Nỗi buồn chiến tranh đến từ đâu
Hình như, xin lỗi
các bạn vì sự liên tưởng hơi có vẻ triết lý này, quá khứ là thứ nặng nề
nhất và cũng quý giá nhất mà con người phải mang theo trong suốt cuộc
đời. Người ta không thể trốn đi đâu để thoát khỏi những ám ảnh của dĩ
vãng, và nếu người ta có thể vứt bỏ quá khứ dễ dàng như vứt bỏ chiếc bị
đeo vai thì cuộc sống cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Con người không có
quá khứ cũng chẳng có tương lai, ngay cả hiện tại cũng không có nốt,
bởi vì anh ta không sống, anh ta chỉ tồn tại.
Vậy mà, chúng ta đang cố tình quên đi quá
khứ. Người ta không thích nhắc tới hai từ đó nữa: chiến tranh. Đã có
quá đủ chiến tranh cho người Việt Nam. Mỗi một ngày, người ta nhìn lớp
trẻ và tự nhủ: con sẽ lớn và con sẽ quên! Quên đi tất cả. Quên đi để
sống.
Nhưng ở một góc nào đó sâu thẳm trong tâm
hồn, quá khứ vẫn thức, vẫn sống động, quẫy đạp, day dứt...
Có lẽ chính vì thế mà đối với những người
như Bảo Ninh, mặc dù chiến tranh đã kết thúc được hai chục năm, thì
chiến trường câm lặng trong lòng những người lính vẫn chưa được một
ngày im tiếng súng, và ngày chiến thắng hãy còn xa lắm. Chiến tranh
không mang khuôn mặt phụ nữ, không mang khuôn mặt trẻ em, và nói chung
không có bộ mặt con người. Cho đến tận khi nào con người chưa biết sợ
bộ mặt khủng khiếp của chiến tranh thì ngày chiến thắng hãy còn xa lắm.
Và trên tất cả các sắc cờ, màu máu bao giờ cũng chỉ là một!
Bao nhiêu năm qua, người ta cố tô điểm để
chiến tranh có một bộ mặt dễ coi. Và tôi bỗng thấy sợ. Tôi sợ sẽ đến
ngày, các thế hệ khác của Việt Nam sẽ chỉ biết đến chiến tranh với
những hồi kèn chiến thắng, tiếng đại bác gầm thét, đồn thù sụp đổ, lớp
lớp chiến binh ào ạt xông lên. Và "đường ra trận mùa này đẹp lắm"... Họ
sẽ không bao giờ biết đến thảm họa mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu
suốt ba mươi năm, họ sẽ không bao giờ còn nhớ những mất mát, đau thương
mà mảnh đất này phải gánh chịu, mảnh đất mà số phận nghiệt ngã nào đã
biến thành "bãi chiến trường bốn nghìn năm gươm khua, ngựa hí quân
reo"? Và - như Satana đã nói - những kẻ cố tình quên đi quá khứ sẽ có
nguy cơ mắc lại sai lầm của quá khứ một lần nữa.
Nỗi buồn chiến tranh, bởi vậy, là khúc bi
ca tha thiết, sâu thẳm, mênh mang buồn về "một cuộc chiến tranh chưa hề
được biết tới", là hồi chuông sầu thảm nhắc nhở con người. Hãy nhớ,
đừng quên. Hãy "nhớ lại và suy nghĩ"! Tác phẩm là tiếng thở dài "nhớ
nhung, thương tiếc, cay đắng, ngậm ngùi", gợi lại nỗi đau của tất cả
những nàng vọng phu, những người lính "trấn thủ lưu đồn" miền biên viễn
xa xôi, của cả lời thơ nặng trĩu nỗi buồn ngàn năm:
"Túy ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"
(Lương châu từ - Vương Hàn)
Nỗi buồn chiến tranh không phải chỉ là một
tác phẩm viết về chiến tranh. Bản thân tiểu thuyết đã là một cuộc chiến
tranh, một thảm họa chiến tranh, một thế giới chiến tranh thu nhỏ nằm
trong bi kịch vĩ đại của Một Con Người.
Hình như, sáng tác của Bảo Ninh có cái gì
đó rất gần gũi với Vasin Bukov, Rasputin của Nga hay Oliver Stone và
Bradley của Mỹ. Số phận của họ cũng rất giống nhau. Cùng là những nhà
văn - trung úy trẻ măng, từ nhà trường bước thẳng vào chiến trường, và
"mỗi một người bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng". Trong tác
phẩm của mình, họ tái hiện lên một cuộc chiến tranh của riêng họ, nhiều
khi hoàn toàn khác với cuộc chiến tranh chung, hay chính xác hơn, hoàn
toàn khác với những cái mà người ta tưởng tượng về cuộc chiến tranh
chung. Nhưng như Bảo Ninh đã viết: "chúng tôi có chung một nỗi buồn,
nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và
vượt trên đau khổ". Và tự thủa xa xưa, giữa những con người đó với nhau
đã hình thành một quan hệ trìu mến. Họ cùng là những nô lệ của xúc cảm,
cùng xao xuyến vì một ngọn lửa chung, cùng nhỏ những giọt nước mắt đàn
ông mặn chát, hiếm hoi, những giọt lệ đắng cay u buồn và hân hoan khi
tận mắt chứng kiến tình người bị hủy hoại và hồi sinh trong chiến tranh.
Chính vì vậy, ngay cả lời hát rùng rợn
"chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc
lên nhấp nhô tựa sóng cồn", những thảm cảnh bên bờ sông Sa Thầy, ở Đắc
Tô cũng chỉ là lớp vỏ của cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh khủng
khiếp thật sự là cuộc chiến tranh trong lòng mỗi một người lính ở cả
hai phía chiến tuyến, cuộc chiến day dứt giữa cái Thiện và cái Ác, là
sự giằng xé khôn nguôi của lương tâm khi người ta buộc phải bóp cò để
tồn tại, khi trong tiếng rít của đạn tiểu liên con người phải quên đi
tiếng gọi của trái tim, nếu không sẽ "điên lên hoặc chết rũ vì khiếp
sợ".
"Người ta sinh ra không phải để làm lính",
đó chính là điều bi thảm nhất cho những thanh niên như Kiên. Nhưng
chiến tranh như một bệnh dịch khủng khiếp không thể trốn khỏi. Quay
cuồng trong chiếc máy xay thịt khủng khiếp, họ đã thấy thần Mars không
chỉ gieo rắc và gặt hái cái chết mà còn hủy hoại cả tâm hồn của những
người đang sống. Và sau ngần ấy năm trời, đôi tay ngập trong máu đỏ, họ
cay đắng hiểu rằng, họ "chả trở lại thành người được nữa đâu", rằng
chiến tranh không chỉ cướp đi tình yêu, tuổi thanh xuân, mà còn dày xéo
cả tâm hồn của họ.
Năm tháng chiến tranh và những trận đánh,
những hi sinh mất mát đã phủ lên trái tim của Kiên và những người như
anh trăm nghìn vết sẹo, nhưng vết thương của trái tim vẫn không thôi rỉ
máu. Từ đâu đó sâu thẳm trong tâm hồn, lương tâm bị chôn chặt nhưng vẫn
không ngừng quẫy đạp đòi ra.
Nhưng trên cái nền máu và xác chết dày đặc
trong các trang sách của Nỗi buồn chiến tranh vẫn vang lên khúc ai ca
ca ngợi sự bất diệt của tình người, "vĩnh viễn tình người". Tình người
hiện lên trong trang sách của Bảo Ninh không chỉ là những hi sinh vĩ
đại mà bình dị "chết cho đồng đội của mình sống", là những mối tình
tuyệt đẹp của Kiên và Phương, của những người lính trong tiểu đội trinh
sát với những cô gái giữ kho, mà trước tiên ở chính nỗi day dứt khôn
nguôi của lương tâm những người lính chiến trước cảnh bắn giết triền
miên trong chiến tranh, dù cho đôi khi họ phải trả giá cho những giây
phút do dự đó bằng chính sinh mạng của mình. Hàng vạn, hàng triệu người
đã ngã xuống cứ như chưa hề được sinh ra trên đời, cuộc sống giống như
một "candle in the wind" (Elton John), mà mỗi một người trong số họ đều
có thể là một nhà thơ, một nhạc sĩ, một nhà kiến trúc tài ba. Và cái
tiếng gọi thảm thiết của Phán giữa màn mưa "Ngụy ơi, Ngụy ơi, mày ở
đâu?" là một trong những trường đoạn hay nhất và cũng đau buồn nhất của
tác phẩm. Kiên đã hiểu được rằng, "chiến tranh không thiêu được gì cả",
nó có thể vò xé tâm hồn con người, nhưng không thể biến tất cả họ thành
những cỗ máy bắn giết không tim.
Nhưng như vậy thì nỗi buồn chiến tranh bắt
nguồn từ đâu? Mặc dù, đối với Kiên "đau buồn là một thể nguyên khối
suốt cuộc đời, liền một mạch từ thời thơ ấu, qua chiến tranh đến tự bây
giờ", nhưng có lẽ, nỗi buồn chiến tranh đã bắt đầu từ những linh cảm kỳ
lạ của Phương. Chính cô, với sự mẫn cảm đặc biệt mà tạo hóa đã phú cho
phụ nữ mới dự cảm được nỗi bất hạnh khủng khiếp lớn lao đang tới gần.
Trong khi những thanh niên như Kiên hăm hở đi vào cuộc chiến, "say mê
cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên" thì bằng nỗi "tiên cảm đau
xót" của mình, người phụ nữ trong cô hiểu rằng "đã mất hết", rằng "trên
thế giới này, từ nay, ngọn gió phũ phàng nào sẽ thổi". Không ai hiểu
được những suy nghĩ của cô, ngay cả Kiên, cũng như anh đã không hiểu
được chân lý giản đơn và cổ xưa như trái đất mà người dượng đã cố
truyền lại cho anh trước khi anh ra đi: "Nghĩa vụ của một con người
trước Trời đất là sống chứ không phải là hi sinh nó, là nếm trải sự đời
một cách ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ nó". Và cô, cũng như
dượng, như cha Kiên, mãi mãi là những con người "lạc thời và lạc loài".
Cô đơn vì không ai hiểu, họ lặng lẽ và đau xót nhìn những người thân
yêu của mình bị cuộc chiến tranh cuốn đi. Thấy trước được số phận mà
không thể thay đổi nó, đó là điều bi thảm của những tâm hồn nhạy cảm.
Chỉ có chiến tranh với những bất hạnh của
nó cũng như vì được hưởng "những giọt cuối cùng sót lại của tình người"
mới giúp Kiên hiểu được thực chất của những gì đang diễn ra quanh anh.
Chiến tranh, dù sao đi chăng nữa, cũng là khoảng thời gian khi mọi tình
cảm đều bị đẩy lên đến cực điểm. Chính vì đã quen với điều Phi lý vĩ
đại, các Ác vĩ đại, cũng như cái Thiện vĩ đại trong chiến tranh, người
lính không thể chịu đựng được "đời sống thường nhật tối tăm, bơ phờ, và
chán ngấy" khi phải chen vai thích cánh với "đời sống thị dân không ký
ức, không ước mơ" của thời hậu chiến. Trong khi đó, đêm đêm, "vô vàn
những ám ảnh... hùa theo nhau thức cả dậy... các tử thần xanh tái lỗ
chỗ vết đạn cúi xuống như muốn soi bóng vào giấc ngủ của anh". Cả quá
khứ và tương lai chèn ép anh ở cả hai phía đến nỗi hoàn toàn không có
chỗ cho hiện thực nữa. Sợ hãi trước viễn cảnh của một cuộc sống mà
"niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ đều cùn mòn, nhạt nhẽo và vô
ích", anh quay đầu chạy ngược trở lại với quá khứ. Và mặc dù anh tưởng
mình đang trôi theo dòng thời gian, thực ra Kiên chỉ còn sống bằng hồi
ức. Bởi vì tất cả đã quá muộn. Tâm hồn anh đã "mãi mãi ngưng bước lại ở
những ngày tháng ấy" còn cuộc sống hiện tại chỉ còn là những mộng mị,
ảo giác triền miên, cheo leo giữa hai vực thẳm không đáy của cái không
tồn tại, và "niềm nuối tiếc không nguôi cứ mãi hoài thổi trong đời".
Nỗi buồn của anh là nỗi buồn mênh mang trước thân phận nhỏ bé và hữu
hạn của con người trước cái vô tận của thế giới, trước sự bí ẩn của
cuộc sống và cái chết, nỗi buồn "tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất tri lai
giả", là nỗi day dứt trước sự bất lực của con người trước sự nhận thức
chân lý, và câu hỏi câm lặng không lời giải đáp: "vậy thì tại sao người
ta lại đánh nhau và chiến đấu với nhau, khiến cho máu đổ và nước mắt
tuôn trào, khiến cho người nào cũng cho mình là phải và kẻ khác là
trái? Vậy thì đâu là chân lý và ai là người có quyền thốt ra chân lý?"
(Aitmantov - Đoạn đầu đài).
Người ta bảo bản thân sự thật thường cay
đắng hơn những hồi ức được viết ra, nhưng nhân vật chính của Nỗi buồn
chiến tranh cứ lặp đi lặp lại một quyết tâm, một lời thề thôi thúc
"Phải viết, phải viết thôi". Chìm trong "nỗi cô đơn không phải của
riêng anh mà của cả đám đông", trở thành tù binh của quá khứ, Kiên chỉ
tìm thấy sự giải thoát trong sáng tạo. "Viết để quên đi, viết để nhớ
lại... như là tự tước vụn trái tim mình, như là tự lộn trái con người
mình ra". Viết là một cách để đương đầu với cái chết, bởi vì "anh sáng
tạo nghĩa là anh giết chết cái chết" (V. Hugo). Đối với anh, viết là
một cứu cánh, để chứng minh sự tồn tại của mình trên đời và cũng để hồi
sinh lại những con người, những xúc cảm đã chết một lần trong chiến
tranh, và ngày nay lại chết một lần nữa trong thời hậu chiến.
Xuyên suốt cuộc chiến tranh, đi qua cả
những ngày tháng hòa bình "tù đọng, ngột ngạt" là tình yêu kỳ diệu của
Phương và Kiên, tình yêu với biết bao dự cảm đau buồn và chua chát,
nhưng vẫn ngời lên thứ ánh sáng trong suốt, rực cháy cuồng nhiệt.
Phương, đối với Kiên, tượng trưng cho những gì trìu mến và thân thương
nhất trong cuộc đời, là người tình, là người mẹ chân chính chở che, đùm
bọc mà anh không bao giờ có, là người chị, người em gái... Là tất cả
thế giới kỳ diệu của phụ nữ, của tình yêu. Tất cả những Hạnh, Lan "đồi
mơ", Hiền... các mối tình thoảng qua hoặc chưa bao giờ kịp tới chỉ là
những biến dạng cuộc tình của anh với Phương, hay nói một cách khác,
chỉ là cách anh lần tìm theo những dư âm mối tình đã mất của mình.
Phương ra đi, có lẽ vì nàng hiểu rằng đó là cách tốt nhất để gìn giữ
trong nhau những kỷ niệm đã qua, tạo nên trong nhau những "vùng chưa hề
có", và như vậy, đối với anh, nàng vĩnh viễn là người tình lý tưởng,
"vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viễn trong trắng" là phần vô hình
của quá khứ và hi vọng cuối cùng níu kéo anh lại trên đời. Nàng sợ phần
vật chất thô kệch của hiện tại sẽ dày xéo tan nát những tâm tưởng kỳ
diệu của cả hai người. Phương ra đi, nhưng tình yêu thì vẫn còn đấy,
như ngọn gió "mãi hoài thổi trên đời".
Nỗi buồn chiến tranh là hòa âm tuyệt diệu
của những giọng nói đa thanh, nhưng trên hết, vẫn là tác phẩm bỏ ngỏ
của một nhà văn vô danh. Đúng vậy, bởi Kiên của thời hậu chiến chỉ còn
có cái tên, chỉ còn là "nhà văn của phường". Dường như, tất cả những gì
là Kiên của ngày xưa anh đã đánh rơi trong chiến tranh. Và cũng như
Proust "đi tìm thời gian đã mất", Kiên cũng đi tìm lại cuộc chiến tranh
đã mất của mình. Đối với anh, "muôn thủa chỉ có một cuộc chiến tranh
kia, một cuộc chiến tranh mãi mãi ám ảnh, mãi mãi đè nặng... và tất cả
những gì bị chiến tranh nghiền nát thì dư âm lại bền lâu, bền lâu hơn
tất cả những tàn tích chiến tranh và chinh chiến". Thực ra đó chỉ là cố
gắng tuyệt vọng nhằm "vật chất hoá" cái phi vật chất là quá khứ. Anh đã
vẽ nên cả một giấc mơ tràn đầy những đợt sóng của xúc cảm. Nhưng quá
khứ là thứ đâu còn nằm trong quyền lực của con người, ký ức lại vốn vô
hình, nên những hình bóng mờ nhạt hiện lên trên "cả một núi giấy", đối
với Kiên chỉ là những phiên bản mờ nhạt, đứt đoạn của ký ức. Cuộc tìm
kiếm những mảnh đời bị đánh mất của anh thất bại, cho nên cả cuốn tiểu
thuyết trở thành một nỗi buồn, "một nỗi buồn nguyên khối". Tác phẩm là
khối nguyên liệu quý mà bàn tay người nghệ sĩ bất lực không tạo nên
được một tác phẩm như ý muốn. Kiên biết anh có thể tạo nên một tác phẩm
vĩ đại từ khối nguyên liệu đó, "tác phẩm của cả đời" như chữ dùng của
Olga Becgon, nhưng cũng linh cảm được sự thất bại của mình. Nỗi buồn
chiến tranh, vì vậy, là một nỗi buồn day dứt, dang dở. Nhưng nó cuốn
hút người đọc chính trong cái dang dở, cái chưa định hình ấy, bởi tác
phẩm không chỉ bao gồm những gì mà nhà văn đã làm mà còn tiềm ẩn những
gì nhà văn định làm. Nhà văn không tái tạo hiện thực, anh đã gợi được
cái hồn, cái chất hư ảo kỳ bí của hiện thực, của nỗi buồn, như Rodin đã
tạo nên một Bandac - thiên thạch tuyệt vời (Tượng Bandac - Lê Đạt).
Tôi nghĩ, chính nỗi buồn ấy là cội nguồn,
là chiếc nôi của sự sáng tạo, nó cũng giống như thiên thần hộ mạng cho
những người cầm bút. Chính nỗi buồn gìn giữ sự trong sáng và giản dị
của xúc cảm, giúp con người lắng đọng những nghĩ suy để tìm ra chính
bản thân con người mình. Đó chính là những khoảng lặng im cần thiết cho
tâm hồn. Và như ai đó đã nói, chính bản thân nỗi buồn đó cũng có một vị
ngọt ngào, một ánh sáng riêng. Bởi vậy, Kiên có lẽ "vô cùng hạnh phúc
trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự lãng quên xói mòn, tâm
hồn anh mãi mãi được sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay
đã mai một hoặc biến tướng".
Và cũng không cần phải chờ đến ngòi bút của
nhà văn, tác phẩm tự nó được viết ra, dòng nối dòng, nó tự chọn lấy số
phận cho mình, tự định hình, thậm chí tự biến đổi cả về chất, "tạo nên
trong ký ức của Kiên những vùng không gian mới, những vùng quá khứ chưa
từng có". Những hồi ức của Kiên, cứ bồi lên từng lớp, từng lớp một
trong tâm hồn anh, cũng như loài trai hoài thai viên ngọc, để cuối cùng
tạo thành một "nỗi buồn nguyên khối". Nhà văn vô danh ra đi, thiên mệnh
bí ẩn của anh đã hoàn thành, nhưng cũng như chàng Trương Chi thủa nào
với "nỗi buồn mang xuống tuyền đài chưa tan", tác phẩm của anh vượt qua
ngọn lửa trong lò, vì "bản thảo không bao giờ cháy" (Bulgakov), để đến
với độc giả, và chúng ta bàng hoàng thấy tác phẩm hiện ra "trong một
cấu trúc hoàn toàn khác", hoàn hảo chặt chẽ trong cái động lung linh,
uyển chuyển, rất khó nắm bắt được của Nỗi buồn chiến tranh.
Nỗi buồn chiến tranh không phải không chịu
ảnh hưởng của một số tác phẩm khác, trong đó đặc biệt là các sáng tác
về chiến tranh của E. Remarque - Thời gian để sống và thời gian để yêu,
Bia mộ đen và nhất là Phía tây không có gì lạ. Có đôi lúc, Bảo Ninh
không tránh khỏi vay mượn ý tưởng, chẳng hạn như câu chuyện của Phán về
cuộc tao ngộ bi kịch giữa hai người lính, để cuối cùng anh lính giải
phóng cuống cuồng đi tìm người lính ngụy bị thương giữa màn mưa. Nhưng
có lẽ ảnh hưởng của văn học "dòng ý thức" ảnh hưởng sâu sắc nhất
tới sáng tác của Bảo Ninh. Người đọc vốn quen thuộc với những tác phẩm
nguyên vẹn, có đầu có cuối sẽ ngơ ngác khi lần đầu tiên lạc vào chốn
"mê lộ" của Nỗi buồn chiến tranh, chới với lọt thỏm trong những khe nứt
bất ngờ của mạch chuyện, của những khoảng thời gian đổi chiều liên tục,
bởi vì "trang nào cũng có thể là trang đầu, trang nào cũng có thể là
trang cuối". Những hình ảnh hư ảo, vô vàn những giấc mơ, ẩn ức kỳ lạ
khó hiểu cứ trải dài và trở đi trở lại trong tác phẩm khiến chúng ta
khó nắm bắt ngay được nội dung của nó. Nỗi buồn chiến tranh là cả một
thế giới động, và câu chữ chỉ tạo nên phần vật chất làm điểm dừng cho
những kênh xúc cảm, những phần phi vật chất mà tác phẩm đã gợi nên.
Những âm điệu du dương của những câu văn như những lời thơ cứ đưa dần
ta vào một giấc mộng buồn bã da diết, vào sâu trong tâm thức con người,
vào thế giới kỳ ảo của cõi vô thức, khi trong một phần ngàn giây kết
đọng cuộc sống của cả một đời người, còn trong cuộc sống của một con
người lại "hàm chứa cả một thế giới, một thời đại, một lịch sử". Và
đằng sau nó là bóng dáng mù mờ của cái chết, kỳ bí, tối thượng, sâu
thẳm như bóng đêm, ẩn chứa vô vàn những tiền kiếp, những bí ẩn phía sau
cuộc sống.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi Nỗi
buồn chiến tranh là một trong những tác phẩm hay viết về chiến tranh,
"cuốn tiểu thuyết tình yêu xót thương nhất" (Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê
bình văn học). Tác phẩm đã tạo nên những huyền thoại, trong khi bản
thân nó cũng là một huyền thoại. Lặng lẽ, nhưng không vì thế mà kém
thuyết phục, tác phẩm tự chọn cho mình một số phận, tạo thành một điểm
nhìn hoàn toàn mới về một miền quá khứ chưa hề xa xôi.
Hà Nội 30.4.1995
Nguyễn Thanh
Sơn