Đỗ Lai Thuý

Quang Dũng-Mây trắng xứ Ðoài



Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Thôi Hiệu

Quang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Ðoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Ðoài, phần kia do văn học lãng mạn.

Sơn Tây là vùng đồi đất đá ong khô hạn, không hơi nước bốc lên, trời cao xanh và mây trắng. Sơn Tây là vùng trước núi, nơi người Việt cổ làm nương rẫy và đặt bàn chân đầu tiên khi bước xuống đồng bằng. Từ châu thổ họ đi tứ xứ, nhưng luôn nhớ về mảnh đất gốc, luôn thả hồn theo những đám mây trắng trôi về đậu đỉnh Ba Vì. Con cháu họ, những Tản Ðà, Quang Dũng, phải chăng đã kế thừa ở họ dòng máu giang hồ và sự hoài niệm quê hương?

Chàng thanh niên Bùi Ðình Diệm hoa niên cùng với văn học Lãng mạn. Tiếng nói cá nhân cất lên từ cái bọc trăm trứng. Ông mê nhân vật Dũng của Nhất Linh và kẻ giang hồ "Rũ áo phong sương trên gác trọ" của Thế Lữ. Phải chăng bút danh Quang Dũng bắt nguồn từ đó? Có điều dòng máu giang hồ truyền kiếp kia nay nhờ văn chương lãng mạn mà có dung mạo cá nhân.

Quang Dũng là một kẻ lãng mạn, lãng mạn đến chót mùa. Các nhân vật lãng mạn xưa xê dịch vì xê dịch bởi huyết quản sục sôi máu giang hồ. Họ cần tìm những không gian mới để thay đổi phong cảnh tâm hồn mình. Kháng chiến chống Pháp đã tạo cho Quang Dũng những chuyến đi, hơn nữa để đền nợ núi sông. Ông hăm hở tham gia vào trung đoàn Tây Tiến.

Bộ đội Tây Tiến giao nhiệm vụ vượt Tây Bắc sang Lào để chia lửa chiến trường. Một cuộc hành quân chiến đấu gian khổ. Một con đường máu. Tây Tiến được Quang Dũng viết khi đơn vị đã xong nhiệm vụ trở về. Tây Tiến với tính cách là nhan đề một bài thơ còn dôi thêm một nghĩa nữa. Ðó là một chuyến đi về phía Tây, phía núi, phía mặt trời lặn, phía, theo quan niệm dân gian, của những người chết. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay nghĩa địa làng, những làng ma đều ở phía tây. Và người chết đều được chôn chân về hướng núi. Tây Tiến, như vậy, là từ ( chìa khóa của bài thơ, bó lá dứa gai treo trước cổng những ngôi nhà tang tóc, điềm báo về những cái chết.

– Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời!
– Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Cái chết ở đây được nói một cách giảm nhẹ. Nếu dân gian tránh gọi trực diện cái chết và thay vào đó bằng các uyển ngữ, thì Quang Dũng nhìn nó qua lăng kính của ký ức: Tây Tiến là một thiên hồi tưởng. Hồi tưởng tức là có khoảng cách:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Chữ xa trong câu thơ đầu là khoảng cách không thời gian, còn chữ nhớ chơi vơi trong câu thơ sau là khoảng cách tâm lý. Quả thực, sự gian khổ, chết chóc của con đường Tây Tiến ở đây, mặc dù đã được quay cận cảnh: dốc thăm thẳm, dốc khúc khuỷu, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, súng ngủi trời, gục lên súng mũ, thác gầm thét, cọp trêu người... Nhưng sự đặc tả đó lập tức bị xóa mờ bởi ống kính đã được lùi ra xa. Các chi tiết hiện thực được trùm phủ bởi các chi tiết lãng mạn: hoa về, đêm hơi, chiều sương, sương lấp, mưa xa khơi, cơm lên khói, thơm nếp xôi, hoa đong đưa... Nhờ được nhìn bằng những khoảng cách nghệ thuật như vậy, nên sự tác động của gian khổ, chết chóc với tính cách là một đối tượng thơ không chỉ dừng lại ở vùng cảm, nhất là ở bản năng, mà đã lên tới vùng thức.

Hơn nữa, thực tế gian khổ mà hào hứng của những năm đầu kháng chiến cũng đã được Quang Dũng nói đến trong bài thơ. Ðó là những tối liên hoan lửa trại dọc đường hành quân, điệu múa của người thiếu nữ dân tộc, cô gái "Mai Châu mùa em", dáng người đàn bà chèo thuyền độc mộc trên sông:

Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Con người lãng mạn Quang Dũng dù trong hiện thực khắc nghiệt đến đâu cũng tìm ra những yếu tố để mơ mộng. Không phải là sự mơ mộng dối lừa, mơ mộng để quên thực tế, mà là sự mơ mộng bốc lên từ sự lạc quan, từ chất người. Ðó là loại người, như Pautovski nói, bao giờ cũng nhìn đường đi bằng cả hai con mắt: một con để thấy vũng nước, còn con kia để thấy những vì sao long lanh đáy nước.

Tây Tiến được viết theo thể hành, một thể thơ cổ phong Trung Hoa đã đạt đến toàn bích thời Ðường. Thơ Mới cũng đã có thi nhân sử dụng thể này rất thành công: Tống biệt hành của Thâm Tâm. Câu thơ bảy chữ (số lẻ) vững chãi và vần trắc mạnh mẽ đã lột tả được cái gian nan hùng tráng của hành trình Tây Tiến. Những từ Hán Việt như đoàn binh, biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành... kéo dài độ ngân vang đưa người đọc trở về với cái không khí những bài thơ biên tái của Ðỗ Phủ, Cao Thích, Sầm Tham. Nhờ sự liên văn bản (intertextualité) này, một lần nữa, người đọc bài thơ lại được lùi khỏi đối tượng thơ một độ lùi cần thiết bằng cả một khoảng cách văn hóa.

Như vậy, các khoảng cách không gian và thời gian, khoảng cách tâm lý, nghệ thuật và văn hóa đã khiến bài thơ không sa vào cảnh tượng. Không như Baudelaire miêu tả cái chết của một con chó mà đếm đến từng con giòi. Cảnh tượng sẽ chỉ tác động vào những cảm xúc bản năng của con người như sự sợ hãi, kinh hoàng, ghê tởm... Thơ cần phải vượt qua cảnh tượng để đến với kinh nghiệm. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là kinh nghiệm về gian khổ, về chiến tranh, về cái chết. Kinh nghiệm, nhờ tính gián cách với đối tượng miêu tả của nó, có tác dụng lọc trong, có khả năng cải biến những cảm xúc sinh học thành những cảm xúc thẩm mỹ.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Ðêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Ðoạn đường vào cửa ngõ Tây Bắc trong bài thơ là một bức tranh vẽ bằng mực Tàu của một họa sĩ bậc thầy. Các họa tiết vừa đậm nhạt vừa cụ thể, vừa ẩn vừa hiện. Có chỗ được sương khói (sương lấp, đêm hơi) xóa mờ đi, có chỗ được miêu tả cụ thể, chi tiết, được nhấn mạnh bằng sự lặp lại có tiến triển để mô phỏng sự leo dốc nặng nhọc (Dốc lên thăm thẳm dốc khúc khuỷu, Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống). Hình ảnh súng ngủi trời cũng vừa thực vừa ảo, vừa hiện thực vừa lãng mạn đã đưa độ căng cảm xúc của bài thơ lên đến đỉnh điểm để rồi òa vỡ bằng một câu thơ toàn vần bằng (Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi). Ai đã từng lên Tây Bắc thì có thể hình dung được đoạn con đường mà trung đoàn Tây Tiến vừa vượt qua là đỉnh dốc Thung Khe trước tiến vào thung lũng Mai Châu. Nhưng các điệp từ ở hai câu cuối (chiều chiều, đêm đêm) lại lập tức vĩnh cửu hóa, phổ quát hóa một cuộc hành quân cụ thể để đưa đoạn thơ gia nhập vào những kiệt tác Hành lộ nan, Thục đạo nan...

Cuối cùng, thể hành, một thể thơ cổ phong Trung Hoa đạt đến toàn bích đời Ðường, được Quang Dũng sử dụng ở đây rất phù hợp. Câu thơ bảy chữ chắc khỏe và vần trắc mạnh mẽ lột được cái gian nan của hành trình Tây Tiến. Người đọc như được sống lại cái không khí cổ xưa của những vần thơ biên tái của Sầm Tham, Cao Thích, Ðỗ Phủ... Nhờ sự liên văn bản này (interxtualité), một lần nữa, người đọc Tây Tiến lại được lùi khỏi đối tượng thơ một độ lùi cần thiết bằng một khoảng cách văn hóa.

Như vậy, nhờ có các khoảng cách không gian và thời gian, khoảng cách tâm lý, nghệ thuật và văn hóa, bài thơ đã không đi vào cảnh tượng. Không nhưa Beandelaire miêu tả cái chết của một con chó mà đếm đến từng con giòi. Cảnh tượng sẽ chỉ tác động vào những cảm xúc bản năng của con người như sự sợ hãi, kinh hoàng, ghê tởm... Thơ cần phải vượt qua cảnh tượng để đến với kinh nghiệm. Tây Tiến là kinh nghiệm về gian khổ, về chiến tranh, về chết chóc. Kinh nghiệm, nhờ tính gián cách với đối tượng miêu tả của nó, có tác dụng lọc trong, có khả năng biến những cảm xúc sinh học Thành những cảm xúc thẩm mỹ.

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Ðêm đêma Mường Hịch cọp trêu người

Tuy nhiên, Tây Tiến không chỉ là kinh nghiệm về gian khổ, về cái chết, mà quan trọng hơn còn là kinh nghiệm về sự vượt qua gian khổ, vượt qua cái chết, quyết tâm đi đến mục đích cuối cùng. Bài thơ bày ra trước mắt người đọc tấm bản đồ Tây Bắc. Một vùng núi non trùng điệp càng hướng lên cao thì đám màu càng đậm. Ðó là màu xanh của rừng, màu xám của đá núi. Ðoàn quân Tây Tiến "da xanh màu lá" chậm chạp xuyên rừng vượt núi chiến thắng sốt rét tiến lên. Bên cạnh đó là dòng sông Mã dữ dội đổ dồn về xuôi. Những ký hiệu ( con chữ trên bản đồ ( bài thơ chuyển động theo hai hướng trái ngược nhau tạo ra sức căng của tác phẩm. Trong ý nghĩa đó, dòng sông Mã là một biểu tượng. Nó chảy dọc bài thơ, qua cả ba đoạn, như một sức mạnh bản năng, một xung lực vô thức, níu kéo, làm càn nhụt ý chí Tây Tiến . Có lúc nó rất xa xôi, có lúc nó lại rất gần:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Nó là hồn lau (linh hồn của cây lau hay linh hồn của người chết vì cây lau hay mọc trên những nấm mồ hoang) thấp thoáng dọc đường? Hay là cô gái chèo độc mộc đang trôi theo dòng nước lũ? Chữ dáng, bóng dáng khiến con người đó trở thành ẩn hiện, sự thực làm người đọc liên tưởng đến nữ quái chài mồi của Homère hiện lên để ngăn cản bước chân những chành Ulysse. Những bông hoa biết đong đưa (chứ không phải đung đưa) trên dòng nước xiết càng làm tăng thêm cái cảm giác huyền hoặc đó. Dòng sông Mã bản năng muốn kéo con người về xuôi, xuống thấp, còn con người thì muốn đi ngược, lên cao. Bộ đội Tây Tiến cứ lầm lũi đi bất chấp gian khổ (không mọc tóc, da xanh màu lá), mạnh như cọp (dữ oai hùm) nhằm phía biên cương tiến tới (Mắt trừng gửi mộng qua biên giới), để lại sau lưng tiếng gầm thét bất lực của dòng sông đang độc hành về xuôi...
Cuộc tranh chấp giữa thiên nhiên và con người, giữa bản năng và ý chí cuối cùng đã mang lại phần thắng cho con người. Những anh bộ đội Tây Tiến đã khẳng định:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Ðường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Sau Tây Tiến, Quang Dũng còn nhiều những chuyến đi nữa . Nhưng, con người giang hồ ấy càng đi xa, càng đi nhiều thì càng nhớ nhiều, nhớ da diết quê hương. Như con thuyền phiêu bồng của Ðỗ Phủ luôn bị buộc chặt bởi mối tình nhà. Ðất đai, sông núi xứ Ðoài đã trở thành những niềm ám ảnh thơ Quang Dũng.

Sơn Tây là một vùng bán sơn địa, mảnh đất gốc của người Việt cỏ. Sơn Tây có Ba Vì là ngọn núi thiêng của cả nước, có thần Tản Viên đứng đầu tứ bất tử của Ðạo giáo. Có Sài sơn với Từ Ðạo Hạnh là một trong những nơi ghi dấu tích đầu tiên của Phật giáo. Và cùng núi đá vôi Quốc oai đẹp như một Hạ Long trên biển lúa. Có sông Ðà dữ dội và sông Ðáy hiền hòa...

Trong cõi nhớ của Quang Dũng, Ba Vì luôn xuất hiện. Nhưng núi không hiện ra như một cảnh tượng hùng vĩ trong thơ Huy Cận.

Núi Tản con gà cổ dại
Khổng lồ mèo đỏ thắp bình minh

Bởi lẽ, cảnh tượng là do con mắt của người ngoài nhìn vào. Còn Quang Dũng thì sống với núi từ nhỏ. Khung trời xứ Ðoài, không gian xứ Ðoài luôn tồn tại một Ba Vì như một yếu tố không thể thiếu vắng

Ba Vì tảng trán xanh
Thức với mây Ðoài trắng lắm

Khi đi xa, Quang Dũng không nhớ núi mà chỉ nhớ bóng núi

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Bóng ở đây có thể là bóng (dáng) Ba vì trên nền trời mà núi đã tự khắc vào đó, có thể là mỗi khi xế tà, núi Ba Vì đổ bóng dài từ Bất Bạt chaỵ xuống Ðan Phượng quê nhà thơ. Nằm trong khoảnh bóng ấy (như trong bóng mây), mọi vật thẫm lại và trở nên xanh. Và cả thời gian cũng trở nên xanh. Ðang ở những không ( thời gian khác, Quang Dũng nhớ tới những chiều xanh, sự gặp gỡ kỳ diệu của không gian và thời gian qua bóng núi Ba Vì.

Thơ Quang Dũng là kinh nghiệm về sự thiếu vắng của cái không thể thiếu vắng.
Cùng với núi là mây, Tôi nhớ xứ Ðoài mây trắng lắm. Cũng có thể xứ Ðoài mây trắng thật. Mây với Quang Dũng tự do, là lãng du, là lang thang (Mây ở đầu ô, mây lang thang); trắng là màu của vĩnh cửu. Mây trắng là sự tự do vĩnh cửu, là cõi tự do vĩnh cửu: Ngàn năma mây trắng bây giờ còn bay. Thế Lữ ngày xưa giữ thái độ không nhập thế: Tôi bước đi bên cạnh cuộc đời, Trăm năm theo dõi đám mây trôi. Quang Dũng ngày nay nhập cuộc, lang thang khắp cuộc kháng chiến cùng với những đám mây để nhớ về một cõi mây trắng: xứ Ðoài.

Tản Ðà lấy sông núi làm bút danh, một phần nhà ông ở dưới chân núi Tản bên dòng sông Ðà, phần khác Ðà giang hợp với tính cách của ông. Quang Dũng yêu dòng sông Ðáy cũng một phần nhà ông nằm bên dòng Ðáy, phần khác nó hợp với tính cách của ông. Sông Ðà là hợp lưu của sông Hồng. Mùa lũ nó dồn nước của cả vùng Tây Bắc vào sông Hồng. Sông Ðáy là phân lưu của sông Hồng, nó làm dịu bớt sự dữ dội của sông Hồng. Quanh năm con Ðáy chảy hiền hòa giữa đôi bờ xanh tốt những bãi mía, vườn dâu, rặng nhãn.

– Sông Ðáy chậm nguồn qua phủ Quốc
– Mãi mãi xanh tươi nguồn Ðáy chậm

Thi nhân đã thả sự mộng mơ của tâm hồn mình vào dòng sông chảy chậm. Bất Bạt với núi Tản sông Ðà là phần rừng núi của Sơn Tây; Quốc Oai (trước đây bao gồm cả Ðan Phượng quê Quang Dũng) với núi thày sông Ðáy là phần đồng bằng của nó. Hai miền đất, hai tính cách được hợp lại ở Quốc Oai ( một Sơn Tây bán sơn địa thu nhỏ. Bởi vậy, không lạ gì khi Quang Dũng tha thiết với mảnh đất Quốc Oai:

Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Ðáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều khuya khuắt thổi đêm trăng

Bương, Cấn là những làng đồi, những làng đất đá ong. Ðây là những làng gợi nên không gian sinh hoạt của người Việt cổ, nửa nương rẫy, nửa ruộng lúc nước. Vườn vẫn là kiểu vườn rừng. Làng rất nhiều cây cổ thụ. Những con đường đá ong đỏ au lượn quanh làng rồi mất hút trong tán lá xanh. Ðặc biệt trong làng có những giếng đá ong. Giếng không phải xây hoặc kè đá, mà chỉ việc đào xuống. Gặp không khí, đá ong tự rắn lại tạo nên những thành giếng rất vững chắc không bị sụt lở như thành giếng đất. Ðá ong còn là một bộ lọc rất tốt, nên nước giếng đá ong rất trong lành và thơm mát. Giếng không chỉ là con mắt của đất, mà còn là con mắt của làng. Bởi lẽ, nhiều sinh hoạt đời thường của làng diễn ra quanh giếng. Tâm hồn người dân đá ong, dân Sơn Tây cũng trong và mát, đơn giản và thẳm sâu như giếng đá ong. Quang Dũng đã nhiều lần vì mắt người Sơn Tây như mắt giếng:

Mắt em như nước giếng thôn làng.

Nhưng cô gái Sơn Tây nói riêng và người Sơn Tây nói chung chỉ giữ được đôi mắt ấy, trong sáng và thơ ngây, khi còn sống cộng đồng, còn sống bằng đời sống cộng đồng, dù là lam lũ, vất vả (cô gái Sơn Tây, Yếm thủng tày dần, Răng đen hạt nhót, Má hồng trôn niêu... ( Ca Dao Cổ). Nhưng khi họ bật khỏi mảnh đất quê hương, thì đôi mắt đã thay đổi

Ðôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng khôn khuây

Mà người Sơn Tây thì có nhiều lý do để mà lưu lạc lắm! Ðất nghèo khó sống nổi. Ðời sống bầy đàn không phát triển được, chiến tranh đến với mảnh đất này từ thời huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh; Núi cao sông hãy còn dài, Năm năm báo oán đời đời đánh ghen. Nhưng chỉ có bị bứt khỏi cuống nhau của cộng đồng, của đất gốc thì người Sơn Tây mới phát triển thành một cá nhân được. ý thức cá nhân và cuộc đời lữ thứ lại càng làm cho họ tha thiết với quê hương. Xa quê thì lại yêu quê hơn. Ðó tưởng như là một nghịch lý, nhưng hóa ra lại là một thuận lý. Bởi nếu ở quê họ chỉ là mình, còn khi xa quê thì họ vừa là mình lại vừa là kẻ khác. Và chỉ khi nào biết nhìn quê hương bằng con mắt của kẻ khác, kẻ xa (mất hoặc thiếu) quê hương thì đó là một tình yêu đã được thử thách.
Sự u ẩn mà Quang Dũng đọc thấy trong đôi mắt người Sơn Tây chiều lưu lạc ấy chứa đựng chứa đựnga cả thời gian lịch sử của mảnh đất và con người. Ðó là 1 con chữ khảo cổ học.

Thơ Quang Dũng, thoạt nhìn, chỉ là một sự nối dài của Thơ Mới. Vẫn những câu thơ năm chữ hoặc bảy chữ đều đặn, được xếp vào từng khổ bốn câu, đều giầu vần điệu, nhiều câu thơ giàu chất thơ, đẹp, thậm chí đèm đẹp... Nghĩa là thơ ông vẫn ánh lên trong ánh sáng của mỹ học của Thơ Mới. Bởi vậy, thơ Quang Dũng, nhất là Tây Tiến và Mắt người Sơn Tây, được hâm mộ rộng rãi trong những ngày đầu kháng chiến. Nhưng sự cảm thụ cuộc sống có tính chất cá nhân, riêng tư, máu giang hồ lưu lạc, mặc dù có khi đã mượn lời cổ phong, cũng đã dần dần không phù hợp với thời cuộc.

Tuy nhiên, đọc sâu Quang Dũng, người ta thấy thơ ông có những chuyển động. Hiện thựca của Cách mạng tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến đã tác động vào mỹ cảm Quang Dũng. Ðiều này tạo ra ở thơ ông cái nhìn khảo cổ học tâm hồn. Cái nhìn xuyên thời gian này chỉ có được khi hồn người và hồn đất (nước) rung lên trong những cơn địa chấn, mặt đất nứt toác để dung nham vô thức từ đáy thẳm phun trào lên. Nhờ thế, thơ Quang Dũng không chỉ dừng lại. ở Thơ Mới mà đã bấưt được một nhịp cầu sang bờ bên kia của thơ hiện đại

Tây Tiến (1948) và Mắt người Sơn Tây (1949) là hai đỉnh Ba Vì trong thơ Quang Dũng. Những bài thơ khác, trừ một vài đoạn trong Những làng đi qua, nhất là thơ viết sau 1949, sau Hội nghị Tranh luận Văn nghệ Việt Bắc, thì đều rất nhạt nhẽo, tầm thường bởi đó là thể xác của những câu Thơ Mới một trăm phần trăm nhưng phần hồn tiếng nói cá nhân của nó thì đã thoát dương đi mất. Tuy nhiên, chỉ với Tây Tiến, Quang Dũng đã xác lập được vị thế Sơn thần của mình. Bởi lẽ, Tây Tiến là một trường hợp thơ chỉ một bước đã đi vào cổ điển. Nó vượt qua sự lưỡng phẩn cũ / mới, truyền thống / hiện đại để đạt đến sự nhất nguyên của cái đẹp, một giá trị nằm ngoài thời gian.

Bên cạnh nhân vật được cá tính hóa, thì các tác phẩm văn học hiện đại vẫn bảo dảm tính quần chúng, tính nhân dân và đại diện cho con người. Ðó là cái hay, cái mới hơn trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Phương thức phản ánh trước hết là một quá trình vận hành liên tục. Và phản ánh chính thực tại cuộc sống và tìm kiếm điều tốt đẹp cho tương lai. Phản ánh trong văn học chính là nghệ thuật hóa cuộc sống chân thực, tìm ra những giá trị chân xác của cuộc sống con người, xã hội. Ðem lại hạnh phúc, nhận thức, thông tin và giáo dục con người.

[Trích Talawas]