Đỗ Lai Thuý
Quang Dũng-Mây trắng xứ Ðoài
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Thôi Hiệu
Quang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ
Ðoài
mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là
xứ
sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do
thổ
ngơi xứ Ðoài, phần kia do văn học lãng mạn.
Sơn Tây là vùng đồi đất đá ong khô hạn, không hơi nước bốc lên, trời
cao
xanh và mây trắng. Sơn Tây là vùng trước núi, nơi người Việt cổ làm
nương
rẫy và đặt bàn chân đầu tiên khi bước xuống đồng bằng. Từ châu thổ họ
đi
tứ xứ, nhưng luôn nhớ về mảnh đất gốc, luôn thả hồn theo những đám mây
trắng
trôi về đậu đỉnh Ba Vì. Con cháu họ, những Tản Ðà, Quang Dũng, phải
chăng
đã kế thừa ở họ dòng máu giang hồ và sự hoài niệm quê hương?
Chàng thanh niên Bùi Ðình Diệm hoa niên cùng với văn học Lãng mạn.
Tiếng
nói cá nhân cất lên từ cái bọc trăm trứng. Ông mê nhân vật Dũng của
Nhất
Linh và kẻ giang hồ "Rũ áo phong sương trên gác trọ" của Thế Lữ. Phải
chăng
bút danh Quang Dũng bắt nguồn từ đó? Có điều dòng máu giang hồ truyền
kiếp
kia nay nhờ văn chương lãng mạn mà có dung mạo cá nhân.
Quang Dũng là một kẻ lãng mạn, lãng mạn đến chót mùa. Các nhân vật lãng
mạn
xưa xê dịch vì xê dịch bởi huyết quản sục sôi máu giang hồ. Họ cần tìm
những
không gian mới để thay đổi phong cảnh tâm hồn mình. Kháng chiến chống
Pháp
đã tạo cho Quang Dũng những chuyến đi, hơn nữa để đền nợ núi sông. Ông
hăm
hở tham gia vào trung đoàn Tây Tiến.
Bộ đội Tây Tiến giao nhiệm vụ vượt Tây Bắc sang Lào để chia lửa chiến
trường.
Một cuộc hành quân chiến đấu gian khổ. Một con đường máu. Tây Tiến được
Quang
Dũng viết khi đơn vị đã xong nhiệm vụ trở về. Tây Tiến với tính cách là
nhan
đề một bài thơ còn dôi thêm một nghĩa nữa. Ðó là một chuyến đi về phía
Tây,
phía núi, phía mặt trời lặn, phía, theo quan niệm dân gian, của những
người
chết. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay nghĩa địa làng, những làng ma
đều
ở phía tây. Và người chết đều được chôn chân về hướng núi. Tây Tiến,
như
vậy, là từ ( chìa khóa của bài thơ, bó lá dứa gai treo trước cổng những
ngôi
nhà tang tóc, điềm báo về những cái chết.
– Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời!
– Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Cái chết ở đây được nói một cách giảm nhẹ. Nếu dân gian tránh gọi trực
diện
cái chết và thay vào đó bằng các uyển ngữ, thì Quang Dũng nhìn nó qua
lăng
kính của ký ức: Tây Tiến là một thiên hồi tưởng. Hồi tưởng tức là có
khoảng
cách:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Chữ xa trong câu thơ đầu là khoảng cách không thời gian, còn chữ nhớ
chơi
vơi trong câu thơ sau là khoảng cách tâm lý. Quả thực, sự gian khổ,
chết
chóc của con đường Tây Tiến ở đây, mặc dù đã được quay cận cảnh: dốc
thăm
thẳm, dốc khúc khuỷu, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, súng ngủi
trời,
gục lên súng mũ, thác gầm thét, cọp trêu người... Nhưng sự đặc tả đó
lập
tức bị xóa mờ bởi ống kính đã được lùi ra xa. Các chi tiết hiện thực
được
trùm phủ bởi các chi tiết lãng mạn: hoa về, đêm hơi, chiều sương, sương
lấp,
mưa xa khơi, cơm lên khói, thơm nếp xôi, hoa đong đưa... Nhờ được nhìn
bằng
những khoảng cách nghệ thuật như vậy, nên sự tác động của gian khổ,
chết
chóc với tính cách là một đối tượng thơ không chỉ dừng lại ở vùng cảm,
nhất
là ở bản năng, mà đã lên tới vùng thức.
Hơn nữa, thực tế gian khổ mà hào hứng của những năm đầu kháng chiến
cũng
đã được Quang Dũng nói đến trong bài thơ. Ðó là những tối liên hoan lửa
trại
dọc đường hành quân, điệu múa của người thiếu nữ dân tộc, cô gái "Mai
Châu
mùa em", dáng người đàn bà chèo thuyền độc mộc trên sông:
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Con người lãng mạn Quang Dũng dù trong hiện thực khắc nghiệt đến đâu
cũng
tìm ra những yếu tố để mơ mộng. Không phải là sự mơ mộng dối lừa, mơ
mộng
để quên thực tế, mà là sự mơ mộng bốc lên từ sự lạc quan, từ chất
người.
Ðó là loại người, như Pautovski nói, bao giờ cũng nhìn đường đi bằng cả
hai
con mắt: một con để thấy vũng nước, còn con kia để thấy những vì sao
long
lanh đáy nước.
Tây Tiến được viết theo thể hành, một thể thơ cổ phong Trung Hoa đã đạt
đến
toàn bích thời Ðường. Thơ Mới cũng đã có thi nhân sử dụng thể này rất
thành
công: Tống biệt hành của Thâm Tâm. Câu thơ bảy chữ (số lẻ) vững chãi và
vần
trắc mạnh mẽ đã lột tả được cái gian nan hùng tráng của hành trình Tây
Tiến.
Những từ Hán Việt như đoàn binh, biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc
hành...
kéo dài độ ngân vang đưa người đọc trở về với cái không khí những bài
thơ
biên tái của Ðỗ Phủ, Cao Thích, Sầm Tham. Nhờ sự liên văn bản
(intertextualité)
này, một lần nữa, người đọc bài thơ lại được lùi khỏi đối tượng thơ một
độ
lùi cần thiết bằng cả một khoảng cách văn hóa.
Như vậy, các khoảng cách không gian và thời gian, khoảng cách tâm lý,
nghệ
thuật và văn hóa đã khiến bài thơ không sa vào cảnh tượng. Không như
Baudelaire
miêu tả cái chết của một con chó mà đếm đến từng con giòi. Cảnh tượng
sẽ
chỉ tác động vào những cảm xúc bản năng của con người như sự sợ hãi,
kinh
hoàng, ghê tởm... Thơ cần phải vượt qua cảnh tượng để đến với kinh
nghiệm.
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là kinh nghiệm về gian khổ, về chiến
tranh,
về cái chết. Kinh nghiệm, nhờ tính gián cách với đối tượng miêu tả của
nó,
có tác dụng lọc trong, có khả năng cải biến những cảm xúc sinh học
thành
những cảm xúc thẩm mỹ.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Ðêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Ðoạn đường vào cửa ngõ Tây Bắc trong bài thơ là một bức tranh vẽ bằng
mực
Tàu của một họa sĩ bậc thầy. Các họa tiết vừa đậm nhạt vừa cụ thể, vừa
ẩn
vừa hiện. Có chỗ được sương khói (sương lấp, đêm hơi) xóa mờ đi, có chỗ
được
miêu tả cụ thể, chi tiết, được nhấn mạnh bằng sự lặp lại có tiến triển
để
mô phỏng sự leo dốc nặng nhọc (Dốc lên thăm thẳm dốc khúc khuỷu, Ngàn
thước
lên cao ngàn thước xuống). Hình ảnh súng ngủi trời cũng vừa thực vừa
ảo,
vừa hiện thực vừa lãng mạn đã đưa độ căng cảm xúc của bài thơ lên đến
đỉnh
điểm để rồi òa vỡ bằng một câu thơ toàn vần bằng (Nhà ai Pha Luông mưa
xa
khơi). Ai đã từng lên Tây Bắc thì có thể hình dung được đoạn con đường
mà
trung đoàn Tây Tiến vừa vượt qua là đỉnh dốc Thung Khe trước tiến vào
thung
lũng Mai Châu. Nhưng các điệp từ ở hai câu cuối (chiều chiều, đêm đêm)
lại
lập tức vĩnh cửu hóa, phổ quát hóa một cuộc hành quân cụ thể để đưa
đoạn
thơ gia nhập vào những kiệt tác Hành lộ nan, Thục đạo nan...
Cuối cùng, thể hành, một thể thơ cổ phong Trung Hoa đạt đến toàn bích
đời
Ðường, được Quang Dũng sử dụng ở đây rất phù hợp. Câu thơ bảy chữ chắc
khỏe
và vần trắc mạnh mẽ lột được cái gian nan của hành trình Tây Tiến.
Người
đọc như được sống lại cái không khí cổ xưa của những vần thơ biên tái
của
Sầm Tham, Cao Thích, Ðỗ Phủ... Nhờ sự liên văn bản này (interxtualité),
một
lần nữa, người đọc Tây Tiến lại được lùi khỏi đối tượng thơ một độ lùi
cần
thiết bằng một khoảng cách văn hóa.
Như vậy, nhờ có các khoảng cách không gian và thời gian, khoảng cách
tâm
lý, nghệ thuật và văn hóa, bài thơ đã không đi vào cảnh tượng. Không
nhưa
Beandelaire miêu tả cái chết của một con chó mà đếm đến từng con giòi.
Cảnh
tượng sẽ chỉ tác động vào những cảm xúc bản năng của con người như sự
sợ
hãi, kinh hoàng, ghê tởm... Thơ cần phải vượt qua cảnh tượng để đến với
kinh
nghiệm. Tây Tiến là kinh nghiệm về gian khổ, về chiến tranh, về chết
chóc.
Kinh nghiệm, nhờ tính gián cách với đối tượng miêu tả của nó, có tác
dụng
lọc trong, có khả năng biến những cảm xúc sinh học Thành những cảm xúc
thẩm
mỹ.
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Ðêm đêma Mường Hịch cọp trêu người
Tuy nhiên, Tây Tiến không chỉ là kinh nghiệm về gian khổ, về cái chết,
mà
quan trọng hơn còn là kinh nghiệm về sự vượt qua gian khổ, vượt qua cái
chết,
quyết tâm đi đến mục đích cuối cùng. Bài thơ bày ra trước mắt người đọc
tấm
bản đồ Tây Bắc. Một vùng núi non trùng điệp càng hướng lên cao thì đám
màu
càng đậm. Ðó là màu xanh của rừng, màu xám của đá núi. Ðoàn quân Tây
Tiến
"da xanh màu lá" chậm chạp xuyên rừng vượt núi chiến thắng sốt rét tiến
lên.
Bên cạnh đó là dòng sông Mã dữ dội đổ dồn về xuôi. Những ký hiệu ( con
chữ
trên bản đồ ( bài thơ chuyển động theo hai hướng trái ngược nhau tạo ra
sức
căng của tác phẩm. Trong ý nghĩa đó, dòng sông Mã là một biểu tượng. Nó
chảy
dọc bài thơ, qua cả ba đoạn, như một sức mạnh bản năng, một xung lực vô
thức,
níu kéo, làm càn nhụt ý chí Tây Tiến . Có lúc nó rất xa xôi, có lúc nó
lại
rất gần:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Nó là hồn lau (linh hồn của cây lau hay linh hồn của người chết vì cây
lau
hay mọc trên những nấm mồ hoang) thấp thoáng dọc đường? Hay là cô gái
chèo
độc mộc đang trôi theo dòng nước lũ? Chữ dáng, bóng dáng khiến con
người
đó trở thành ẩn hiện, sự thực làm người đọc liên tưởng đến nữ quái chài
mồi
của Homère hiện lên để ngăn cản bước chân những chành Ulysse. Những
bông
hoa biết đong đưa (chứ không phải đung đưa) trên dòng nước xiết càng
làm
tăng thêm cái cảm giác huyền hoặc đó. Dòng sông Mã bản năng muốn kéo
con
người về xuôi, xuống thấp, còn con người thì muốn đi ngược, lên cao. Bộ
đội
Tây Tiến cứ lầm lũi đi bất chấp gian khổ (không mọc tóc, da xanh màu
lá),
mạnh như cọp (dữ oai hùm) nhằm phía biên cương tiến tới (Mắt trừng gửi
mộng
qua biên giới), để lại sau lưng tiếng gầm thét bất lực của dòng sông
đang
độc hành về xuôi...
Cuộc tranh chấp giữa thiên nhiên và con người, giữa bản năng và ý chí
cuối
cùng đã mang lại phần thắng cho con người. Những anh bộ đội Tây Tiến đã
khẳng
định:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Ðường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Sau Tây Tiến, Quang Dũng còn nhiều những chuyến đi nữa . Nhưng, con
người
giang hồ ấy càng đi xa, càng đi nhiều thì càng nhớ nhiều, nhớ da diết
quê
hương. Như con thuyền phiêu bồng của Ðỗ Phủ luôn bị buộc chặt bởi mối
tình
nhà. Ðất đai, sông núi xứ Ðoài đã trở thành những niềm ám ảnh thơ Quang
Dũng.
Sơn Tây là một vùng bán sơn địa, mảnh đất gốc của người Việt cỏ. Sơn
Tây
có Ba Vì là ngọn núi thiêng của cả nước, có thần Tản Viên đứng đầu tứ
bất
tử của Ðạo giáo. Có Sài sơn với Từ Ðạo Hạnh là một trong những nơi ghi
dấu
tích đầu tiên của Phật giáo. Và cùng núi đá vôi Quốc oai đẹp như một Hạ
Long
trên biển lúa. Có sông Ðà dữ dội và sông Ðáy hiền hòa...
Trong cõi nhớ của Quang Dũng, Ba Vì luôn xuất hiện. Nhưng núi không
hiện
ra như một cảnh tượng hùng vĩ trong thơ Huy Cận.
Núi Tản con gà cổ dại
Khổng lồ mèo đỏ thắp bình minh
Bởi lẽ, cảnh tượng là do con mắt của người ngoài nhìn vào. Còn Quang
Dũng
thì sống với núi từ nhỏ. Khung trời xứ Ðoài, không gian xứ Ðoài luôn
tồn
tại một Ba Vì như một yếu tố không thể thiếu vắng
Ba Vì tảng trán xanh
Thức với mây Ðoài trắng lắm
Khi đi xa, Quang Dũng không nhớ núi mà chỉ nhớ bóng núi
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Bóng ở đây có thể là bóng (dáng) Ba vì trên nền trời mà núi đã tự khắc
vào
đó, có thể là mỗi khi xế tà, núi Ba Vì đổ bóng dài từ Bất Bạt chaỵ
xuống
Ðan Phượng quê nhà thơ. Nằm trong khoảnh bóng ấy (như trong bóng mây),
mọi
vật thẫm lại và trở nên xanh. Và cả thời gian cũng trở nên xanh. Ðang ở
những
không ( thời gian khác, Quang Dũng nhớ tới những chiều xanh, sự gặp gỡ
kỳ
diệu của không gian và thời gian qua bóng núi Ba Vì.
Thơ Quang Dũng là kinh nghiệm về sự thiếu vắng của cái không thể thiếu
vắng.
Cùng với núi là mây, Tôi nhớ xứ Ðoài mây trắng lắm. Cũng có thể xứ Ðoài
mây
trắng thật. Mây với Quang Dũng tự do, là lãng du, là lang thang (Mây ở
đầu
ô, mây lang thang); trắng là màu của vĩnh cửu. Mây trắng là sự tự do
vĩnh
cửu, là cõi tự do vĩnh cửu: Ngàn năma mây trắng bây giờ còn bay. Thế Lữ
ngày
xưa giữ thái độ không nhập thế: Tôi bước đi bên cạnh cuộc đời, Trăm năm
theo
dõi đám mây trôi. Quang Dũng ngày nay nhập cuộc, lang thang khắp cuộc
kháng
chiến cùng với những đám mây để nhớ về một cõi mây trắng: xứ Ðoài.
Tản Ðà lấy sông núi làm bút danh, một phần nhà ông ở dưới chân núi Tản
bên
dòng sông Ðà, phần khác Ðà giang hợp với tính cách của ông. Quang Dũng
yêu
dòng sông Ðáy cũng một phần nhà ông nằm bên dòng Ðáy, phần khác nó hợp
với
tính cách của ông. Sông Ðà là hợp lưu của sông Hồng. Mùa lũ nó dồn nước
của
cả vùng Tây Bắc vào sông Hồng. Sông Ðáy là phân lưu của sông Hồng, nó
làm
dịu bớt sự dữ dội của sông Hồng. Quanh năm con Ðáy chảy hiền hòa giữa
đôi
bờ xanh tốt những bãi mía, vườn dâu, rặng nhãn.
– Sông Ðáy chậm nguồn qua phủ Quốc
– Mãi mãi xanh tươi nguồn Ðáy chậm
Thi nhân đã thả sự mộng mơ của tâm hồn mình vào dòng sông chảy chậm.
Bất
Bạt với núi Tản sông Ðà là phần rừng núi của Sơn Tây; Quốc Oai (trước
đây
bao gồm cả Ðan Phượng quê Quang Dũng) với núi thày sông Ðáy là phần
đồng
bằng của nó. Hai miền đất, hai tính cách được hợp lại ở Quốc Oai ( một
Sơn
Tây bán sơn địa thu nhỏ. Bởi vậy, không lạ gì khi Quang Dũng tha thiết
với
mảnh đất Quốc Oai:
Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Ðáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều khuya khuắt thổi đêm trăng
Bương, Cấn là những làng đồi, những làng đất đá ong. Ðây là những làng
gợi
nên không gian sinh hoạt của người Việt cổ, nửa nương rẫy, nửa ruộng
lúc
nước. Vườn vẫn là kiểu vườn rừng. Làng rất nhiều cây cổ thụ. Những con
đường
đá ong đỏ au lượn quanh làng rồi mất hút trong tán lá xanh. Ðặc biệt
trong
làng có những giếng đá ong. Giếng không phải xây hoặc kè đá, mà chỉ
việc
đào xuống. Gặp không khí, đá ong tự rắn lại tạo nên những thành giếng
rất
vững chắc không bị sụt lở như thành giếng đất. Ðá ong còn là một bộ lọc
rất
tốt, nên nước giếng đá ong rất trong lành và thơm mát. Giếng không chỉ
là
con mắt của đất, mà còn là con mắt của làng. Bởi lẽ, nhiều sinh hoạt
đời
thường của làng diễn ra quanh giếng. Tâm hồn người dân đá ong, dân Sơn
Tây
cũng trong và mát, đơn giản và thẳm sâu như giếng đá ong. Quang Dũng đã
nhiều
lần vì mắt người Sơn Tây như mắt giếng:
Mắt em như nước giếng thôn làng.
Nhưng cô gái Sơn Tây nói riêng và người Sơn Tây nói chung chỉ giữ được
đôi
mắt ấy, trong sáng và thơ ngây, khi còn sống cộng đồng, còn sống bằng
đời
sống cộng đồng, dù là lam lũ, vất vả (cô gái Sơn Tây, Yếm thủng tày
dần,
Răng đen hạt nhót, Má hồng trôn niêu... ( Ca Dao Cổ). Nhưng khi họ bật
khỏi
mảnh đất quê hương, thì đôi mắt đã thay đổi
Ðôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng khôn khuây
Mà người Sơn Tây thì có nhiều lý do để mà lưu lạc lắm! Ðất nghèo khó
sống
nổi. Ðời sống bầy đàn không phát triển được, chiến tranh đến với mảnh
đất
này từ thời huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh; Núi cao sông hãy còn dài,
Năm
năm báo oán đời đời đánh ghen. Nhưng chỉ có bị bứt khỏi cuống nhau của
cộng
đồng, của đất gốc thì người Sơn Tây mới phát triển thành một cá nhân
được.
ý thức cá nhân và cuộc đời lữ thứ lại càng làm cho họ tha thiết với quê
hương.
Xa quê thì lại yêu quê hơn. Ðó tưởng như là một nghịch lý, nhưng hóa ra
lại
là một thuận lý. Bởi nếu ở quê họ chỉ là mình, còn khi xa quê thì họ
vừa
là mình lại vừa là kẻ khác. Và chỉ khi nào biết nhìn quê hương bằng con
mắt
của kẻ khác, kẻ xa (mất hoặc thiếu) quê hương thì đó là một tình yêu đã
được
thử thách.
Sự u ẩn mà Quang Dũng đọc thấy trong đôi mắt người Sơn Tây chiều lưu
lạc
ấy chứa đựng chứa đựnga cả thời gian lịch sử của mảnh đất và con người.
Ðó
là 1 con chữ khảo cổ học.
Thơ Quang Dũng, thoạt nhìn, chỉ là một sự nối dài của Thơ Mới. Vẫn
những
câu thơ năm chữ hoặc bảy chữ đều đặn, được xếp vào từng khổ bốn câu,
đều
giầu vần điệu, nhiều câu thơ giàu chất thơ, đẹp, thậm chí đèm đẹp...
Nghĩa
là thơ ông vẫn ánh lên trong ánh sáng của mỹ học của Thơ Mới. Bởi vậy,
thơ
Quang Dũng, nhất là Tây Tiến và Mắt người Sơn Tây, được hâm mộ rộng rãi
trong
những ngày đầu kháng chiến. Nhưng sự cảm thụ cuộc sống có tính chất cá
nhân,
riêng tư, máu giang hồ lưu lạc, mặc dù có khi đã mượn lời cổ phong,
cũng
đã dần dần không phù hợp với thời cuộc.
Tuy nhiên, đọc sâu Quang Dũng, người ta thấy thơ ông có những chuyển
động.
Hiện thựca của Cách mạng tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến đã tác
động
vào mỹ cảm Quang Dũng. Ðiều này tạo ra ở thơ ông cái nhìn khảo cổ học
tâm
hồn. Cái nhìn xuyên thời gian này chỉ có được khi hồn người và hồn đất
(nước)
rung lên trong những cơn địa chấn, mặt đất nứt toác để dung nham vô
thức
từ đáy thẳm phun trào lên. Nhờ thế, thơ Quang Dũng không chỉ dừng lại.
ở
Thơ Mới mà đã bấưt được một nhịp cầu sang bờ bên kia của thơ hiện đại
Tây Tiến (1948) và Mắt người Sơn Tây (1949) là hai đỉnh Ba Vì trong thơ
Quang
Dũng. Những bài thơ khác, trừ một vài đoạn trong Những làng đi qua,
nhất
là thơ viết sau 1949, sau Hội nghị Tranh luận Văn nghệ Việt Bắc, thì
đều
rất nhạt nhẽo, tầm thường bởi đó là thể xác của những câu Thơ Mới một
trăm
phần trăm nhưng phần hồn tiếng nói cá nhân của nó thì đã thoát dương đi
mất.
Tuy nhiên, chỉ với Tây Tiến, Quang Dũng đã xác lập được vị thế Sơn thần
của
mình. Bởi lẽ, Tây Tiến là một trường hợp thơ chỉ một bước đã đi vào cổ
điển.
Nó vượt qua sự lưỡng phẩn cũ / mới, truyền thống / hiện đại để đạt đến
sự
nhất nguyên của cái đẹp, một giá trị nằm ngoài thời gian.
Bên cạnh nhân vật được cá tính hóa, thì các tác phẩm văn học hiện đại
vẫn
bảo dảm tính quần chúng, tính nhân dân và đại diện cho con người. Ðó là
cái
hay, cái mới hơn trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Phương thức phản ánh trước hết là một quá trình vận hành liên tục. Và
phản
ánh chính thực tại cuộc sống và tìm kiếm điều tốt đẹp cho tương lai.
Phản
ánh trong văn học chính là nghệ thuật hóa cuộc sống chân thực, tìm ra
những
giá trị chân xác của cuộc sống con người, xã hội. Ðem lại hạnh phúc,
nhận
thức, thông tin và giáo dục con người.
[Trích Talawas]