Nguyễn
Quốc Trụ & Thảo Trần
Lê Mình Hà & Đỗ Quang Nghĩa & Bé Nam &
Ông Bà Nguyễn Ngọc Giao
tại nhà
Nguyễn Ngọc Giao, Paris.
Về lại với 'Việt
Nam ơi'...
Lê Minh Hà
'...
Những bà mẹ lại đo chân vào thần tích
Để hoài thai triệu triệu những
anh hùng...'
(Nguyễn
Khoa Điềm)
Về lại với 'Việt Nam
ơi'...
...
Là về với một bài thơ của Lưu Quang Vũ. Bài thơ được Vũ viết từ
những năm đầu thập kỷ 70, nhưng chỉ sau khi Vũ mất khá lâu, khi trên
thế giới này, cuộc đấu tranh "ai thắng ai" chỉ còn có một bên muốn làm
chiến sĩ, bài thơ mới được in ra nhờ tấm lòng của những người chí tình
với thơ và với Vũ.
Trước
khi trở thành một kịch tác gia với những kịch phẩm dữ dội nhất
của sân khấu Việt Nam vào thập kỷ 80, Vũ đã là một nhà thơ. Và tôi tin
rằng trong tâm tưởng của bạn đọc, Vũ trước tiên và vĩnh viễn là một nhà
thơ. Một nhà thơ, không phải hoàn toàn như Hoài Thanh nhận xét trong sự
quy chiếu của lý
luận chính thống: '...rất gắn với chế độ chúng ta... Cái buồn ở anh là
cái
buồn trung hậu.' ('Một cây bút trẻ nhiều triển vọng' - Tạp chí Văn học
số
12 năm 1966)
Ở
độ tuổi hai mươi, vào lúc những người đồng lứa thích hát 'Bài ca
Trường sơn' (Gia Dũng) và tin rằng 'Đường ra trận mùa này đẹp lắm'
(Phạm Tiến Duật), Vũ đã triết từ trái tim mình ra những câu thơ đạt tới
sự vi tế, như:
'...
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn
môi'...
Người
đọc dễ nhận thấy từ đó một khả năng cảm biến cực kỳ bén nhạy
trước nỗi đau, chứ không chỉ nỗi buồn. Những câu thơ như thế ở thời ấy
của Vũ, hay
những câu thơ sau của Bằng Việt:
'Nơi tựu trường ngây
thơ, trang
giấy thơm đầu tiên
Mái trường ngây thơ không quên
được bao giờ
Chuông xe điện trong màn sương
rạng sớm
Và nắng nhỏ trên hàng cây rét muộn
Có thể nào không xui tôi nhớ
em'...
('Một
chút thì thầm trong tình yêu Hà Nội')
đã
từng phải nhận về mình những nhát búa của sự phê bình theo đường lối
văn hóa
văn nghệ của Đảng: Ít sức sống, xa rời hiện thực cách mạng... v... v...
Không
biết sự phê bình ấy có phải là động lực chính làm biến đổi người bạn
thơ
song hành cùng Vũ thuở hoa niên trong tập thơ in chung 'Bếp lửa Hương
cây'
thành một viên chức cao cấp không? Còn với Vũ, dường như sự phê bình ấy
không
có tác dụng. Đọc Vũ, có cảm giác Vũ đã gửi vào tất cả các kịch phẩm của
mình
cái Vũ thu được bằng thị giác, và dành cho thơ tất cả những gì sâu kín
nhất,
da thịt nhất mà Vũ cảm được từ trong vững bền mà mong manh của cuộc
sống
con người, của cuộc đời toàn những trầy trật, vật vã, mà Vũ yêu đến cạn
mình
(Có ai nói cho lòng ta hiểu nỗi - Về cuộc đời ghê gớm ta yêu...) Vũ làm
thơ
trước hết là vì những ẩn ức của riêng mình. Thơ - ấy là hình thức tự
giải
phóng của Vũ - điều không mấy nhà thơ cùng thời Vũ đạt tới.
--------------
Đất
nước - hay đúng hơn là những quần thể người sống trên đó - Nhân dân
- là một ám ảnh trong thơ Vũ. Chuyện bình thường với những nhà thơ, rất
bình thường ở thơ ca Việt Nam đương đại. Nhưng sẽ là không thường nữa
khi nhà thơ
ấy không nói giống bất kỳ ai, nói như khóc, mà lại là thành thực nhất,
thiết
tha nhất về Tổ quốc, về nhân dân mình. Đó là trường hợp của 'Việt Nam
ơi'.
Không
một chú dẫn cụ thể nào về thời điểm ra đời của bài thơ ngoài dòng
chữ in ở những trang đầu, bên dưới nhan đề tập 'Bầy ong trong đêm sâu'
(Thơ. 1970-1975). Nhưng dù không có dòng chú giải ấy, những ai đang ở
độ tuổi ngoài ba mươi vẫn dễ dàng đoán ra được hiện thực lịch sử dân
tộc đã động vào cảm quan thơ của Vũ. Chính là thế, là cái thời ấy, thời
mỗi con người - từ trong tâm thức - đã rã rời - kinh hoàng bởi chiến
tranh; nhưng chiều chiều trên những phố phường Hà Nội, loa phóng thanh
vẫn truyền đi những giai âm của 'Bài
ca Hà Nội', của 'Hà Nội niềm tin và hy vọng'... một cách đầy lý trí.
Một
nửa nước Việt Nam vẫn đang phải cố tin và cố tự hào. Thơ về đất nước
thời
ấy, và cả thời không xa trước đấy, thường là tụng ca: 'Đất nước'
(Nguyễn Đình
Thi), 'Xuân 67', 'Xuân 69' (Tố Hữu), 'Đất nước' (Nam Hà), 'Mặt đường
khát
vọng' (Nguyễn Khoa Điềm), 'Tình yêu và báo động' (Bằng Việt)... ở đó
đất
nước được hình dung như là, và trước tiên là người sinh thành của những
chiến
công, của những anh hùng dũng sĩ.
------------------
'...
Đất nước của những người con trai con gái
Đẹp hơn hoa hồng, cứng hơn sắt
thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt chỉ để cho ngày gặp
mặt'...
(Nam
Hà)
'...
Những bà mẹ lại đo chân vào thần tích
Để hoài thai triệu triệu những
anh hùng...'
(Nguyễn
Khoa Điềm)
-----------
Phù
hợp với những hình dung như thế là trùng trùng điệp điệp những tán thán
đầy tính xưng tụng, nguyện thề : 'Ôi'; 'Hỡi'; 'Hỡi ôi!'
'... Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn
ngàn
năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng?'
(Chế
Lan Viên)
'... Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ"
(Tố
Hữu)
Chưa
bao giờ tôi thấy một bài thơ nào về đất nước có nhan đề chứa chan
và
giản dị như 'Việt Nam ơi' của Vũ. Từ gọi hỏi 'ơi' đã nhất thể hóa đất
nước
với con người, đã gợi ra sự gần gũi tột bậc giữa khách thể và chủ thể,
đã
mở ra một khát khao giãi bầy, khơi mở.
... Về cuộc sống đơn
giản, thiếu thốn, đầy nghiệt ngã
thời
chiến tranh:
'Những áo quần rách rưới
Những hàng cây đắm mình vào bóng
tối
Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu
Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ
Lèo tèo mì luộc canh rau
Mấy mươi năm vẫn mái tranh này
Dòng sông đen nước cạn
Tiếng loa đầu dốc lạnh
Tin chiến trận miền xa
Những người đi chưa về
Những quả bom những hầm hào sụt lở
Những tên tướng những lời hăm
dọa'...
-------------
Sự
thống kê này mang sức lay cảm của thơ và chỉ những nhà thơ lớn mới
làm được. Chỉ có những nhà thơ đã thoát khỏi sự ràng buộc của những
quan niệm phức tạp hóa thơ mới có thể viết thế. Loạt tính từ - từ láy
rách rưới', 'leo lắt', 'lèo tèo', hoặc chỉ giản đơn là những trạng từ
'cạn', 'lạnh', 'đen', 'xa', 'sụt lở'... có giá trị như những gam màu
tối trên những bức tranh về sự thống khổ của con người, của các bậc
danh họa. Dám viết như thế ở thời buổi ấy, Vũ đích thực là Người -
Không - Biết - Sợ. (Giá từ hồi ấy những câu
thơ này đến được với hồn ta!)
Nhưng
nếu chỉ có thế thôi thì Vũ chưa khác mấy với những nhà thơ cùng
thời. Chẳng phải cũng vào những năm đó, Phạm Tiến Duật đã xuất hiện với
một gương mặt khác qua 'Vòng trắng'? Cái động vào tâm thức người đọc
khiến ta muốn khóc
ở 'Việt Nam ơi' là những câu này:
'... Người ta còn định làm gì
Người nữa
Việt Nam ơi?
Người ta còn muốn gì Người nữa
Việt Nam ơi?'
Những
dấu hỏi cuối câu khép lại từng khổ thơ đã tước bỏ hết những lớp
hào quang tô vẽ cho cuộc chiến lẽ ra chúng ta đã không phải lăn mình
vào. Không phải cái 'hùng' đánh thức chúng ta. Đánh thức chúng ta là
nỗi đau của chính chúng ta:
'... Mấy mươi năm đã mấy
lớp
người
Chia lìa gục ngã
Đã tận cùng nỗi khổ'...
Phải
đọc những câu thơ này trong sự đối sánh với những câu thơ thời ấy,
viết về thời ấy:
'... Lớp cha trước lớp
con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân
hành...'
(Tố Hữu)
mới
thấy hết được sự can đảm của Vũ trong cách cảm nhận hiện thực, mới thấy
hết sự quyết liệt của nhà thơ trẻ ấy trong cách đặt vấn đề: Người ta
định, Người ta muốn >< Việt Nam (Người).
--------------------
Có
cần chăng việc giải thích ngọn nguồn hai chữ 'người ta'. Có cần chăng
việc nói nhiều hơn về tình yêu Tổ quốc da diết của Vũ ở đây? - ở những
câu hỏi mà chỉ có những tâm hồn lớn mới dám đặt ra cho mình?
Vũ
yêu Tổ quốc bằng tình yêu của người dân thường, của Người - Dưới - Đáy
(Oxtrovxki) và bằng tình yêu của một nhà thơ bị chỉ đạo bởi một tinh
thần duy nhất - Nhân
bản, bởi độ rung của những 'dây thần kinh xấu hổ (Bonđarev). Sẽ không
khi
nào ta tìm được ở những bài thơ cùng đề tài, cùng chủ đề, cùng thời
điểm ra
đời với 'Việt Nam ơi' nỗi đau đớn tột cùng, cũng là tình yêu tột cùng
đến
độ sắp rơi vào mê loạn như những câu thơ này:
'...
Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi
rách nát
Xin Người đừng trách giận, Việt
Nam ơi
Tôi làm sao sống được nếu xa Người
Như giọt nước bậu vào bụi cỏ
Như châu chấu ôm ghì bông lúa
Người đẩy ra tôi lại bám lấy Người
Không vì thế mà Người khinh tôi
chứ
Việt Nam ơi.
... Xin Người đừng nhìn tôi như
kẻ lạ
Xin Người đừng ghẻ lạnh, Việt
Nam
ơi!'
---------------
Dường
như từ tiềm thức, Vũ đã cảm biết mình là người xa lạ giữa thời
mình hiện hữu. Nhưng chẳng phải là thế này ư: trong những hoàn cảnh bi
thương nhất
của mỗi dân tộc, những nghệ sĩ - những kẻ xa lạ - những người điên -
lại
thành Người - Độc - Tỉnh, mà thiếu họ, thế gian đầy bất trắc này sẽ chỉ
còn
là những mê lộ. Đó là trường hợp của những Khuất Nguyên,
Đotxtoiepxki... và
không nhiều các tên tuổi khác. Ở Việt Nam, đó là trường hợp của Vũ. Đau
đớn
lắm thay! Vinh hạnh lắm thay!
Cùng
thời với Vũ, hầu như các nhà thơ đều bị cuốn vào cơn lốc của những
cuộc hành quân. Điều dễ hiểu! Vũ đã từng đi trong đội ngũ, và Vũ đã
'tuột xích'. Đấy là điều không thể khác ở một con người như Vũ. Khác
với rất nhiều người yêu Tổ quốc rồi dần dần xa lạ hóa Tổ quốc, thể hiện
Tổ quốc như một đối tượng để chiêm bái và loay hoay tự làm mất bóng
mình trong bóng cả của Tổ quốc, Vũ - cũng chân thành như thế - nhưng
lại chỉ ra quan hệ song đôi giữa mình và Tổ quốc mình. Không còn là
chiêm ngưỡng mà là chiêm nghiệm. Không
còn là tráng ca mà là một khúc ai ca.
'...
Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của Người?
Đến bao giờ ngày vui
Như chim về bên cửa?
Đến bao giờ Người mới được nghỉ
ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ
nhỏ?
Đến bao giờ đến bao giờ nữa
Việt Nam ơi?'
------------
Vẫn
lại là những câu hỏi tu từ ấy, khôn cùng day dứt và chua xót. Trong
âm vọng ai oán của chúng, người ta cảm nhận được tất cả sự thống khổ
của nước
non này, của dân tộc này. 'Việt Nam ơi' có thể được coi là bi phẫn ca
hiện
đại. Cũng chính từ đó, bỏng cháy một khát khao yên bình đã thăng hoa.
Khát
khao ấy đã được Vũ hóa giải thành tình yêu bông lúa, thành bóng chim,
thành
nắng, thành tiếng cười trẻ nhỏ. Lẽ dĩ nhiên vẻ đẹp của yên bình không
chỉ
là như thế. Nhưng cũng là lẽ dĩ nhiên, không thể có một hình dung khác
về
yên bình nếu thiếu đi những hình ảnh trên. Hạnh phúc bao giờ cũng giản
dị:
'...
Đời đáng yêu nhiều lúc có gì đâu
Miếng ván chênh kêu giữa nhịp cầu
Một
buổi chiều sương nghe chó sủa...'
(Xuân
Diệu)
'... Ôi cuộc đời bình dị
quá đây kia
Một bà mẹ ngồi ôm con hóng mát
Một chú bé hai nắm tay dụi mắt
Một con đường có bóng lá xe đi...'
(Vũ
Quần Phương)
Hiểu
như thế mới, cảm hết được khát khao tuyệt vọng của Lưu Quang Vũ về đất
nước! '... Đến bao giờ đến bao giờ nữa - Việt Nam ơi?'
----------------
Có
thể một ai đó sẽ nói rằng bài thơ buồn quá, bi thảm quá. Mà quả vậy!
Trùng điệp những câu hỏi cứa lòng kia không có tiếng trả lời. Nhưng đó
là sự thực, không phải của thời xa xôi ấy mà còn của cả thời ta đang
sống. Biết làm sao! Sức mạnh của thơ ca chính là ở chỗ đó, ở khả năng
biết đau buồn và
yêu thương, và làm cho người đọc cùng chung trải những nỗi niềm ấy.
'... Năm
tháng sẽ qua đi, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách
mạng
sẽ thôi gào thét...' (A.Tolxtoi). Sẽ chỉ 'còn lại tình yêu' (Nguyễn Huy
Thiệp).
Sau tất cả những thăng trầm, dời đổi, trước và trên tình yêu gái trai
là
tình yêu Tổ quốc khó nghèo, cơ cực và tao loạn. Chỉ khi nào nói được
đúng
như thế về tình yêu Tổ quốc, thơ về Tổ quốc mới có thể lặng lẽ đi qua
thời
gian, lặng lẽ sống, không cần trò tung hứng của những người làm xiếc
chữ.
'Việt Nam ơi' là một bài thơ như thế. Ở đó, chúng ta đã cảm thấy hết
những
dằn vặt suốt đời của Vũ. Từ thuở ấy - thời người ta cao giọng '... Thời
đánh
Mỹ là thời tươi đẹp nhất. Tỏa nắng cho thơ là triệu triệu những anh
hùng...'
(Chế Lan Viên), Vũ đã không tin một cách dễ dàng rằng '... Đường lên
hạnh
phúc rộng thênh thênh' (Hồ Chí Minh). Mấy ai (ở miền Bắc) đã dám không
tin
như thế? Vũ đã nghẹn ngào về một 'Việt Nam khốn khổ'. Phải chăng, cái
gọi
là 'văn học phản kháng', 'văn học cởi trói' sau này đã cắm rễ từ những
tác
phẩm chỉ được ấn hành trong trí nhớ của bạn bè như thơ Vũ? Và như thế,
sẽ
chẳng phải quá lời nếu nói rằng Vũ đã đóng góp nhiều nhất, sớm nhất cho
văn
học phản kháng - phần thơ. (Văn học phản kháng được biết chủ yếu qua
văn
xuôi. Xin xem lại 'Mây trắng của đời tôi' và 'Bầy ong trong đêm sâu'
(Lưu
Quang Vũ) trong so sánh với (ít nhất) giải thơ báo Văn nghệ năm 1972.)
----------------
Thơ
là người. Bằng nhân cách thơ của mình - chỉ ở riêng một 'Việt Nam ơi',
Vũ xứng đáng có mặt trong đội ngũ hiếm hoi của những người hát rong của
nhân dân, trên đất nước đàn bầu.
1995
Lê
Minh Hà
Chú thích:
Việt Nam ơi .
Những áo quần rách rưới
Những hàng cây đắm mình vào bóng
tối
Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu
Những trẻ ngồi quanh mâm gỗ
Lèo tèo mì luộc canh rau
Mấy mươi năm vẫn mái tranh này
Dòng sông đen nước cạn
Tiếng loa đầu dốc lạnh
Tin chiến trận miền xa
Những người đi chưa về
Những qủa bom những hầm hào sụt lở
Những tên tướng những lời hăm dọa
Người ta định làm gì Người nữa
Việt Nam ơi?
Mấy mươi năm đã mấy lớp người
Chia lìa gục ngã
Đã tận cùng nỗi khổ
Người ta còn muốn gì Người nữa
Việt Nam ơi?
Người đau thương, tôi gắng gượng
mỉm
cười
Gắng tin tưởng, nhưng lòng tôi có
hạn
Chiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào
muốn khóc
Xin Người tha thứ, Việt Nam ơi
Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi
rách nát
Xin Người đừng trách giận, Việt
Nam ơi.
Không vì tôi đau khổ rã rời
Mà Người ghét bỏ?
Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạ
Xin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam
ơi
Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ
có một Người
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của Người?
Đến bao giờ ngày vui
Như chim về bên cửa?
Đến bao giờ Người mới được nghỉ
ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ
nhỏ?
Đến bao giờ đến bao giờ nữa
Việt Nam ơi?
(Lưu Quang Vũ - Bầy Ong Trong Đêm
Sâu)