Lý Bạch trong thể hiện trên hai phương diện: Cái "Tôi -
cá nhân, cá tính" và nghệ thuật biểu hiện cái Tôi đó. Luận án qua phân
tích 4
đặc điểm phong cách nêu trên của TTLB cho thấy ở đây, Lý Bạch đã đạt
tới sự
hòa hợp giữa nội dung với hình thức và phát huy được sở trường của ông
trong
TT. Có lẽ vì thế mà TTLB được đánh giá rất cao. Hơn thế nữa, do khắc
họa
được một cái Tôi vĩ đại, đầy cá tính, TTLB còn nổi bật lên như một mảng
thơ
có phong cách độc đáo không tiền khoáng hậu trong suốt lịch trình tứ
tuyệt.
1.4 Đi xa hơn cả xác lập một phong cách, TTLB còn hiện diện như một
mảng thơ đa thanh, vừa độc đáo, thống nhất nhưng cũng lại vô cùng phong
phú, đa dạng. Chính ở đây, có thể thấy được những đóng góp không nhỏ
của Lý Bạch trên
từng thể loại của tứ tuyệt.
1.4.1 TTLB quá nửa theo luật. Ông đã đưa luật thơ và bút pháp hàm súc,
cô đọng rất Đường vào hình thức cổ tuyệt, cải tiến nó về mọi mặt: lập
tứ, kết cấu, hình ảnh, ngôn ngữ, thanh điệu... tóm lại là đã "bác học
hóa" cổ tuyệt trong khi vẫn giữ được phong vị hồn hậu của dân ca và
khẳng định bản sắc của
cái Tôi độc đáo. Mặt khác, ông lại có công tự nhiên hóa luật tuyệt, đem
vào
phong cách giản dị, trong sáng của dân ca khiến nó mất vẻ gò bó, cứng
nhắc.
Những sáng tạo của ông còn thể hiện ở hình thức đối. Đối trong TTLB tuy
không
nhiều nhưng rất đặc sắc do có sự kết hợp độc đáo giữa hình thức đối
xứng
có từ lâu trong văn học Trung Quốc (tăng khả năng hùng biện), với bút
pháp
đối ngẫu đang cực thịnh ở đời Đường và thủ pháp tương phản đặc trưng
của
chủ nghĩa lãng mạn.
Nhìn chung lại, Lý Bạch đã có công hòa hợp hai dòng sáng tác dân gian
và bác học trong TT và bằng sự sáng tạo của mình nâng chúng lên đỉnh
cao hoàn mỹ.
1.4.2 Căn cứ vào số chữ trong câu, TTLB có thể phân làm 2 dạng chính:
ngũ tuyệt và thất tuyệt. Hai mảng thơ này nhìn chung có sự khác biệt rõ
rệt về đề tài, nhân vật, cảm hứng trữ tình, bút pháp thể hiện và ngôn
ngữ. Ngũ tuyệt đặc trưng với chất giọng hồn nhiên, trong trẻo, thể hiện
rõ nhất phong cách giản dị mà đẹp đẽ của Lý Bạch, có giá trị độc đáo
khi khắc họa cái "Tôi - cá nhân, cá tính". Thất tuyệt lại nổi bật lên
với chất giọng cao sang và bút
pháp cực tả tràn trề cảm xúc, lãng mạn, thể hiện tập trung đặc tính cao
-
đẹp - phi phàm vốn là "thần lực" khó học theo được của Lý Bạch. Ngũ
tuyệt và thất tuyệt bổ sung cho nhau, làm nổi bật một phong cách thơ
đặc sắc, nhất quán nhưng cũng lại phong phú, nhiều màu sắc.
1.5 ở một chừng mực nhất định, TTLB có thể coi là một bằng chứng cho sự
kết hợp sinh động và tác động qua lại giữa phong cách và thể loại trong
sáng tác. Những đặc điểm phong cách của TTLB mang đậm sự chi phối của
thể loại TT. Ngược lại, với một phong cách sáng tác độc đáo, Lý Bạch
cũng đã đem lại cho thể loại TT những cống
hiến mới mẻ trên nhiều phương diện.
1.6 Nhìn chung, TTLB với những thành tựu và cống hiến đặc sắc trên cả
hai phương diện phong cách và thể loại đã không hổ danh là đỉnh cao
sáng tạo của
thơ TT cổ điển Trung Hoa. ảnh hưởng của nó tới thơ ca đương thời và hậu
thế
rất sâu rộng. Các thi sĩ Trung Quốc như Vi ứng Vật, Lý Thương ẩn, Đỗ
Mục
(đời Đường), Tô Thức, Lục Du (Tống), Cao Khải (Minh), Củng Tự Trân
(Thanh)... ở chừng mực khác nhau đã ít nhiều tiếp thu ảnh hưởng của thi
pháp TTLB. ở Việt Nam, thơ Lý Bạch đã thâm nhập rất sâu đến mức gần như
trở thành một yếu
tố nội tại của văn hóa dân tộc qua nhiều thế hệ.
2. Một số đề xuất nghiên cứu mới:
2.1 Con người Việt Nam thời hiện đại bận bịu nên thị hiếu văn chương
đang và sẽ có khuynh hướng nghiêng dần về những sáng tác có độ dồn nén
thông tin lớn, gây ấn tượng. ở thể loại văn xuôi , truyện ngắn có lẽ
đang phát triển mạnh nhất , thậm chí xuất hiện thêm loại truyện cực
ngắn , chỉ vài trăm chữ . Trong thơ ca thì xu hướng này chưa rõ rệt
bằng , mặc dù tứ tuyệt gần đây đã xuất hiện tương đối nhiều hơn .Có thể
thấy các nhà thơ Việt Nam ngày nay đang trên đường tìm kiếm một hình
thức thể loại và ngôn ngữ khả dĩ lột tả được những ý tưởng, cảm hứng
phức tạp, và mới mẻ đang dâng lên khi đất nước có những chuyển mình rõ
rệt. Trong tình hình ấy, TTLB với đặc trưng hàm súc, cô đọng mà lại tự
nhiên, phóng khoáng, bằng thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị mà phản ánh
được hồn thơ vĩ đại, đầy khát vọng lãng mạn và tính nhân văn cao cả...
phải chăng vẫn là một bài học sáng tác quý báu và có ý nghĩa thực tiễn?
2.2 Càng nghiên cứu TTLB , chúng tôi càng kinh ngạc trước biển sáng tạo
mênh mông mà Lý Bạch đã đem vào hình thức thơ " tí hon" này. So với tầm
vóc
vĩ đại của nó, công trình của chúng tôi có lẽ chỉ là một bài tứ tuyệt
mà
"ngôn tuyệt, ý bất tuyệt", vẫn còn có nhiều vấn đề thú vị mà chúng tôi
mong
muốn sẽ có dịp tìm hiểu sâu rộng hơn:
- Từ TTLB, có thể chuyển hướng ngiên cứu, so sánh nó một cách toàn diện
với nhạc phủ, cổ phong của Lý Bạch để thấy những sáng tạo không kém
phần
đặc sắc của ông
trong hai mảng thơ cũng rất thành công này.
- Đặt TTLB trong sự đánh giá của độc giả Việt Nam hiện đại, lật lại
những vấn đề:
. So sánh cái "Tôi - cá nhân, cá tính" trong thơ Lý Bạch và cái Tôi trữ
tình trong thơ "Mới" Việt Nam những năm 30 - 45
. Tính hiện đại của TTLB và thơ TT Việt Nam thời đổi mới.
......
Cuối cùng , để khép lại luận án , chúng tôi hi vọng và tin tưởng TTLB
với giá trị độc đáo của nó sẽ có một sức sống trường tồn trong tâm hồn
yêu nghệ thuật của người Việt Nam , đặc biệt là với thế hệ độc giả trẻ
đang rất cần có một hành trang văn hoá đầy đủ để tiến vào thế kỉ 21./.
THƯ MỤC
Tài liệu tiếng Việt :
1. Đào Duy Anh, Nguyễn Sĩ Lâm dịch, chú thích - "Sở từ" (Khuất Nguyên),
Nxb
Văn học 1974.
2. Phạm Hải Anh - "Mạch thơ hay mối liên kết nội tại trong thơ tứ tuyệt
đời
Đường" - Luận án Cao học, Đại học Sư phạm Hà Nội I, 1990.
3. Phạm Hải Anh - "Bút pháp chấm phá trong cấu tứ thơ Đường" - Tạp chí
Văn
học số 10/1994.
4. Bùi Thanh Ba - "Đỗ Phủ nhà thơ châm biếm và đả kích", Tạp chí Nghiên
cứu
Văn học số 11/1962.
5. Bùi Thanh Ba - "Lý Bạch nhà thơ lãng mạn thiên tài", Tạp chí Nghiên
cứu
Văn học số 5/1964.
6. Bùi Thanh Ba - "Bạch Cư Dị nhà thơ và nhà lý luận thơ ca" , Tạp chí
Nghiên
cứu Văn học số 4/1962.
7. Francois Cheng - "Bút pháp thơ ca Trung Quốc", Nguyễn Khắc Phi dịch,
tài
liệu in ronéo trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
8. Nguyễn Huệ Chi chủ biên "Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù", chương
II bài
"Âm vang thơ Đường" (Lương Duy Thứ) Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1990.
9. Nguyễn Huệ Chi - "Làm thế nào đổi mới phương pháp nghiên cứu văn học
cổ", Tạp chí Văn học số 1/1990, tr.46
10. Trương Chính chủ biên - "Lịch sử văn học Trung Quốc" tập I, Nxb
Giáo dục
Hà Nội 1963.
11. Trương Chính chủ biên - "Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc" tập
I, Nxb
Giáo dục, Hà Nội 1971.
12. Trương Chính giới thiệu, Nam Trân tuyển chọn - "Thơ Tống", Nxb Văn
học,
Hà Nội 1995.
13. Hư Chu - "Để hiểu thơ Đường luật", Nxb Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn 1958.
14. Dịch Quân Tả - "Văn học sử Trung Quốc", Huỳnh Minh Đức dịch, Nxb
Trẻ,
tp Hồ Chí Minh 1992.
15. Doãn Chính chủ biên - "Lịch sử triết học Trung Quốc" tập II, Nxb
Giáo dục
1993.
16. Will Durant - " Lịch sử văn minh Trung Quốc", Nguyễn Hiến Lê dịch,
Trung
tâm Thông tin Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh 1990.
17. Dư Quán Anh, chủ biên - "Lịch sử văn học Trung Quốc", quyển II :
Văn học
đời Tống, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1993.
18. Nguyễn Sĩ Đại - "Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường"
Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội 1995.
19. Đàm Gia Kiện - "Lịch sử văn hóa Trung Quốc" (Trương Chính dịch), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội 1993.
20. Bùi Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đan - "Đường thi trích dịch", Tủ sách Hoa
xưa,
Sài gòn 1968.
21. "Đọc và thưởng thức thơ ca" (Văn học cổ Trung Quốc) - Tài liệu
tuyển dịch,
in ronéo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
22. Nguyễn Thị Bích Hải - "Thi pháp thơ Đường", Nxb Thuận Hóa, Huế 1995.
23. Dương Quảng Hàm - "Việt Nam văn học Sử yếu", chương 13 "Các thể văn
của Tàu và của ta. Thi pháp của Tàu và âm luật của ta" - Quốc gia giáo
dục
xuất bản xã xuất bản, Sài gòn 1958.
24. Nguyễn Tuyết Hạnh - "Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam", luận án PTS
Khoa học Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh 1996.
25. Hồ Sĩ Hiệp - "Thơ Đường" Nxb Tổng hợp Khánh Hòa 1991.
26. Hồ Sĩ Hiệp - "Sự phát triển thi pháp của Đỗ Phủ qua từng giai
đoạn", Luận án
Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, 1995.
27. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi...."Từ điển văn học" tập I, mục "Lý
Bạch",
tr.420, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1983.
28. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi..."Từ điển văn học" tập II, mục "Thơ tứ
tuyệt"
(Nguyễn Khắc Phi), trang 384, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1983.
29. Hồ Thích - "Trung Quốc triết học sử", Huỳnh Minh Đức dịch, Nxb Khai
Trí,
Sài Gòn 1970.
30. Hồng Tiềm, Uông Tử Cung - "Lịch sử triết học Trung Quốc", Nxb Sự
Thật,
Hà Nội 1958.
31. Dương Mạnh Huy dịch, chú giải "Đường thi hợp tuyển", quyển I, Liễu
viên
thư xá xuất bản 1931.
32. Trần Trọng Kim - "Đường thi" , Nxb Tân Việt, Hà Nội 1950.
33. Đinh Gia Khánh - "Thử đặt lại một số vấn đề trong việc nghiên cứu
tác giả,
tác phẩm xưa" - Tạp chí Văn học số 7/1961, tr 119.
34. Đinh Gia Khánh - "Điển cố văn học", Nxb Khoa học Xã hội 1977.
35. Khâu Chấn Thanh - "Lý luận Văn học Nghệ thuật cổ điển Trung Quốc",
Nxb
Giáo dục, Hà Nội 1994.
36. Trúc Khê - "Thơ Lý Bạch", Nxb Văn học, Hà Nội 1992.
37. Khổng Tử - "Kinh Thi", tập I, II, III - Nxb Văn học, Hà Nội 1991.
38. M.B.Khrapchenko - "Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn
học", Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1978.
39. La Căn Trạch - "Lịch sử phê bình Văn học Trung Quốc", tài liệu
dịch, in
Ronéo, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
40. Nguyễn Nho Lâm, Nguyễn Văn Nguyện - "Mạch thượng tang", Quán sách
Văn hóa phát hành, Sài Gòn 1972.
41. Lão Tử - "Đạo đức kinh", Nguyễn Duy Cần dịch, Nxb
42. I.X.Lixêvích - "Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa", Trần Đình Sử
dịch,
Nxb Giáo dục 1994.
43. Phương Lựu ... "Lý luận văn học", tập III, chương 27 "Một số vấn đề
về
phương pháp sáng tác trong văn học cổ phương Đông", Nxb Giáo dục 1992.
44. Phương Lựu - "Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc", Nxb
Giáo dục,
Hà Nội 1989.
45. Đặng Thai Mai "Mối liên hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt
Nam và
văn học Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 7/1961, tr 1.
46. Đặng Thai Mai "Xã hội sử Trung Quốc", Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội
1994.
47. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên "Văn 10" - sách giáo viên, phần Văn học
nước
ngoài và lý luận văn học, chương III :" Thơ Đường", Nxb Giáo dục 1990.
48. Huyền Mặc đạo nhân - "Đường thi hợp tuyển", Liễu viên thư xá Sài Gòn
1931.
49. Nguyễn Xuân Nam - "Làm quen với thơ Đường", Nxb Văn học, Hà Nội
1974.
50. Lê Đức Niệm - "Diện mạo thơ Đường", Nxb Văn hóa Thông tin, trường
Đại
học Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh 1995.
51. Lạc Nam Phan Văn Nhiễm - "Tìm hiểu các thể thơ", Nxb Văn học, Hà Nội
1993.
52. "Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh", bài "Thơ tứ tuyệt của Hồ
Chủ
Tịch" (Hà Minh Đức), Viện Văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1979.
53. Phan Ngọc - "Đỗ Phủ - nhà thơ dân đen", Nxb Đà Nẵng 1990.
54. Phan Ngọc - "Tìm hiểu sự đối xứng trong văn học", Tạp chí Văn học số
1/1983.
55. Hữu Ngọc - "Thơ Đường bốn ngữ", Nxb Văn học, Hà Nội 1992.
56. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức "Các thể thơ ca và sự phát triển của
hình thức
thơ ca trong văn học Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1971.
57. Lê Lưu Oanh - "Cái Tôi trữ tình trong thơ", Luận án PTS Khoa học
Ngữ văn,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội I 1995.
58. Nguyễn Khắc Phi - "Thơ ca phản chiếu đời Đường", Tạp chí Văn học số
1/1991.
59. Nguyễn Khắc Phi chủ biên "Văn học Trung Quốc" tập I, Nxb Giáo dục
1987.
60. Vũ Tiến Quỳnh biên soạn - "Phê bình, lý luận văn học" - Lý Bạch, Đỗ
Phủ,
Bạch Cư Dị..., Nxb Tổng hợp Khánh Hòa 1991.
61. Ríptin - "Mấy vấn đề nghiên cứu nền văn học Trung cổ phương Đông
theo
phương pháp loại hình" - Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4/1962, tr 57.
62. Trần Trọng San, "Thơ Đường" tập I, Nxb Bắc Đẩu, Sài Gòn 1965.
63. Trần Trọng San, "Thơ Đường" tập II, Nxb Bắc Đẩu, Sài Gòn 1970.
64. Trần Trọng San, "Thơ Đường" tập III, Nxb Bắc Đẩu, Sài Gòn 1973.
65. Trần Trọng San "Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường", Đại học Tổng hợp
Tp Hồ Chí Minh 1990.
66. Nguyễn Hữu Sơn :"Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ nhìn từ
góc độ
lý thuyết", Tạp chí Văn học 6/1993.
67. Trần Đình Sử - "Thời trung đại, cái Tôi trong các học thuyết, trong
đời sống
và trong văn học" - Tạp chí Văn học 7/1995, tr 1 ( 4.
68. Trần Đình Sử -"Lý luận phê bình văn học" bài "ý nghĩa lịch sử của
Văn học
Trung Quốc đối với tiến trình phát triển của văn học Việt Nam" tr 187,
Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội 1996.
69. Trần Đình Sử - "Lý luận văn học" tập II, Nxb Giáo dục Hà Nội 1987.
70. Ngô Tất Tố - "Đường thi", Nxb Tân Dân 1940.
71. Nguyễn Quang Tuân biên soạn - "Thơ Đường" - Tản Đà dịch, Nxb Trẻ,
Hội
Nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp Hồ Chí Minh 1989.
72. "Tuế Hán - Đường thi thoại" - tài liệu tuyển dịch, in Ronéo, Trường
Đại học
Sư phạm Hà Nội I.
73. Phùng Văn Tửu - "Victo Huygô", Nxb Giáo dục 1978.
74. Trần Thị Băng Thanh - "Đào tạo Hán học, một công việc bức bách trước
nhiệm vụ nghiên cứu văn học cổ" - Tạp chí Văn học số 1/1990.
75. Hoài Thanh, Hoài Chân - "Thi nhân Việt Nam", Nxb Văn học, Hà Nội
1988.
76. Cao Tự Thanh - "Giai thoại thơ Đường", Nxb Phụ nữ 1995.
77. Nhữ Thành - "Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường", Tạp chí Văn học số
1/1982.
78. Nhữ Thành- " Tìm hiểu cái hay của thơ Đường", tài liệu in Ronéo,
trường Đại
học Sư phạm Hà Nội I.
79. Doãn Kế Thiện "Lược khảo thơ Trung Quốc" - nhà in Mai Lĩnh, Hà Nội
1943.
80. Trần Nho Thìn "Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái Tôi tác
giả", Tạp
chí Văn học số 6/1993.
81. "Thơ Đường" tập I, Nxb Văn học, Hà Nội 1987.
82. "Thơ Đường" tập II, Nxb Văn học, Hà Nội 1987.
83. Hoàng Trung Thông - "Thơ Đỗ Phủ" , Nxb Văn học Hà Nội 1962.
84. Nguyễn Đăng Thục - "Đào học và tinh thần nghệ thuật nhà Đường" -
Tạp chí
Luận Đàm số 8/1962.
85. Lương Duy Thứ - "Tranh chấp giữa Tây học và Trung học", Thông báo
Khoa
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 7/1990/
86. Lương Duy Thứ - "Bài giảng văn học Trung Quốc", tủ sách Đại học
Tổng hợp
Tp Hồ Chí Minh, 1995.
87. Trang Tử - "Nam Hoa kinh", Nguyễn Hiến Lê, Nxb Tân Việt, Hà Nội
1945.
88. Nam Trân giới thiệu, tuyển chọn - "Thơ Đường" tập I, Nxb Văn học,
Hà Nội
1987.
89. Nam Trân tuyển chọn, Trương Chính giới thiệu -"Thơ Đường" tập II,
Nxb
Văn học, Hà Nội 1987.
90. Trương Trọng Thuần - "Văn học Trung Quốc", bài giảng tại trường Đại
học
Sư phạm Hà Nội I, in Ronéo, 1959.
Thảo đường cư sĩ Trần Văn, Hải Minh biên soạn - "Bách gia chư tử", Hội
Nghiên cứu và giảng dạy văn học, tp Hồ Chí Minh 1991.
Tài liệu tiếng Anh :
93. Wilis and Tony Barnstone "Laughing lost in the mountains - The
Ecstasy of
stillness", Panda Books Beijing 1990.
94. Ch'en Shou Yi "Chinese literature - A historical introduction", The
song of
the T'ang dynasty - The Ronald Company New York.
95. Arthur Cooper "Li Po and Tu Fu", Penguin Classics.
96. A.R.Davis -"Chinese verse" Penguin books.
97. Sam Hamill - "Banished immortal : vision of Li Thai Po" Fredonia,
N.Y :
White Pine press, 1982.
98. Paul W.Kroll (editor) - "T'ang studies" University of Colorado,
Baulder 10-
11/1993.
99. Liu Po Chen - "Ancient China's poets" - The Commercial press,
Hongkong
1988.
100. James J.Y Liu- "The art of Chinese poetry", The University of
Chicago press
- USA 1966.
101. Lu Zhi Wei "Five lectures on Chinese poetry", Foreign language
teaching
and research press, Beijing 1982.
102. William H.Nienhauser Jr, - "Bibliography of selected Western works
on
T'ang dynasty literature" Center for Chinese Studies, Taipei, Taiwan
1988.
103. Shigeyoshi Obata - "The works of Li Po. The Chinese poet", New York
1965.
104. Stephen Owen "The great age of Chinese poetry - The High T'ang" -
Li Po,
A new concept of genius. New Haven and London, Yale University Press
1981.
105. Wai Lim Yip - "Diffusion of distances : dialogues between Chinese
and
Western poeties", Berkeley, University of California press 1993.
106. Arthur Waley - "The poetry and career of Li Po", London, Allen and
Unwin,
New York, Mac Millan 1950.
107. Wong Siu Kit - "The genuis of Li Po", Centre of Asian Studies,
University
of Hongkong 1971.
108. John C.H.Wu - "The Four seasons of T'ang poetry" Rutland 1972.
109. David Young - "Four T'ang poets : Wang Wei, Li Po, Tu Fu, Li Ho",
(translated and introduced), University of Colorado 1973.
110. Pauline Yu - "The reading of imagery in Chinese poetic tradition"
-Princeton
University press 1987.
111. Yu Yuan Zhong "300 Tang poems - A new translation", The Commercial
press HongKong 1991.
112. Yung Teng Chia Yee - "The poet Li Po" The University press of
Hawaii
Honolulu 1975.
DANH MụC CáC CHữ VIếT TắT
TM : Thư mục
TT : Tứ tuyệt
TTLB : Tứ tuyệt Lý Bạch
Phạm Hải Anh