Tứ
Tuyệt Lý Bạch
Chương
1
Sự
xuất hiện nổi bật của thơ
tứ tuyệt Lý Bạch
1.1.
Tiến trình của thơ tứ tuyệt trước Lý Bạch:
1.1.1.
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều ý kiến tranh luận về định nghĩa "tứ
tuyệt" và sự hình thành của thể thơ này.
Một
số thuyết giải thích: tuyệt cú là "cú tuyệt mà ý bất tuyệt" (Dương Tái
đời
Nguyên - "Thi Pháp gia số"[142:181]) hoặc "tuyệt cú mỗi câu mỗi tuyệt"
(Dương
Thận đời Minh - "Đan duyên tổng lục"[142:181), rồi "hai câu một liên,
bốn
câu một tuyệt, bài thơ bốn câu tức là tuyệt cú" (Ngô Tề đời Thanh - "Vi
lư thi đàm"[142:181] ) ... ở Việt Nam, có ý kiến còn căn cứ vào tính
chất
tinh túy, hàm súc của thơ tứ tuyệt mà cho rằng "tuyệt cú tức là bài thơ
hay tuyệt vời, vì chỉ có 4 câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ
ý
tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường" (Lạc Nam Phan Văn
Nhiễm
- "Tìm hiểu các thể thơ"[56] ), hoặc nói "Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu
chiếm
một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển, thâm, ẩn hiện, chính
kỳ,
khởi phục đủ cả cho nên gọi là tuyệt "- Bùi Kỷ[ Sđd,66:29] ... Những
thuyết
này không tập trung lý giải sự hình thành của thể loại tứ tuyệt.
Một
thuyết khác thịnh hành hơn, cho rằng ‘tuyệt’ là ‘ngắt’, tứ tuyệt là
ngắt lấy bốn câu trong bài luật thi mà thành.
Nhiếp
Thế Mỹ, khi phân tích các ý kiến khác nhau về định nghĩa tuyệt cú đã
cho biết:"Một thời gian dài tới nay, thuyết tuyệt cú là "cắt nửa một
bài luật thi" thắng thế, được thịnh hành khắp nơi, lưu truyền đến tận
bây giờ. Thuyết này căn cứ theo Tiền Mộc Am (Thanh) trong "Đường âm
thẩm thể", bắt đầu sớm
nhất vào đời Tống, sau đó đến Ngô (Minh) trong "Văn chương biện thể",
được
dẫn dắt bởi Phó Nhữ Lệ (Nguyên) trong cuốn ("Thi pháp nguyên lưu", cũng
theo thế mà nói ..."[142:182] ... ở Việt Nam, người theo thuyết này có
thể
đơn cử là Dương Mạnh Huy, trong "Đường thi hợp tuyển", ông khẳng định
"Tuyệt
là Tiệt (ngắt), cú là câu, tuyệt cú nghĩa là cũng theo những luật đó mà
ngắt ra dùng 4 câu nửa bài trong luật 8 câu". Từ đó, ông phân tuyệt cú
làm 4
loại, tùy theo 4 cách cắt một bài bát cú : cắt 4 câu đầu, cắt 4 câu
giữa,
cắt 4 câu cuối và cắt 2 câu đầu, 2 câu cuối. Trần Trọng Kim trong cuốn
"Đường
thi" cũng có ý kiến tương tự. Nhưng ông phát triển thêm, cho rằng thơ
tuyệt
cú có thứ theo thơ cổ, ngắt từ bài thơ cổ trường thiên mà thành, có thứ
theo luật, ngắt từ bài luật thi bát cú mà thành, vì "tuyệt" là ngắt,
ngắt
ra 4 câu nên còn gọi là "tứ tuyệt".
Lại
có nhiều ý kiến nghi ngờ hoặc phản bác thuyết này, cho rằng tuyệt cú
thực ra có trước luật thi. Như Hồ ứng Lân (Minh) trong quyển 6 cuốn
"Thi sô" đã nói:"Nghĩa của từ tuyệt cú đến nay vẫn chưa nói chắc được,
nói là phần cắt 2 liên thơ cuối hoặc giữa của bài cận thể, sợ rằng chưa
đủ bằng cớ" [32:9] ... ở Việt Nam, Doãn Kế Thiện trong "Lược khảo thơ
Trung Quốc" cũng ủng hộ học thuyết cho rằng ngũ ngôn tuyệt cú do ngũ
ngôn cổ thi biến hóa ra, còn thất ngôn tuyệt cú thì từ ca hành mà
thành. Ông lý giải rằng tứ tuyệt
phải có trước luật thi vì từ Hán, Ngụy, Lục Triều về sau đã có lối thơ
ngắn
4 câu, tuy không theo luật điệu, đến đời Đường mới được luật hoá cho
thanh
vận hòa hợp.
Khảo
cứu sự hình thành của thể thơ tuyệt cú, gần đây, đã có nhiều công trình
chứng minh được rằng loại thơ này đã xuất hiện từ trước đời Đường.
Nhiếp Thế Mỹ trong bài "Vì sao gọi là tuyệt cú? Nó phát sinh và
phát triển như thế nào?" [32:9] đã phân tích khá cặn kẽ con đường
hình
thành tuyệt cú. Ông cho rằng ca dao dân gian cổ đại là đầu nguồn lịch
sử
của tuyệt cú. Đến đời Hán, các văn nhân cùng nhau xướng họa, mỗi người
một
câu, liên hoàn đến trọn bài, thành ra hình thức gọi là "liên cú". Sang
đời
Tấn, liên cú phát triển lên thành hai câu, sau lại tiến tới mỗi người
làm
bốn câu, kéo dài bài thơ thành chương. Nếu một người làm bốn câu rồi mà
không
ai làm tiếp được nữa thì bốn câu đó gọi thành ra "tuyệt hưởng" (không
có
hưởng ứng). Từ đó mà thành tên gọi là "tuyệt cú" hoặc "đoạn cú". Chu
Khiếu Thiên trong "Đường tuyệt cú sử" cũng có ý kiến tương tự. Còn Lý
Trường Lộ trong lời dẫn cuốn "Toàn Đường tuyệt cú tuyển thích" cũng
khẳng định:"Tuyệt cú", còn gọi là "Tiệt cú" hoặc "Đoạn cú". Hình thức
bài thơ nhỏ bốn câu này trong ca dao Hán Nhạc phủ đã có, gọi là cổ
tuyệt cú. Thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, những nhà thơ nổi tiếng như Bão
Chiếu, Tạ Diểu và Dĩu Tín... đều có làm tiểu thi ngũ ngôn tuyệt. "Ngũ
ngôn đoản cổ, thất ngôn đoản ca" là nguồn gốc sớm nhất của tuyệt cú.
Thời Tề Lương, Thẩm Ước sáng tạo ra thuyết tứ thanh,
bình, thượng, khứ, nhập. Đến đời Đường, qua Vương Bột, Đỗ Thẩm Ngôn tới
Thẩm
Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, Thượng Quan Nghi... sáng tạo ra loại thơ ngắn
năm
chữ hoặc bảy chữ hợp với thanh luật bằng trắc, hình thành tuyệt cú của
người
đời Đường, gọi là luật tuyệt, Bạch Cư Dị gọi là tiểu luật thi để phân
biệt
với ngũ ngôn cổ tuyệt" [124:1] ... Ở Việt Nam, mới đây Hồ Sĩ Hiệp trong
luận án "Sự phát triển thi pháp của Đỗ Phủ" và Nguyễn Sĩ Đại trong luận
án "Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường", phần đề
cập
tới định nghĩa "tứ tuyệt" cũng đều theo cách hiểu như của Lý Trường Lộ.
1.1.2
Để xác định phạm vi khảo sát tứ tuyệt Lý Bạch trên nền thơ tứ tuyệt
Trung Hoa, chúng tôi rất lưu ý đến những kiến giải nêu trên của Nhiếp
Thế Mỹ, Chu
Khiếu Thiên và Lý Trường Lộ... Chúng tôi cho rằng đây là cái nhìn có
tính
lịch sử nhất về sự hình thành tên gọi "tuyệt cú" (tứ tuyệt). Theo quan
niệm
này, khái niệm về tứ tuyệt cũng được mở rộng hơn. Trước hết, tứ tuyệt
được
khẳng định là một thể loại độc lập, có con đường hình thành, phát triển
và
sinh mạng riêng chứ không phải là bộ phận ngắt ra từ luật thi hoặc cổ
thi.
Do đó, tứ tuyệt không nhất thiết phải bó gọn dưới hình thức luật tuyệt
với
bốn kiểu cắt từ bài bát cú, mà có thể gồm nhiều loại, theo luật hoặc
không,
ngũ ngôn, thất ngôn hoặc tạp ngôn; và dù dưới dạng nào, một bài tứ
tuyệt
cũng cần được nhìn nhận như là một chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn, riêng
biệt.
"Từ
điển văn học" đưa ra định nghĩa như sau về tứ tuyệt :
"Thơ
tứ tuyệt theo nghĩa rộng, chỉ những bài thơ nhỏ, mỗi bài gồm bốn câu,
mỗi câu thường năm hoặc bảy chữ. Theo nghĩa hẹp, còn gọi là tuyệt cú,
gồm hai dạng: cổ tuyệt (tứ tuyệt theo lối cổ thi) và luật tuyệt (tứ
tuyệt làm theo thể Đường luật)" [29:381].
Khảo
sát TTLB, chúng tôi hiểu từ "tứ tuyệt" theo nghĩa rộng, gồm tất cả
những bài thơ bốn câu của Lý Bạch. Do đó, những bài nhạc phủ bốn câu
như "Thanh bình điệu", hoặc bài từ bốn câu như "Hoành giang từ"...,
chúng tôi đều xếp
vào loại tứ tuyệt (đây cũng là cách phân loại phổ biến trong hầu hết
các
tuyển tập thơ Đường, phần tứ tuyệt)
1.1.3.
"Tứ tuyệt" (theo nghĩa rộng), xuất hiện ở Trung Hoa khá sớm. Có thể
thấy mầm mống của nó trong các chương gồm bốn câu khá phổ biến ở Kinh
Thi. Có những chương ta có thể cắt riêng ra thành một bài tứ tuyệt khá
hay và tương đối hoàn chỉnh. Như chương 1 bài "Quyển nhĩ":
"Thái
thái quyển nhĩ,
Bất
doanh khuynh khuông,
Ta
ngã hoài nhân,
(Trí
bỉ chu hàng)
Tạm
dịch:
"Hái
hoài rau quyển,
Không
đầy giỏ nghiêng.
Nhớ
ai than thở niềm riêng,
Giỏ
rau vừa hái lại quên bên đường."
Bài
thơ này gồm bốn chương, mỗi chương bốn câu. Riêng chỉ có chương I tả
cảnh người con gái hái rau mà tơ tưởng đến bạn tình đến nỗi không làm
ăn gì được. Các chương sau liên kết với nhau theo lối trùng chương điệp
cú, tả nàng muốn lên núi cao để ngóng trông nhưng ngựa đau, kẻ hầu ốm
bệnh, không thể lên được, đành rót rượu một mình uống say cho đỡ nhớ
mong nhưng cũng không sao khuây khỏa. Như vậy, chương I giữ vị trí
tương đối độc lập với những chương sau (mặc dù không thể phủ nhận là
cảm hứng trữ tình "tương tư, tưởng nhớ" xuyên suốt và thống nhất toàn
bài). Quan trọng hơn cả là chương này đã lập được tứ, miêu tả cử chỉ
hái rau mà lại hiển hiện sinh động tâm trạng thẫn thờ của cô gái. Lời
thơ chân thực mà cảm xúc dồn nén mạnh mẽ, không những
thế, qua cử chỉ từ chỗ "hái rau" đến "quên giỏ" còn thấy được diễn biến
tâm
lý tăng tiến của nhân vật.
Những
chương như thế trong "Kinh Thi", dù đứng riêng ra, ở một chừng mực nào
đó vẫn gợi lên được cho người đọc cảm nhận về cái hay và tính trọn
nghĩa tương đối của nó. Có thể nói rằng từ đầu nguồn của thể loại tứ
tuyệt, "Kinh Thi" đã lưu lại dấu ấn đậm nét, không chỉ về sự manh nha
của hình thức 4 câu mà còn về hàng loạt biện pháp nghệ thuật mà sau này
tứ tuyệt (và đặc biệt là TTLB) ở các mức độ khác nhau sẽ kế thừa và
nâng lên đỉnh cao hoàn mĩ: thơ kết hợp với âm nhạc (Khổng Tử nói 300
bài Kinh Thi đều có thể gẩy đàn mà hát
được - "Thi tam bách Kinh Thi giai huyền ca chi"), hình thức diễn đạt
trong
sáng, các thủ pháp tỉ, hứng, điệp từ...
Tuy
vậy, tứ tuyệt vẫn chưa xuất hiện trong Kinh Thi. Hơn nữa, với kết cấu
"trùng chương điệp cú" rất phổ biến ở các bài trong "Kinh Thi", các
chương liên kết với nhau hết sức chặt chẽ. Do vậy, về cơ bản, không thể
xem mối liên hệ giữa các chương bốn câu trong một bài "Kinh Thi" giống
như liên hệ giữa các bài trong một chùm tứ tuyệt xuất hiện sau này.
Tứ
tuyệt "ra mắt" một cách khiêm tốn trong dân ca nhạc phủ thời Hán Ngụy.
Thống kê hơn 150 bài nhạc phủ trong cuốn "Hán Ngụy nhạc phủ phong
tiên"(Hoàng Tiết chú thích. Nhân dân văn học xuất bản xã 1958), thấy
chỉ có 6 bài thơ bốn câu. Những bài này nói chung phản ánh đời sống
sinh hoạt dân dã, lời lẽ giản phác, dùng nhiều tỉ hứng, ẩn ngữ, âm điệu
phổ theo nhạc nhưng về điều phối thanh điệu thơ còn chưa được chú ý nên
nhìn chung vẫn khá trúc trắc. Đáng lưu ý hơn cả có lẽ là bài "Vũ khê
thâm hành":
"Thao
thao Vũ Khê nhất hà thâm!
Điểu
phi bất độ,
Thú
bất cảm lâm
Ai
tai! Vũ Khê đa độc dâm ! "
Tạm
dịch:
Vũ
Khê cuồn cuộn sông sâu !
Chim
bay rã cánh,
Thú
đâu dám về
Vũ
Khê độc khí gớm ghê !
Năm
Kiến Vũ thứ 24, Vũ Uy tướng quân đem quân đến Vũ Lăng, Vũ Khê, giặc cố
thủ
giữ ải, thuyền không thể qua sông, sĩ tốt ngã nước, ốm chết rất nhiều.
Bài
thơ khởi hứng từ cảnh Vũ Khê sông sâu, nước độc, cầm thú còn kinh hãi,
từ
đó ngầm tưởng đến chuyện cũ, cảm khái cho sức người không thể vượt qua.
Hình ảnh kỳ vĩ, tình điệu bi tráng, đạt tới một giá trị nghệ thuật nhất
định. Ngoài ra, thời Hán Ngụy cũng có một số bài ca dao bốn câu (cổ
phong tứ tuyệt).
Tứ
tuyệt manh nha ở đời Hán, sang thời Nam Bắc triều thì tăng vọt về số
lượng và chất lượng cũng có những chuyển biến đáng kể. Thơ bốn câu lúc
đó thịnh hành đến mức được xem là một đặc điểm hình thức của dân ca hai
miền Nam - Bắc. Số chữ trong câu, tuy không có luật ràng buộc, nhưng
phổ biến là năm chữ. So với lối thơ bốn chữ chiếm đa số trong Kinh Thi
thì thơ năm chữ có khả năng tạo nhịp điệu sinh động hơn (vì số chữ lẻ
phá vỡ thế cân bằng) và dung lượng phản ánh của một dòng thơ cũng được
nới rộng (vì nhiều từ hơn). Thực ra, thơ ngũ ngôn đã khá phát triển
trong dân ca nhạc phủ đời Hán, nhưng ngũ ngôn tứ tuyệt phải đến thời
Nam - Bắc triều mới chính thức trở thành một
thể loại đáng lưu ý. Người ta đã thống kê hơn 470 bài trong "Ngô thanh
Tây
khúc" thì có tới hơn 350 bài thơ bốn câu năm chữ. Mặc dù số lượng
rất
nhiều, nhưng nội dung phản ánh của tứ tuyệt trong Nam ca lại không thật
phong phú, chủ yếu là về đời sống phồn hoa, sinh hoạt thị dân, tình ca
chiếm đa số. So với nhạc phủ đời Hán thì nhạc phủ Nam triều hầu
như
thiếu hẳn chất dân dã, hồn hậu của cuộc sống lao động thôn quê mà nặng
về
xuân tình. Tuy vậy, về nghệ thuật thì tứ tuyệt Nam triều lại có những
bước
tiến đáng kể. Thơ tả cảnh đạt tới trình độ khá điêu luyện, tinh tế, như
một
bài "Tí Dạ tứ thời ca":
"Thanh
hà cái lục thủy,
Phù
dung ba hồng tiên.
Lang
kiến dục thái ngã,
Ngã
tâm dục hoài liên. "
Tạm
dịch:
"Lá
xanh phủ nước biếc xanh
Phù
dung mơn mởn muôn cành hồng tươi.
Chàng
nhìn muốn hái em rồi,
Lòng
em vương vít bên nơi sen hồng."
Bài
này cảnh sắc tươi tắn mà tình cảm cũng trong trẻo, đặc biệt là câu kết
duyên dáng, ý nhị. Từ "thái" lẽ ra dùng với sen (hái sen) thì lại dùng
cho người ("thái ngã"), từ "hoài" lẽ ra dùng cho người thì lại gắn với
sen ("hoài liên"- ôm ấp, nhớ sen), ẩn dụ độc đáo. Giữa đám phù dung mơn
mởn, cô gái như bông sen đẹp nhất nên chàng trai nhìn là muốn hái. Còn
người con gái e ấp bảo lòng
em để cả bên hoa, nhưng tâm tư đã là đóa sen chớm nở bao tình ý với chữ
"hoài"
rung lên những tín hiệu giao duyên. So với phép tỉ hứng còn khá giản
phác
trong Kinh Thi và cổ ca dao Hán Ngụy thì nghệ thuật tỉ, hứng, ẩn dụ ở
đây
đã phong phú, nhiều màu sắc hơn hẳn. Dân ca tứ tuyệt Nam triều, qua
nhuận
sắc, sửa chữa của các văn nhân lại càng được gọt giũa hơn về nghệ
thuật.
Thủ pháp "song quan ẩn ngữ" (dùng từ đa nghĩa, bóng gió ẩn dụ) đặc biệt
được
ưa chuộng (như bài thơ nêu trên, dùng từ "thái" vừa nghĩa là "hái", vừa
nghĩa
là "chọn", từ "hoài" vừa nghĩa là "mang, chứa", vừa nghĩa là "nhớ").
Hình
thức nam nữ đối đáp hoặc cô gái tự mình bộc bạch nỗi lòng khá phổ biến
(như
trong các bài "Tí dạ ca" ...) khiến tứ tuyệt Nam triều (và cả Bắc
triều) còn
mang đậm tính chất ca từ. Sau này, một số nhà thơ Nam triều đã vận dụng
thể
loại tứ tuyệt để sáng tác những bài trữ tình ngôn chí, đánh dấu một
bước phát
triển mới của thơ tứ tuyệt thời kỳ này. Những bài như "Sơn trung tạp
thi"
(Ngô Quân), "Tương tống" (Hà Tốn), "Ngọc giai oán" , "Vương tôn du" (Tạ
Diểu),
"Ký Vương Lâm" (DữuTín)... thực sự là mở đường cho tuyệt cú đời Đường.
Như
bài "Nhập quan cố nhân biệt" của Vương Bao, tả cảnh tác giả phải biệt
cố
hương, chia tay cùng cố nhân, sau buổi tao loạn, cây cổ thụ vẫn còn như
cũ,
đường đi bụi vàng che lấp mặt trời, tiền đồ mờ mịt... Hai câu thơ cuối
quả
là tuyệt bút :
"...
Quan sơn hành tựu cận,
Tương
khan thành viễn nhân".
Tạm
dịch:
"...
Đường lên quan ải sát gần
Nhìn
nhau thấy đã viễn nhân cách vời."
Vẫn
còn "nhìn nhau" (tương khan) mà đã "thành viễn nhân" là điều không thể
có,
nhưng trong cái nghịch lý ấy, chứa đựng cả nhịp điệu gấp gáp đến thảng
thốt
của thời gian tâm lý lúc chia phôi. Thời gian thì rút ngắn mà không
gian
lại mở rộng, trong một ánh mắt giao nhau đã chứa cả nghìn trùng thương
nhớ
của "viễn nhân" phương trời cách biệt. Thơ tứ tuyệt đến đây đã bước
đầu
đạt tới độ hàm súc "ngôn tuyệt ý bất tuyệt", "lời gần tình xa" là một
đặc
trưng của tuyệt cú đời Đường sau này; về nhạc điệu, âm luật, cũng uyển
chuyển,
hài hòa hơn, so với tứ tuyệt cổ thi từ chỗ "Khảng khái thổ thanh âm. Minh
truyền xuất thiên nhiên" thì quả là một bước phát triển dài. Nhưng
không
phải tứ tuyệt nhạc phủ Nam - Bắc triều bài nào cũng đạt tới trình độ
như
vậy mà chỉ là một số bài xuất sắc nhất và số bài này cũng không nhiều.
Tứ
tuyệt nhạc phủ Bắc triều so với Nam triều số lượng ít hơn mà kỹ xảo
cũng còn khá thô mộc, gần với ca dao cổ Hán Ngụy. Tuy vậy, nó mang hơi
thở của cuộc sống người phương Bắc, hào hiệp, mạnh mẽ, khảng khái, làm
thành một giọng điệu riêng so với tứ tuyệt Nam triều. Như bài "Chiết
dương liễu ca" :
"Phúc trung sầu bất lạc,
Nguyện
tác lang mã tiên.
Xuất
nhập hoàn lang tí,
Điệp
tọa lang tất biên."
Cô
gái "lòng buồn bã không yên, chỉ ước được làm chiếc roi ngựa của người
thương để ra vào chàng mang bên tay, đi lại cũng được quấn quít bên đầu
gối chàng". Tuy rằng vẫn nội dung nam nữ luyến ái, nhưng cách tỏ bày
tình cảm và ví von ở đây khác nhiều so với trong Nam ca. Người con gái
chủ động, mạnh bạo nói lên khao khát của mình, lời lẽ thẳng thắn, tình
cảm chân thực, mãnh liệt. Chiếc roi ngựa mà cô gái nhắc tới cũng là một
vật dụng tùy thân, đặc trưng cho đời sống sinh hoạt của người phương
Bắc.
Nhìn
chung lại, mặc dù có những khác biệt về giọng điệu..., tứ tuyệt
Nam ca và Bắc ca đều có một số đặc điểm lớn là : Số lượng nhiều mà nội
dung hạn chế, đề tài quanh quẩn tả cuộc sống phồn hoa đô thị, cung đình
và tình yêu nam nữ... Về mặt nghệ thuật, tứ tuyệt thời kỳ này đã có một
bước tiến dài so với giai đoạn trước : định hình và phát triển thể thơ
ngũ tuyệt, âm
luật hài hòa hơn, các thủ pháp song quan ẩn ngữ, tỉ, hứng... được vận
dụng
linh hoạt và có hiệu quả cao, bút pháp tả cảnh đạt tới trình độ tinh
tế,
khá điêu luyện; đặc biệt là sự xuất hiện những bài tứ tuyệt "trữ tình
ngôn
chí" của một số nhà thơ lớn Nam triều đã đem lại nội dung mới mẻ cho tứ
tuyệt,
khai thác đặc trưng hàm súc, "ngôn tuyệt ý bất tuyệt" của thể loại này,
mở
đường cho tứ tuyệt Sơ Đường.
Mặc
dù tứ tuyệt nhạc phủ Nam - Bắc triều đã có những thành tựu nhất định
như vậy, nhưng hễ nhắc tới thể thơ này là người ta nói đến tuyệt cú đời
Đường, đến mức có quan điểm cho rằng người đời Đường đã sáng tạo ra thể
loại đó.
Thực
tế là không phải ngay từ buổi ban đầu tứ tuyệt Sơ Đường đã đạt tới mức
xuất
sắc vượt lên các giai đoạn trước. Nó cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của
lối
thơ phù hoa, diễm lệ Tề - Lương. Đề tài "vịnh cảnh", "vịnh vũ", ca tụng
cảnh xa hoa chốn cung đình,... rất phổ biến, ngũ tuyệt chiếm đa số. Công
lao lớn của các nhà thơ Sơ Đường (mà tiêu biểu là Thẩm Thuyên Kỳ, Tống
Chi
Vấn, Thượng Quan Nghi...) với thể loại này là đã luật hoá tứ tuyệt,
hình
thành ra "luật tuyệt", và đồng thời phát triển loại thơ bốn câu bảy chữ
(vốn rất hiếm trước đó), định hình nó thành "thất tuyệt", nếu theo luật
gọi là "thất ngôn luật tuyệt". Tứ tuyệt thời Tề - Lương
với thuyết tứ thanh của Thẩm Ước đã tiến bộ rất nhiều trong việc hoà
hợp
các thanh điệu, nhưng vẫn chỉ là giữa các từ trong một liên thơ hai
câu.
Việc áp dụng niêm luật của luật thi vào tứ tuyệt đã khiến cho tứ tuyệt
từ
Sơ Đường thanh vận càng hài hòa hơn, không chỉ trong một câu mà còn
giữa các
câu với nhau trong toàn bài. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ có luật
tuyệt
mới có bước tiến về nhạc điệu tiết tấu. Cùng với sự ra đời của luật
thi,
ý thức về điều phối thanh điệu và lựa chọn âm vận đã thâm nhập ngay
trong
sáng tác các bài tuyệt cú phá luật hoặc hoàn toàn không theo luật, cho
nên
cổ tuyệt của người đời Đường nhạc điệu cũng vẫn uyển chuyển thanh thoát
hơn
cổ tuyệt thời Hán Ngụy.
Thoát
ly thi phong phù hoa cung đình, "Tam Vương" của Sơ Đường: Vương Tích -
Vương Phạn Chí - Vương Bột, đã mở đường cho sự phát triển về chất của
tứ tuyệt. Thơ ca của họ không chú trọng ngôn ngữ hoa lệ , lời giản dị
mà ý sâu sắc. Vương Tích sáng tác độ hơn mười bài tứ tuyệt, nội dung
chủ yếu là về cảnh sống điền viên, lời thơ tự nhiên, thanh tân, phảng
phất phong cách của Đào Uyên Minh. Vương Phạn Chí làm nhiều thơ ngũ
tuyệt bạch thoại, ngôn ngữ thông tục, nội dung đa phần là về nhân tình
thế thái, khuyến thiện, đạo đức,... lời lẽ giản dị mà hình tượng sinh
động, rất gần gũi với đại chúng. Vương Bột
có khoảng trên ba mươi bài tứ tuyệt, viết nhiều về đề tài vịnh hoài, ly
biệt...
Ông kế thừa thành tựu nghệ thuật của tứ tuyệt Lục Triều và nâng nó lên
một
trình độ mới, tuyệt cú tả cảnh của ông lời đẹp tình sâu, lấy cảnh kết
tình,
ý thơ hàm súc mà tình điệu khảng khái. Ngoài ra còn có các nhà thơ nổi
tiếng
như Tống Chi Vấn với bài thất tuyệt "Độ Hán giang", Lạc Tân Vương với
"Dịch
Thủy tống biệt", Vi Thừa Khánh với "Nam hành biệt đệ", Trương Cửu Linh
với
"Tự quân chi xuất hĩ"... Và rồi, Trần Tử Ngang đề xướng phong trào học
tập
phong cốt Kiến An, đưa thơ ca về với hiện thực đã mở một hướng mới cho
sự
phát triển của tứ tuyệt. Bài tứ tuyệt cổ phong "Đăng U Châu đài ca" của
ông
tả nỗi cô đơn trống trải của người lên đài cao, giữa mênh mông vô cùng
của
trời đất mà nhỏ lệ, ý tứ khảng khái, buồn bã mà khí phách, về nội dung
đã
khác biệt rất nhiều với lối thơ ỷ lệ, xuân tình trong tứ tuyệt Lục
triều.
Như
vậy là so với tứ tuyệt Lục triều, tứ tuyệt Sơ Đường số lượng tuy ít hơn
nhưng đề tài và diện phản ánh xã hội lại rộng rãi hơn. Đặc biệt là tứ
tuyệt đến đây đã thoát ly tính chất ca từ vốn in đậm trong phần lớn tứ
tuyệt nhạc
phủ và cổ ca dao Hán Ngụy, Nam Bắc triều, bút pháp già dặn hơn và nội
dung
mang tính thời đại với rất nhiều băn khoăn về triết lý nhân sinh, thế
sự.
Như bài "Nam hành biệt đệ" (Vi Thừa Khánh) :
"Đạm
đạm trường giang thủy,
Du
du viễn khách tình.
Lạc
hoa tương dữ hận
Đáo
địa nhất vô thanh "
Dịch
thơ :
Sông
dài nước chảy lênh đênh
Dặm
nghìn đất khách mối tình mênh mông
Hoa
kia chia mối hận lòng
Lúc
rơi tới đất tuyệt không tiếng gì
(Tương
Như dịch)
Không
kể đến sự xuất hiện của hình thức đối ngẫu (hai câu đầu) và bằng trắc
đúng niêm luật đã là một cải tiến về nghệ thuật so với tứ tuyệt Lục
triều, mà ngay
cả bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng có nhiều cách tân. Câu một tả sông
dài
lờ lững. Câu hai tả tình khách mênh mông. Sông và tình người như hai
dòng
chảy song song, in bóng cho nhau nhưng chẳng hòa làm một, càng dấy lên
nỗi
khát khao giao cảm và gửi gắm. Để đến hai câu kết, nhà thơ đặc tả đóa
hoa
rơi, như một dấu lặng thương cảm giữa vô cùng, chia sẻ niềm cô đơn, sầu
hận
của khách. Nhưng hoa thì nhỏ bé, rơi rụng âm thầm, một chút cảm thông
dù
hết mình cũng chẳng đủ để ngừng trôi mối sầu viễn xứ dằng dặc. Bút pháp
tả
cảnh bao quát, chấm phá đầy ấn tượng, không chỉ miêu tả cái nhìn thấy
mà
còn hướng vào chiều sâu của nó, trong cái thực lại lồng ý ẩn dụ và
trong tả
tình đã ngầm cuộn lên những trăn trở về triết lý cuộc đời, ngậm ngùi
thân thế; so với tứ tuyệt tả cảnh trong nhạc phủ Nam Bắc triều thì là
cả một bước phát triển về chất.
Tóm
lại, tứ tuyệt đến Sơ Đường đã làm một bước chuyển mình quan trọng.
Nghệ
thuật biểu hiện được tiếp tục hoàn thiện với những chỉnh đốn về thanh
luật,
đối ngẫu và âm vận. Thể thơ thất tuyệt manh nha, hình thành và đã có
những
bài khá xuất sắc. Nội dung thơ đổi mới, xa rời dần đề tài diễm tình,
phù
hoa trong tứ tuyệt. Lục triều, hướng về những vấn đề thế sự, nhân sinh.
Tính chất hàm súc của tứ tuyệt ngày càng được chú trọng, thơ đi dần tới
chỗ lời giản dị mà ý thâm sâu. Sau này, người ta nói tới đặc trưng
"ngôn
tuyệt ý bất tuyệt", "lời gần tình xa"... của tứ tuyệt chính bắt đầu từ
sự
khai phá này của tuyệt cú Sơ Đường, và nó cũng làm cho tứ tuyệt đời
Đường
từ đây hình thành một phong cách riêng biệt so với tứ tuyệt các thời
trước
và sau đó.
Kế
thừa thành tựu của các giai đoạn trước, tứ tuyệt đến Thịnh-Đường bước
vào một thời kỳ phát triển chưa từng có, nảy nở sung mãn, không những
số lượng tăng vọt mà chất lượng cũng đạt tới đỉnh cao. Sở dĩ như vậy,
một phần vì tứ tuyệt cũng không nằm ngoài sự phát triển của thơ Đường
nói chung trong buổi hoàng kim cực thịnh này. Phần khác, có lẽ vì thời
kỳ này âm nhạc hết sức phát triển, những bài tứ tuyệt hay phần lớn đều
được phổ nhạc, có bài viết ra trước hết là để soạn lời cho nhạc (như
trường hợp Lý Bạch sáng tác "Thanh Bình điệu"...), do đó mà lưu truyền
hết sức rộng rãi, dấy lên mạnh mẽ làn sóng những người thưởng thức và
sáng tác tứ tuyệt. Hơn nữa, tứ tuyệt cũng là loại thơ thể hiện rõ nhất
chất tinh túy, hàm súc:"Dĩ thiểu kiến đa" (qua cái nhỏ mà thấy được cái
lớn) vốn được đánh giá rất cao trong thơ Đường, chính vì vậy mà càng
được ưa chuộng.
Hầu
hết các nhà thơ lớn Thịnh Đường đều làm thơ tứ tuyệt và có những bài
rất hay. Thể thơ thất tuyệt mới hình thành thời Sơ Đường, số lượng rất
ít, đến
thời kỳ này tăng gấp mấy lần, và về nghệ thuật đi dần tới chỗ hoàn
thiện.
Ngũ tuyệt tiếp tục con đường phát triển của nó từ Sơ Đường, cùng với
thất
tuyệt làm thành hai mảng hương sắc của vườn thơ tứ tuyệt Thịnh Đường
đang
mùa chín rộ. Trên cái bối cảnh ấy, xuất hiện "hiện tượng" thơ tứ tuyệt
Lý
Bạch!
1.2.
Sự xuất hiện nổi bật của Tứ tuyệt Lý Bạch:
1.2.1.
TTLB - hiện tượng đáng lưu ý trong lịch trình thơ tứ tuyệt:
1.2.1.1
Trong suốt lịch trình của tứ tuyệt, trải qua mấy trăm năm đến đầu Thịnh
Đường, chưa bao giờ số lượng bài tứ tuyệt của một tác giả lại nhiều đến
như
TTLB. Tứ tuyệt nhạc phủ Nam Bắc triều số lượng tuy lớn, nhưng phần lớn
là
sưu tập từ dân ca, một số thi nhân Nam triều (như Ngô Quân, Dữu Tín, Tạ
Diểu...) có làm tuyệt cú song số bài cũng chưa nhiều. Đến thời Sơ
Đường, thống
kê tứ tuyệt của Vương Tích, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột,
Dương
Quýnh, Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, Đỗ Thẩm Ngôn, Lưu Hi Dy, Trương
Nhược
Hư, Trần Tử Ngang, Trương Cửu Linh, tất cả có 157 bài trên tổng số 1343
bài thơ hiện còn của họ (chiếm tỉ lệ 11,7% .). Lý Bạch sáng tác hơn
nghìn
bài thơ mà riêng thơ tứ tuyệt của ông đã là 193 bài, hơn số bài tứ
tuyệt
của 12 đại gia Sơ Đường cộng lại. Con số ấy so với lượng bài tứ tuyệt
của
những nhà thơ Thịnh Đường được đánh giá là rất thành công ở thể loại
này
thì vẫn là nhiều nhất (Vương Duy: 106 bài, Vương Xương Linh: 89 bài, Đỗ
Phủ :139 bài).
Không
những thế, Lý Bạch lại sáng tác khá "đều tay". Tỷ lệ bài ngũ tuyệt và
thất tuyệt gần như tương xứng: 98/92, ngoài ra còn 3 bài tạp ngôn tứ
tuyệt. Trong
khi đó, thơ tứ tuyệt nhạc phủ Nam Bắc triều hầu như ngũ tuyệt chiếm đa
số. Đến Sơ Đường, số bài ngũ tuyệt của 12 đại thi gia thời đó (nêu
trên) là 127 bài, trong khi thất tuyệt chỉ có 30 bài (bằng 1/3 số thơ
thất tuyệt của Lý Bạch). Đồng thời với Lý Bạch, Vương Duy được coi là
một tay bút tứ
tuyệt cự phách, nhưng nổi tiếng chủ yếu về ngũ tuyệt, số bài ngũ tuyệt
do
đó cũng hơn hẳn thất tuyệt (60/40 bài). Vương Xương Linh thì lại thành
danh
với thất tuyệt, số bài loại này chiếm tỉ lệ lấn át ngũ tuyệt (75/14
bài).
Còn với Đỗ Phủ cũng có hiện tượng chênh lệch như vậy (107 bài thất
tuyệt
mà chỉ có 32 bài ngũ tuyệt).
[Đấy
là căn cứ vào số chữ của bài tứ tuyệt mà phân loại, còn nếu dựa trên âm
lậut mà xét thì các dạng như cổ tuyệt (tứ tuyệt cổ phong), lậut tuyệt
(tứ tuyệt luật thi), và bán cổ, bán luật đều hội đủ trong TTLB mà ở
dạng nào cũng có những bài rất xuất sắc. Phần này lậun án sẽ trình bày
cụ thể ở chương Ba].
1.2.1.2
TTLB số lượng nhiều mà đề tài, nội dung cũng phong phú chưa từng có. Cổ
tuyệt và tứ tuyệt nhạc phủ Hán Ngụy mạnh về phản ánh đời sống sinh hoạt
dân dã, mộc mạc, hồn hậu nhưng lại thiếu xuân tình, cảnh sắc thiên
nhiên. Tứ tuyệt nhạc phủ Nam Bắc triều diễm tình, hoa lệ song nghèo đề
tài hiện thực. Tuyệt cú Sơ Đường hơn các giai đoạn trước ở chỗ đề cập
tới những vấn đề lớn như nhân sinh, thế sự..., nhưng ít quan tâm đến
đời tư, cá nhân... Riêng đến TTLB
thì không những gồm đủ mà hầu như lĩnh vực nào cũng có thành tựu đáng
kể
và đóng góp nhất định.
Viết về đề tài phong thổ, phản ánh
đời sống dân gian, tuy số lượng
không nhiều, nhưng TTLB cũng khắc họa được những hình ảnh sinh động,
đầy ấn tượng: cảnh sinh hoạt của một gia đình nhà quê ở Thu Phố : chồng
lặn ngụp bắt cá,
vợ con chăng lưới bẫy chim nhạn , kẻ dưới nước, người trên cạn, nước
trắng,
rừng xanh, vất vả nhưng thanh bình ("Thu phố ca" bài 16) , cảnh một
thiếu
nữ vừa hái ấu, vừa hát trong đêm, trên dòng Lộc Thủy, trăng sáng, cò
trắng
bay ("Thu phố ca" bài 13), cảnh cô gái hái sen, thấy khách vờ xấu hổ
trốn
vào đám hoa không chịu ra ("Việt nữ từ" bài 3). Và rất độc đáo là
hình
ảnh người thợ rèn:
"Lô
hoả chiếu thiên địa,
Hồng
tinh loạn tử yên.
Noãn
lang minh nguyệt dạ,
Ca
khúc động hàn xuyên "
("Thu
Phố ca" bài 14)
Tạm
dịch:
Lửa
lò chiếu trời đất,
Khói
tím loạn sao hồng.
Đêm
trăng, má đỏ rực,
Ca
hát động dòng sông.
Ở
trung tâm của không gian vũ trụ bao la (trời, đất, sao, trăng, sông),
giữa muôn ánh sáng rực rỡ (lửa lò, sao hồng, khói tím, trăng sáng),
người thơ xuất hiện thật kỳ vĩ. Tuy vậy, điều đáng chú ý là toàn bộ vẻ
đẹp của con người này nằm trong lao động. Thử tưởng tượng anh ta ngừng
làm việc là toàn bộ ánh sáng và sức nóng sẽ tắt ngấm, và cùng với nó,
tư thế oai hùng chinh phục cả vũ trụ cũng mất luôn. Chi tiết "lửa lò
chiếu sáng trời đất" tuy tả cái quan sát thấy bằng mắt, nhưng lại gợi
tả sinh động cường độ lao động liên tục, khẩn trương. Người thợ rèn
được miêu tả không chỉ như một hình ảnh đẹp trong đêm, mà hơn hết,
chính là biểu tượng của nhịp điệu cuộc sống :lao động hối hả và say mê.
Cách gọi:"noãn lang" (chàng mặt đỏ ửng ) dường như còn cho thấy thấp
thoáng ánh mắt của một người con gái đang để ý "đối tượng" của mình.
Hình ảnh chàng trai trong lao động vốn đã hào hùng lại càng đẹp hơn từ
góc độ nhìn đầy chất trữ tình đó. Niềm say mê lao động gắn với tình yêu
đời và rung động lứa đôi. Hình tượng người lao động đẹp và hùng như
thế quả thực là một nội dung mới mẻ trước đó chưa từng có trong lịch sử
tứ
tuyệt. Những nhân vật bình dân trong tứ tuyệt nhạc phủ Nam Bắc triều và
tuyệt
cú đầu Sơ Đường cũng đẹp, nhưng họ (thường là nữ) xuất hiện như đối
tượng
của tình yêu chứ không phải với tư cách người lao động. Một số bài tứ
tuyệt
cổ thi và nhạc phủ Hán Ngụy tuy có đề cập tới đời sống lao động của
quần
chúng, nhưng hình ảnh nói chung hồn nhiên, giản phác, chưa có được
những
hình tượng khái quát mang ý nghĩa biểu trưng. Ngay đến Đỗ Phủ, nhà thơ
hiện
thực xuất sắc nhất đời Đường, tuy có thơ tứ tuyệt phản ánh sinh động
đời
sống của lớp "lê dân" cùng khốn vì chiến tranh, nhưng cũng chưa khai
thác
được chất Hùng, sức mạnh và vai trò to lớn của những con người bình dị
này.
Tất nhiên, TTLB viết về đề tài này, độ dồn nén hiện thực không thể so
với
thơ Đỗ Phủ, nhưng có thể nói nếu Đỗ Phủ đạt tới chiều sâu thì Lý Bạch
lại
phát hiện được tầm cao của hình tượng người lao động. Đó cũng là một
đóng
góp mới trong TTLB.
Mặc
dù không phải là nhà thơ hiện thực nhưng Lý Bạch gần như lại là người
đầu tiên khai phá một mảng đề tài chưa từng có trong tứ tuyệt: thơ trữ
tình chính trị. Tứ tuyệt Sơ Đường có nhiều bài viết về vấn đề thế sự,
nhân sinh, nhưng một khi đã chạm tới đề tài này thì đa phần là giọng
điệu triết lý át chất trữ tình. Riêng ở TTLB thì trái lại. Nét đặc sắc
trong những bài tứ tuyệt lấy đề tài hiện thực của Lý Bạch là nó vẫn bám
theo các diễn biến thời đại nhưng lại diễn tả chúng bằng ngòi bút dạt
dào chất trữ tình và vô cùng lãng mạn. Năm 756, vì loạn An Sử, Đường
Minh Hoàng phải rời Trường An về đất Thục. Vĩnh Vương Lý Lân nhận chiếu
chỉ làm Giang Lăng đại đô đốc, chiêu mộ tướng sĩ, thống lĩnh đại binh
tiến về đông đánh dẹp quân An Sử. Năm 757, Đường Huyền
Tông truyền ngôi cho thái tử Lý Hanh, lấy đất Thục làm Nam Kinh. Loạn
An-Sử
dẹp yên, Huyền Tông rời đất Thục về lại kinh đô Trường An. Hầu hết
những
sự kiện lịch sử lớn ấy đều được Lý Bạch ghi nhận trong hai chùm tứ
tuyệt
"Vĩnh Vương đông tuần ca" (11 bài) và "Thượng hoàng Tây tuần Nam kinh
ca"
(10 bài), trong đó, ông cũng gửi gắm nhiều hoài bão và ý tưởng chính
trị
của mình. Tuy vậy, điều đáng chú ý là, để diễn đạt một nội dung mang
đậm
tính thời sự, chính trị như vậy, Lý Bạch lại dùng hình thức tả cảnh. ở
11
bài "Vĩnh Vương đông tuần ca", ông lần lượt miêu tả cảnh ra quân hùng
mạnh,
khí thế của Vĩnh Vương, khói lửa liền đến biển xanh, cờ xí trập trùng
vây
núi biếc, chiến hạm dày đặc, binh giỏi, tướng tài... Trong 10 bài
"Thượng hoàng tây tuần Nam kinh ca", ông vẽ lên bức tranh phong cảnh kỳ
vĩ của đất Thục trên đường xa giá hồi kinh, đề cao Nam kinh đẹp mà
không quên hướng về cố đô. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử tứ tuyệt
lại có những bài lấy
đề tài chính sự mà lại nồng đượm chất trữ tình và đẹp đẽ đến như vậy.
Mặc
dù về nội dung hiện thực còn có những điểm phải bàn, song nói riêng đến
cách khai thác đề tài và phương thức diễn đạt thì những bài tứ tuyệt
trữ tình chính trị này của Lý Bạch quả là có những nét mới mẻ đáng lưu
ý.
Tuyệt
cú đến đời Đường đa phần tập trung vào những mảng đề tài lớn như: biên
tái, sơn thủy, hiện thực, tống biệt, cung-khúc oán, du lãm... và một số
đề tài về phong thổ nhân tình. Những cây bút tứ tuyệt xuất sắc nhất
Thịnh Đường cũng
thường chỉ thành công ở một, hai mảng đề tài trong số đó. Như Vương Duy
nổi
tiếng về thơ điền viên sơn thủy, Cao Thích, Sầm Tham giỏi về thơ biên
tái,
Vương Xương Linh nổi bật với đề tài cung oán, khuê oán, tống biệt và
một
số thơ biên tái, còn Đỗ Phủ lại sở trường về khai thác hiện thực...
Riêng
với Lý Bạch, tất nhiên, ông cũng có mảng đề tài ưa thích của mình,
nhưng
dường như với thể tứ tuyệt, ngòi bút của ông không có giới hạn. Biên
tái
hay điền viên, khuê oán hay du lãm... viết về đề tài nào ông cũng có
những
bài thực sự xuất sắc; đó là một điểm riêng biệt so với những tay bút tứ
tuyệt
cự phách trước và đồng thời với ông. Điều đáng nói là cùng với sự
đa dạng
chưa từng có về đề tài, giọng điệu và cảm hứng trữ tình trong các bài
TTLB
cũng chuyển biến theo nhiều cung bậc. Những bài tả cảnh ẩn dật của ông
như
"Tự khiển", "Sơn trung vấn đáp", "ức Đông Sơn" (hai bài), "Sơn trung dữ
u
nhân đối chước" ... u nhàn, nhạt đạm, hoàn toàn có thể sánh với
thơ điền
viên, sơn thủy của Vương Duy. Bài "Tự khiển" của Lý Bạch :
"Đối
tửu bất giác minh,
Lạc
hoa doanh ngã y.
Túy
khởi bộ khê nguyệt,
Điểu
hoàn nhân diệc hi"
Tạm
dịch:
Rượu
vào trời tối chẳng hay,
Hoa
đâu rơi rụng đã đầy áo ta.
Say
về, khe suối trăng ngà,
Chim
bay về tổ, người đà vắng thưa.
Toàn
bài là những cảm nhận trực giác, không nói đến chữ nhàn mà hiện rõ một
người
thanh thản vô sự, chẳng để ý đến thời gian (trời tối lúc nào không
biết),
ngồi lâu cũng không buồn xê dịch (nên hoa rơi đầy áo). Uống say rồi mới
về, nhìn trăng khe suối, chim bay về tổ, người thưa vắng, biết là đã
muộn.
Lời thơ bình đạm, ý vị tự nhiên, miêu tả được cái nhàn tự trong tâm,
lòng
hòa với cảnh vật, lại còn phảng phất giọng điệu của người say, ngất
ngưởng
ra về giữa một vùng tịch mịch. Nếu so với thơ Vương Duy, thì tuy cùng ý
tả
nhàn dật nhưng mỗi người độc đáo theo một cách. Bài thơ "Trúc lý quán"
của
Vương Duy:
"Độc
tọa u hoàng lý,
Đàn
cầm phục trường khiếu.
Thâm
lâm nhân bất tri,
Minh
nguyệt lai tương chiếu. "
Trần
Trọng Kim dịch thơ :
"Một
mình giữa đám rừng tre,
Đánh
đàn cao hứng hát nghe một bài.
Rừng
sâu nào có ai hay,
Bóng
trăng đâu đến chiếu ngay vào mình."
Cả
hai bài, lời cùng giản dị, cùng tả người thanh thản giữa rừng sâu, đêm
vắng,
nhưng ấn tượng gây ra cho độc giả lại có một điểm khác. Thơ Vương Duy
sử
dụng nhiều tầng đối lập ngầm, giữa cái thâm u của rừng trúc và sự đơn
độc
của con người, giữa cái tĩnh mịch của cảnh và tiếng người đàn hát, giữa
mối tuyệt giao với người và tương giao với trăng. Có thể thấy con người
này
chủ động đi tìm (và đã tìm được) sự thanh tĩnh, thoát tục trong tâm
hồn. Nhưng
cái "nhàn" ở đây là có ý thức và được biện luận ra chứ không phải từ vô
thức
như trong bài thơ của Lý Bạch. Đấy chính là điểm khác nhau giữa thơ
điền
viên của Vương Duy và của Lý Bạch. Tuy cùng vẻ bình đạm, nhưng với
tứ tuyệt Vương Duy thì ẩn sau nó là những ý tưởng thâm trầm, còn với
TTLB
thì lại như là xuất phát từ bản tính thanh thản, hồn nhiên.
Viết
về đề tài chiến tranh, biên tái thì giọng điệu của TTLB lại khác rất
nhiều: sôi nổi, khí phách và hào hùng, có thể sánh với tứ tuyệt cùng đề
tài của những nhà thơ biên tái bậc nhất như Cao Thích, Sầm Tham... Sở
dĩ thơ điền viên, biên tái của Lý Bạch hay, cũng vì chính ông đã trải
qua những cảnh ấy, nên lời thơ như thốt từ tâm khảm. Có người nhận xét
Lý Bạch thuộc bản tính "anh nhi" (như đứa trẻ lanh lợi), sống hết mình,
nên nghĩ đến ở ẩn thì
trong thơ có cái vẻ nhạt đạm, phiêu du của người đắc đạo, còn hướng ra
sa
trường thì thơ lại mang khí phách của người anh hùng "gieo Thái Sơn nhẹ
tựa hồng mao". Tứ tuyệt của Cao Thích, Sầm Tham, Vương Chi Hoán, Vương
Hàn...
viết về chiến tranh thường khảng khái, bi tráng, lời lẽ cứng cỏi nhưng
không
khỏi có chút ngậm ngùi, như bài "Lương Châu từ" của Vương Hàn, tả người
lính trước khi ra trận uống rượu say, có hai câu cuối rất nổi tiếng
"Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" (Say nằm
lăn
ra sa trường, xin anh chớ cười. Xưa nay chinh chiến mấy người về được).
TTLB
ít có giọng điệu ngậm ngùi ấy. Ông chủ yếu khai thác chất Hùng của
chiến
tranh mà coi nhẹ phần Bi của nó. Cho nên tứ tuyệt của ông hầu như
không
có cảnh quân triều đình bại vong, hay những nạn nhân đau khổ vì chiến
tranh.
Ông hào hứng tả cảnh ra quân khí thế ngút trời, những nhà quân sự đại
tài
ngồi chiếu quỳnh cười nói mà phá tan quân giặc, những chiến tướng trở
về
đao vàng còn ấm máu đầu giặc treo lủng lẳng dưới cờ, những thanh niên
ra
trận như chơi bạc, đặt cược bằng tính mạng để báo ơn thiên tử và trở về
áo
gấm vua ban... ("Vĩnh Vương đông tuần ca" 11 bài, "Quân hành", "Tòng
quân hành", "Tống ngoại sanh Trịnh quán tòng quân" 3 bài, ...). Trong
bài thơ "Quân
hành", ông tả người ra trận:
"Lưu
mã, tân khoa, bạch ngọc yên,
Chiến
bãi sa trường nguyệt sắc hàn.
Thành
đầu thiết cổ thanh do chấn,
Hạp
lý kim đao huyết vị can."
Tạm
dịch:
"Yên
bạch ngọc, ngựa hồng tung vó,
Tàn
trận, trăng soi lạnh sa trường.
Trống
sắt đầu thành âm vẫn động,
Đao
vàng trong hộp máu tươi vương."
Người
xung trận cưỡi ngựa xích thố, yên bạch ngọc, sải những bước đầu tiên ra
sa trường, hình ảnh hết sức sang trọng, hào hoa và đầy khí thế. Câu một
vừa tả người xuất quân, câu hai đã thấy nói "tàn trận". Khoảnh khắc
giao tranh không hề được mô tả trực diện. Bài thơ như có chỗ hẫng,
nhưng đấy lại
truyền đạt được tâm lý bàng hoàng trước một sự việc xảy ra quá nhanh,
quá
gọn, như một chớp mắt ! Sa trường lạnh bóng trăng, tiếng trống trận tắt
rồi mà âm dường như còn chấn động. Không tả cuộc chiến mà lại lột tả
được
sát khí của nó làm người ta kinh hãi. Ngòi bút xuất thần, đọc lên như
có
hơi lạnh của tử khí. Bậc dũng tướng hào hoa, để lại sau mình một cục
diện khốc liệt đến thế, trở về như vừa qua một trò chơi dễ dàng, nhanh
gọn "Đao vàng trong hộp máu chưa khô". Khúc khải hoàn ca đó làm chiến
tranh mất đi vẻ thê thảm giống như một thử thách để lập công và lộ rõ
mặt anh hùng. Bài thơ tả phong độ hào hoa của người ra trận, sự thần
tốc và sát khí của cuộc huyết chiến, rốt cuộc lại cũng nhằm làm nổi lên
một chữ Hùng!
Không
hẳn là Lý Bạch đã thi vị hóa chiến tranh, có điều ông nhìn nó từ góc độ
vô cùng lãng mạn. Ông không hề ca ngợi chiến tranh mà chỉ phản ánh nó
như là điểm tựa để bật lên lý tưởng về cái HùNG mà ông hằng khâm phục
và theo đuổi. Suốt đời, ông chưa bao giờ ra ứng thí để chen chân vào
đường hoạn lộ, nhưng lại hai lần chủ động đầu quân, ngay cả khi ông đã
sáu mươi tuổi và một lần suýt chết chỉ vì theo Lý Lân, bị triều đình
nghi là phản nghịch. Đỗ Phủ thì ngược lại, chưa bao giờ ra trận, nhưng
thơ Đỗ viết về chiến tranh thống thiết, trầm uất. Trong bài cổ phong
nổi tiếng "Binh xa hành", ông tả cảnh tiễn người đi lính như đi vào cõi
chết, ma mới kêu oan, ma cũ khóc, thân nhân níu
áo, giậm chân, kêu gào thấu trời xanh. Lý Bạch cũng ra trận, nhưng
trong
bài tứ tuyệt "Biệt nội phó trưng" làm tặng vợ trên đường, ông tả cảnh
mình
chia tay với gia đình phấn chấn như sắp đi lĩnh thưởng :vợ con níu áo
hỏi
ngày về còn bị "đe" trước :
"...
Qui thời thảng bội hoàng kim ấn,
Mạc
học Tô Tần bất há cơ."
Tạm
dịch:
"...
Khi về nếu đeo hoàng kim ấn,
Chớ học Tô Tần chẳng xuống khung."
Ông
mượn tích người nhà Tô Tần nghe báo chồng mình đã làm tướng quốc vinh
qui nhưng vẫn ngồi yên dệt vải vì không tin, để dặn vợ hãy tin tưởng ở
ngày ông về với chiến công lẫy lừng. Niềm tin và khát vọng lập công
trong sáng đến hồn nhiên ấy xuyên suốt qua mảng thơ tứ tuyệt biên tái
của Lý Bạch, khiến
chúng mang âm hưởng đặc biệt phấn hứng, hào hùng. Đóng góp của TTLB
ở
đây không hẳn ở chỗ phản ánh hiện thực chiến tranh mà là đã ghi nhận
được
âm vang thời đại Thịnh Đường - niềm lạc quan và ý khí hào hùng của lớp
người
trong buổi hoàng kim cực thịnh triều Đường,tin ở sức mình và tin ở
tương
lai.
TTLB
ít bài lấy đề tài khuê oán, cung từ. Có lẽ vì bản tính ông phóng túng,
ưa
hành động, khí phách đại trượng phu, mà nỗi sầu của khách phòng khuê
thì
quá âm thầm, lắng đọng. Vương Xương Linh nổi tiếng về thơ cung oán, một
phần vì đời ông cũng đầy những bất như ý, bị thất sủng, bị biếm
trích... nên qua lời cung nữ bị bỏ rơi có gửi gắm cả niềm riêng oán hận
của ông. Tứ tuyệt Vương Xương Linh viết về đề tài này, khai thác rất
sâu diễn biến tâm lý của nhân vật, lời thơ dịu dàng xúc động. Tứ tuyệt
cung từ, khuê oán
của Lý Bạch lại có sức hấp dẫn riêng, tuy số lượng không nhiều nhưng có
những bài rất hay, như "Trường môn oán"(02 bài), "Xuân oán", "Vương
Chiêu Quân","Oán tình","Ngọc giai oán"... Trong bài "Trường môn oán",
ông lấy đề
tài cũ trong nhạc phủ, tả thân phận nàng A Kiều bị Hán Vũ Đế thất sủng,
lui
về lẻ loi trong cung Trường Môn:
"Quế
điện trường sầu bất ký xuân,
Hoàng
kim tứ ốc khởi thu trần.
Dạ
huyền minh kính thanh thiên thượng,
Độc
chiếu Trường Môn cung lí nhân.
Tạm
dịch:
"Điện
quế sầu dài chẳng biết xuân
Nhà
vàng bốn phía bụi thu dâng.
Đêm
treo gương sáng trên trời thẳm,
Riêng
chiếu Trường Môn kẻ chiếc thân."
Câu
một nói mùa xuân, câu hai đã sang thu, nhắc đến thời gian trôi để thấy
nỗi buồn dằng dặc không đổi. Nhà vàng để bụi thu dâng, chứng tỏ chẳng
tay
người chăm sóc, cảnh chìm trong hoang vắng, lãng quên - tuy là nói đến
nhà, nhưng lại ngầm tả thân phận người bị bỏ rơi. Hai câu kết tả cảnh
trăng
soi Trường Môn, chiếu vào cung nữ. Từ "độc chiếu" dùng rất đắt , vì
cung
điện có ai nữa đâu, nên chỉ riêng chiếu một người, vì người lẻ bóng mà
trăng
cũng thành cô độc! Cung nữ trong "Tây cung xuân oán" của Vương Xuân
Linh chủ động nhìn trăng ("Tà bão vân hoà thâm kiến nguyệt"- ôm ngả đàn
vân
hoà thăm thẳm nhìn trăng) để dấy lên những khao khát, dù là vô vọng.
Nhưng
trong "Trường môn oán" của Lý Bạch chỉ có gương trăng soi thấu thân
phận
cô lẻ của cung nữ thôi, còn bản thân nàng chẳng có hành động gì, nàng
xuất
hiện với nỗi sầu, chìm giữa nhà vàng, bụi thu và kết thúc là "cung lý
nhân"
(người trong cung), ý cam phận đã rõ. Thơ TTLB viết về cung oán
nhưng
ý "oán" không sâu hận như ở tứ tuyệt Vương Xương Linh mà chủ đề "sầu",
một
nỗi sầu mênh mang dài dặc, giữa trăng sáng, trời xanh... Vương
Xương Linh
tả cung nữ thường đẹp và khao khát tình cảm, mà càng đẹp, càng tình thì
khi
bị bỏ rơi càng oán ("Tây cung xuân oán","Tây cung thu oán","Trường Tín
oán"...)
TTLB lại đi sâu miêu tả nỗi cô đơn, lẻ loi, không nhập thân vào nhân
vật
để thốt lên lời than trách mà như đứng từ bên ngoài thuật lại với một
niềm
cảm thông sâu sắc và chia sẻ nỗi sầu vô hạn. Một số bài khuê oán trong
thơ
Lý Bạch cũng mô tả người đẹp hờn oán, nhưng vẫn là cảm nhận của người
ngoài
về tâm trạng của nàng:
"Mỹ
nhân quyển châu liêm,
Thâm
tọa tần nga mi.
Đãn
kiến lệ ngân thấp,
Bất
tri tâm hận thùy."
("Oán
tình")
Dịch
thơ:
"Ngưòi
xinh cuốn bức rèm châu
Ngồi
im thăm thẳm nhăn chau đôi mày.
Chỉ
hay giọt lệ vơi đầy,
Đố
ai biết được lòng này giận ai."
(Tản
Đà)
Bài
thơ giống như một bức họa, miêu tả mỹ nhân hờn giận mà vẫn đẹp khiến
người ta động lòng. Nó khác với tứ tuyệt Vương Xương Linh tả người đẹp
để khắc sâu ý oán. Mỗi người độc đáo theo một cách!
TTLB
có nhiều bài lấy đề tài tống biệt, bản thân đề tài này không có gì
mới.Trước Lý Bạch, dân ca nhạc phủ Nam, Bắc triều, thơ ca sơ Đường,rồi
những nhà thơ
cùng thời như Vương Duy,Vương Xương Linh, Đỗ Phủ...đều có những bài tứ
tuyệt rất hay. Song đến TTLB thì thơ tống biệt có có một giọng điệu
riêng,
kỳ lạ.
Trong
thơ cổ Trung Hoa, chỉ cần gợi lên một không gian lữ thứ là hầu như đã
dấy động nỗi buồn.Không chỉ buồn vì xa cách người thân mà còn vì tâm lý
lo âu trước một phưong trời xa lạ.Bước chân ra khỏi nơi quen thuộc đã
là cả một biệt ly, vì vậy mà cầu sông, bến nước, quan ải... được nhắc
đến trong thơ nhiều hơn bản thân cuộc hành trình bởi nó là mốc dấy lên
nhận thức về sự chia lìa,thay đổi. Thơ tống biệt vì thế mà bên cạnh nội
dung khẳng định tình cảm thương nhớ kẻ ở, người đi thường còn gửi gắm
tâm trạng lẻ loi, cảm thương thân phận và lo lắng cho tiền đồ mờ mịt.
Như bài thơ tiễn bạn nổi tiếng của
Vương Duy:"Vị Thành khúc":
"Vị
Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách
xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến
quân cánh tận nhất bội tửu,
Tây
xuất Dương quan vô cố nhân."
Tạm
dịch:
"Vị
Thành mưa sớm thấm bụi bay,
Liễu
mới xanh xanh quán trọ này.
Chén
nữa ,khuyên mời anh hãy cạn ,
Dương
Quan bạn cũ chẳng còn ai."
Hai
người bạn chia tay giữa buổi sớm mùa xuân, liễu mới xanh xanh quán trọ.
Cảnh đã chan chứa bao tình ý, nhưng cái tình ấy còn thấm thía hơn khi
người ở lại nài người đi cạn thêm chén nữa, vì e ở nơi xa cách bạn
chẳng còn ai tri kỷ để cùng nâng chén. Trong nỗi lưu luyến tiễn đưa còn
lồng dự cảm về sự trống trải mất mát, càng hiểu nhau lại càng thấy
trước sự cô đơn. Thơ tiễn
bạn của Lý Bạch nhìn chung không mấy khi có tâm lý ràng buộc và nỗi sầu
âm
trầm, lắng lại như vậy.
Lý
Bạch dành đến một phần ba cuộc đời mình để viễn du, trong những lần
ấy,ông gặp gỡ và chia tay với biết bao nhiêu người,ở biết bao nhiêu
nơi.Thế nhưng đọc các bài tứ tuyệt tống biệt của ông, thấy hầu hết là
cảnh tiễn biệt bên nước: hồ, sông, biển, bến bãi, ao đầm... Có một cái
gì đó gặp gỡ giữa tình viễn biệt và hình ảnh nước trong những bài thơ
đó của ông: cùng dào dạt, mênh
mang, đượm một nỗi sầu trong sáng, phiêu du. Như bài "Hoàng Hạc lâu
tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng "của Lý Bạch hai câu cuối cùng rất đặc
trưng:
"Cô phàm viễn ảnh bích không tận
(Có
dị bản là "bích sơn"- buồm khuất giữa núi xanh)
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu".
Dịch
thơ:
"Bóng
buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên
trời"
(Ngô
Tất Tố dịch)
Thơ
tiễn bạn mà không tả tình, chỉ tả cảnh, cánh buồm đưa bạn ra khơi, lẻ
loi, xa mờ rồi mất hút giữa bầu không gian xanh thăm thẳm, chỉ còn dòng
Trường Giang chảy mãi đến chân trời. Trong câu thơ, cả hình ảnh cũng
như tình ý đều
hướng tới miền xa: cánh buồm cứ trôi, dòng sông cứ chảy, ánh mắt dõi
theo
đến tận chân trời... không gian mở ra thanh thoáng, không cản trở, còn
tình
người ở lại chẳng những không níu bước kẻ đi mà như cũng bay bổng theo
cánh
buồm viễn du. Nỗi sầu chia tay ẩn ở dáng cô lẻ của cánh buồm, trong sự
trống
trải của dòng Trường Giang để rồi tan hoà giữa trời rộng, sông dài nên
có
buồn mà không bi luỵ, có quyến luyến mà không nặng nề, tình cảm hào
phóng,
thanh cao. Đó là một điểm khác biệt giữa tứ tuyệt tống biệt, viễn du
hay
nhớ bạn của Lý Bạch so với mảng thơ cùng đề tài của các nhà thơ trước,
đồng
thời và sau ông.
Đề
tài chiếm số lượng nhiều nhất và có lẽ được yêu thích nhất trong TTLB
là tả
cảnh ông uống rượu và du lãm. Trong số gần hai trăm bài thơ tứ tuyệt
của ông
đã có hơn ba mươi bài về rượu và say. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử
tứ
tuyệt, thơ "say" của một tác giả lại nhiều và hay đến thế. Giá trị của
nhũng
bài thơ này không ở chỗ kêu gọ thú ẩm tửu mà là vì mượn hơi cay, Lý
Bạch
đã bộc lộ rõ nhất tâm hồn, khát vọng của mình. Giọng điệu, cảm hứng thơ
do
đó cũng cực kỳ đa dạng. Có bài thơ say phơi phới muốn lên tiên ("Đồng
Quan
sơn tuý hậu tuyệt cú", "Cửu nhật Long sơn ẩm ","Thu Phố ca" bài 12...).
Có
bài rượu hoà nước mắt, càng uống càng đau buồn u uất ("Thu phố ca"bài
7,"Tống
Ân Thục", "Đề tình thâm thụ ký Tượng Công"...). Có lúc nâng chén ung
dung,
nhàn nhã ("Ký thướng Ngô Vương","Tự khiển", "Sơn trung dữ u nhân đối
chước"...).
Lại có khi tuý luý nâng vò, ngông cuồng khinh bạc ("Bồi thị lang thúc
du
Động Đình tuý hậu" bài 1,"Vịnh sơn tôn ","Lục thuỷ khúc " bài 4 ...).
Dù
buồn hay vui, rượu trong TTLB thường đi liền với trăng, nước, hoa và
nhạc,
do đó mà thơ say của Lý Bạch tình điệu nói chung đẹp đẽ,phóng khoáng mà
lại
mang chất phiêu du, thoát tục. Ngay cả khi ông uống rượu giải sầu.thì
cái
sầu ấy cũng khác thường:
-
..."Ba Lăng vô hạn tửu
Tuý
sát Động Đình thu"
("Bồi
thị lang thúc du Đông Đình tuý hậu")
(
Ba Lăng rượu uống vô hồi
Say ngất giữa mùa thu Động Đình ).
-"
...Không ngâm bạch thạch lạn
Lệ
mãn hắc điêu cầu. "
(
Ngâm suông nát đá trắng
Lệ đẫm áo điêu đen )
Cảnh
ông uống rượu bao giờ cũng thanh lịch, sang trong, khiến người ta ít
nghĩ tới những đau buồn thế tục, nếu có thì nó là nỗi sầu thu trên Động
Đình hồ mĩ lệ, hay tâm sự u uất dưới trăng thanh, bên bóng trúc... Nó
khác hẳn với cảnh ông già Đỗ Phủ ốm bệnh, nâng chén rượu đục cảm thương
cho cảnh tao loạn đói nghèo, nhưng nó cũng khác với lối hoan lạc tầm
thường, vì rượu trong
TTLB không bao giờ là cứu cánh, nó là con đường để giải phóng tâm hồn
khỏi
mọi qui ước, ràng buộc, cất cánh những ước mơ. Cho nên trong bài tứ
tuyệt
"Đáp Hồ Châu Gia Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân", Lý Bạch tự nhận mình:
"Thanh
Liên cư sĩ,trích tiên nhân,
Tửu
tứ tàng danh, tam thập xuân"...
(Thanh
Liên cư sĩ -tiên giáng trần,
ẩn
danh quán rượu ba mươi xuân...)
"Rượu"
chỉ là để "ẩn danh" còn "Tiên" mới là bản chất của ông.
TTLB
viết về rượu, phong vị độc đáo không ai sánh được phần lớn cũng vì chất
" tiên" thanh cao đó lại hoà trong ngất ngưởng men say, đượm sầu thiên
cổ, nửa
tiên, nửa tục. Thần tiên không có cái đau buồn ấy mà người thường lại
không
có cái phiêu dật ấy ...
Tứ
tuyệt du lãm của Lý Bạch được coi là vào loại hay nhất đời Đường. Mặc
dù thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là từ dân ca nhạc phủ Nam Bắc triều trở
đi,tràn ngập cảnh thiên nhiên, song chưa bao giờ có một thiên nhiên mỹ
lệ, vừa kỳ vĩ, vừa sống động đến như ở TTLB.
Cảnh
sắc trong TTLB không trau chuốt, phù hoa như ở thơ ca Lục triều, cũng
không nhã đạm như tranh thủy mặc trong tứ tuyệt Vương Duy. Nó mang
vẻ đẹp trong
sáng, phi phàm. Lý Bạch thích sự kết hợp giữa hai màu xanh và
trắng,
nó đem lại cho hình ảnh thơ ông vẻ tinh khiết, thanh tao:
"Hiện
Sơn lâm Hán Giang,
Thủy
lục, sa như tuyết...
("Tương
Dương khúc" bài 3)
(Núi
Hiện gần sông Hán,
Nước
biếc, cát như tuyết...)
"Lục
thủy minh thu nguyệt
Nam
hồ thái bạch tần..."
(Lục
thủy khúc)
(Nước
biếc sáng trăng thu
Phía
Nam hồ hái cỏ tần trắng...)
Những
từ "thanh" (xanh), "lục" (biếc), "bạch" (trắng), "minh (sáng), "kính"
(gương)... xuất hiện rất nhiều trong TTLB. Nước biếc, hồ thu, mây
trắng, trời xanh, trăng sáng... là không gian quen thuộc nhất. Lý Bạch
tả vượn trắng ở Thu Phố "nhảy nhót như tuyết bay, uống trăng đùa trong
nước" ("Diểu đằng phi tự tuyết. ẩm lộng thủy trung nguyệt" - "Thu Phố
ca", bài 5), rồi cảnh "Cò trắng đậu xuống mặt nước mùa thu, bay lẻ như
sương rơi" ("Bạch lộ há thu thủy. Cô phi như trụy sương" - "Bạch lộ
ti"). Tóc bạc ông soi vào gương sáng,
trắng như sương thu ("Thu Phố ca" bài 15), ông ngồi tiệc rược cùng chim
âu trắng ("Bồi thị lang thúc du Động Đình túy hậu" bài 2), "ngâm suông
nát
đá trắng" ("Thu Phố ca" bài 7), "cúi đầu lễ mây trắng" ("Thu Phố ca"
bài
17)... Ông xem người ta thả chim ưng trắng bay đơn độc giữa trời như
tảng
tuyết ("Quan phóng bạch ưng"), ông ước được sống cảnh điền viên, dắt
trâu
trắng uống nước soi vào dòng sông xanh ("Điền viên ngôn hoài"),...
Những
người nhà quê bẫy chim nhạn trắng, những chàng trai quý tộc mặt như
bạch
ngọc, cưỡi ngựa trắng yên bạc, những cô gái da tựa tuyết, chân trắng
muốt
như sương ... Màu trắng đã tinh khiết, trong thơ Lý Bạch lại luôn luôn
được
soi chiếu khi trong nước, khi dưới trăng, hoặc cộng hưởng với những sắc
bạc tương đương, nên hình ảnh thơ cứ ngời sáng, trong suốt. Không
gian
bao la khoáng đạt với những sắc màu tự nhiên, tươi sáng là đặc điểm rõ
nét
trong TTLB. Cảnh không kỳ dị, bí hiểm mà lại nhuốm vẻ thần tiên
bởi nó
thanh khiết, trong sáng quá. Và cũng rất cao sang: những
chim thú lông trắng quí hiếm, thuyền trôi giữa trăng nước mùa thu, tài
tử giai nhân du xuân đạp trên hoa rụng, rượu quí uống vô hồi, nếu có nợ
là nợ ánh trăng, nếu có sầu là sầu thu, nếu có khao khát là khao khát
giong
buồm đến bên mặt trời hoặc cưỡi trăng sáng rong chơi... Thế
giới mỹ lệ, thần tiên ấy quả là một chân trời mới mà TTLB riêng tả được.
Cảnh
trong TTLB không chỉ đẹp mà còn vô cùng hùng vĩ, và mang sức sống phi
phàm. Bút pháp tương phản - đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn rất được
ưa chuộng trong TTLB. Ông thích những kích thước khổng lồ và những so
sánh, kết hợp giữa cái cực to và cực nhỏ, cực uy nghi và cực mỏng manh,
cực nhanh và cực mạnh... vì nó rất gây ấn tượng. Cho nên nếu tứ tuyệt
Vương Duy hay tả
núi như biểu tượng của thiên nhiên thanh u, trầm tĩnh thì Lý Bạch lại
thấy
núi là lò hương vĩ đại uy nghi toả khói tím dưới ánh mặt trời ("Vọng Lư
sơn bộc bố"), là đóa phù dung vàng khổng lồ vút lên giữa trời xanh
("Đăng Lư sơn Ngũ lão phong"), là ngọn bút cao ngất xuyên thủng mây mù
("Điếu than")... Ông so sánh nó với những vật dụng bình thường để nhấn
mạnh kích cỡ phi thường. Ông tả thế núi chất ngất bằng hình ảnh "trời
nghiêng muốn rơi đá" ("Thiên khuynh dục đọa thạch" - "Thu Phố ca" bài
8) để điểm lướt ở dưới hình ảnh một cành rong mềm vật vờ trên nước
("Thủy phật kí sinh chi"), lấy cái mạnh sầm sập của núi đổ sánh với cái
mong manh của cành rong. Những cái lẽ ra khó
lay chuyển nhất, trong thơ ông lại thành ra cực động. Ông ví sông như
những
rặng núi liền phun tuyết ra ("Hoành Giang từ" bài 3), cả một dãy núi
chuyển
động thì sức mạnh phi thường biết nhường nào. Sông Ngân muôn đời vắt
trên
trời cao bị trí tưởng tượng của ông kéo tuột xuống, nhập vào dòng thác
chảy
như bay trên ngọn Lư Sơn :
..." Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi
thị Ngân hà lạc cửu thiên"
(Vọng
Lư sơn bộc bố)
(..."
Chảy bay thẳng xuống ba nghìn thước
Ta ngỡ ngân hà tuột khỏi mây"-)
Trăng
trong thơ ông chơi đùa dưới nước ("Thu Phố ca" bài 5), mặt trời có khi
bỗng
dưng rơi rụng xuống dòng sông ("Xuất kỹ Kim Lăng tử trình Lư Lục" bài
3)...
Ngay cả những khi ông hết sức miêu tả cái tĩnh thì trong đó vẫn cựa
quậy
sức sống và chuyển động. Như bài "Tĩnh dạ tứ" của ông:
"Sàng
tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương."
Dịch
thơ:
"
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ
mặt đất phủ sương.
Ngẩng
đầu nhìn trăng sáng,
Cúi
đầu nhớ quê hương."
(Tương
Như dịch)
Ông
tả một đêm yên tĩnh, ánh trăng đọng trắng đầu giường, dầy và lạnh như
sương. Cảnh rất tĩnh, nhưng tâm lại rất động, lên cao với vầng trăng,
bay xa về cố hương, bồi hồi muôn mối. Khác hẳn với Vương Duy, cũng
trong bài tứ tuyệt tả cảnh đêm vắng:"Điểu minh giản" lại dùng toàn
những chi tiết động (hoa rụng, trăng lên, chim kêu ) để đặc tả cái
tĩnh, tĩnh từ tâm lan đến cảnh, cảnh càng động lại càng thấy thanh tĩnh
vô cùng. TTLB cũng có những bài miêu
tả tâm thế thanh nhàn. Nhưng nhàn mà vẫn chưa hẳn đã tĩnh. Những bài
như
"Thu Phố ca" (bài 17), "Biệt Đông Lâm tự tăng", "Đào nguyên" (2 bài)...
tuy
có vẻ thanh thản của người đắc đạo nhưng tâm ý phiêu du, bay bổng chứ
không
tĩnh tại, trầm lắng như ở thơ Vương Duy.
Lý
Bạch yêu cái Động, thơ ông cuồn cuộn sức sống và đầy tốc độ. Thiên
nhiên trong TTLB hầu như luôn chuyển động hướng về miền xa, về nơi cao
rộng không cùng. Sông chảy đến tận trời, nước hồ trôi ra biển, hoa đào
thăm thẳm theo dòng đào nguyên, thuyền lướt bên mây trắng, người gửi
lòng theo trăng sáng, múa tay áo rộng lướt đến núi xa... Không chỉ
chuyển động mà còn chuyển động rất nhanh, con thuyền trong thơ ông một
ngày vượt nghìn trùng thiên lý, núi
non ("Tảo phát Bạch Đế thành"), nước xiết như tên bắn ("Ba nữ từ"),
thác
không chảy mà bay từ độ cao ba nghìn thước xuống ("Vọng Lư sơn bộc
bố"),
người cưỡi gió trời, như chim trong mây, một lần đi không còn tung tích
("Cổ khách hành")...
Có
thể nói rằng sự kết hợp giữa ba yếu tố Đẹp - Hùng - Sống Động đã làm
nên sắc thái độc đáo trong thơ tứ tuyệt tả cảnh, du lãm của Lý Bạch. Nó
không những đã vượt trội thơ tả cảnh trong cổ thi, nhạc phủ Hán Ngụy về
mặt hoa lệ, hơn hẳn thơ thiên nhiên phù hoa, diễm tình trong tứ tuyệt
Lục Triều và
đầu Sơ Đường ở ý vị thanh thoát, hùng mạnh, đầy sức sống, mà về tình
điệu
lại còn có phần phong phú, đa dạng hơn thơ sơn thủy của nhiều tay bút
tứ
tuyệt cự phách Thịnh Đường như Vương Duy, Vương Xương Linh, Cao Thích...
x
x x
Sự
rộng mở về đề tài và nội dung của TTLB (như đã nêu trên) bắt rễ từ bối
cảnh
phong phú của tuyệt cú Thịnh Đường. Lý Bạch không phải là hiện tượng
thành
công duy nhất. Không phải ngẫu nhiên mà đến thời ông lại bật lên nhiều
tên tuổi rạng rỡ và những chất giọng thơ khác nhau đến thế trong mảng
tứ
tuyệt. Có thể nói Thịnh Đường đã góp phần tạo ra Lý Bạch. Nhưng ngược
lại,
Lý Bạch cũng là người làm nên bước đột phá cho sự phát triển toàn diện
của
tứ tuyệt Thịnh Đường. Ông đã kế thừa thành tựu của thơ tứ tuyệt các
giai
đoạn trước: chất sống hồn nhiên của cổ thi, nhạc phủ Hán Ngụy, vẻ hoa
lệ
của tứ tuyệt Nam Bắc triều, tư tưởng thâm sâu, bút lực hùng mạnh của
tuyệt
cú Sơ Đường, và bằng thiên tài của mình nâng nó lên một trình độ mới.
Chính
vì thế mà tứ tuyệt của ông bao quát được diện phản ánh rộng chưa từng
có,
ở mảng đề tài nào cũng có những phát hiện mới mẻ, riêng biệt và giọng
điệu
thơ thì cực kỳ phong phú : có hùng, có sầu, nhàn nhã, sống động, đài
các
mỹ lệ, trong trẻo hồn nhiên...
Xét
về số lượng và nội dung, TTLB thực sự là một hiện tượng đáng lưu tâm
trong lịch trình thơ tứ tuyệt!
1.2.2
Tứ tuyệt - mảng thơ đặc sắc trong sáng tác của Lý Bạch :
TTLB
không những nổi lên như một hiện tượng độc đáo so với dòng thơ cùng
loại, mà trong tương quan với toàn bộ sáng tác của riêng Lý Bạch, nó
cũng là một
bộ phận hết sức đặc sắc.
1.2.2.1
Căn cứ vào số bài thơ của Lý Bạch in trong cuốn "Lý Bạch thi toàn tập"
(Chung Thúc Hà chủ biên, Hải Nam xuất bản xã, 1992), chúng tôi có bảng
thống kê về tỉ lệ thơ của Lý Bạch như sau :
Tứ tuyệt
|
Bát cú (luật)
|
Bài luật
|
Cổ thi (tứ, ngũ, thất ngôn)
|
Tạp ngôn
|
193 bài
|
127 bài
|
27 bài
|
596 bài
|
98 bài
|
Số
bài tứ tuyệt, đứng thứ hai sau cổ thi, chiếm gần 1/5 tổng số thơ Lý
Bạch (1041
bài). Tỷ lệ đó chưa hẳn đã thật cao, song cũng đủ để khẳng
định vị trí quan trọng của mảng thơ tứ tuyệt trong sáng tác của Lý
Bạch.
1.2.2.2
Xưa nay, người ta vẫn cho rằng Lý Bạch thành công nhất ở hai mảng :
nhạc phủ và tuyệt cú. Giáo sư Trương Trọng Thuần khi giảng về hình thức
thể loại của thơ Lý Bạch có lưu ý:
"Nhưng
không phải hình thức nào ông cũng đều thích dùng cả, ông cũng có sở
thích và sở trường của ông. Trong gần nghìn bài thơ ông để lại, phần
lớn là thơ cổ thể, nhạc phủ và tuyệt thi. Nhạc phủ và tuyệt cú của ông
thì rất hay, còn
luật thi thì ông không thích mấy. Không những ông ít làm luật thi mà
luật
thi của ông cũng kém nhạc phủ và tuyệt cú" [91:37]. ở đây có lẽ giáo sư
Trương
Trọng Thuần nói "tuyệt cú" theo nghĩa chỉ gồm luật tuyệt, vì sau đó,
ông
nhắc tới luật bằng - trắc của nó (mà cổ tuyệt thì không cần theo luật
này):
"...
Riêng về tuyệt cú thì tuy không có đối ngẫu nhưng phải giữ bằng trắc và
âm vận. Có điều Lý Bạch cũng không tôn trọng sự ràng buộc này một cách
nghiêm
khắc lắm..." [91:39].
Có
điều nếu hiểu "tuyệt cú" chỉ là luật tuyệt thì chắc chắn chưa đủ để
tách nó thành mảng riêng đối lập với "luật thi" như giáo sư Thuần đã
phân loại (vì luật tuyệt cũng nằm trong luật thi). Chúng tôi cho rằng
khi xếp "tuyệt cú" phân biệt với "luật thi", "nhạc phủ", "thơ cổ thể",
giáo sư Thuần đã chú ý đến tính chất bốn câu của nó nhiều hơn cả (khác
với "luật thi 8 câu, nhạc phủ và thơ cổ thể số câu không giới hạn), vì
ông giải thích:
"...
Ông (Lý Bạch) thích tuyệt cú không có nghĩa là ông thích luật bằng trắc
và âm vận của nó, mà có lẽ vì tuyệt cú ngắn, gần giống dân ca và có thể
dùng khẩu ngữ chăng ?" [91:39]
Mặc
dù ranh giới giữa nhạc phủ, cổ phong và tứ tuyệt không hoàn toàn minh
bạch (nhiều bài TTLB được sáng tác theo lối cổ thể – như "Tĩnh dạ
tứ"... hoặc nhạc phủ như "Thanh bình điệu"...), nhưng về đại thể, cho
đến nay các sách nghiên cứu hay tuyển chọn thơ Lý Bạch thường xếp toàn
bộ thơ ngũ, thất ngôn bốn câu của ông vào mảng tứ tuyệt, còn cổ thi,
nhạc phủ chỉ gồm những bài dài quá bốn câu. Phân loại như vậy là đã chú
ý đến số câu của bài tứ tuyệt như một tiêu chí cơ bản và "tứ tuyệt" ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa đó, tứ tuyệt có hai đặc điểm
cơ bản khác với các thể loại khác :
(Ngắn gọn, nhất thiết chỉ 4 câu (khác
với nhạc phủ, cổ phong số câu
không giới hạn, có thể dài từ chục đến trăm câu).
( Ít gò bó khác với luật thi bát cú luôn
luôn phải giữ niêm ,luật, đối,
tứ
tuyệt có thể theo luật hoặc không, ngay cả những bài theo luật cũng
không bắt buộc phải có đối).
Đặc trưng thể loại này khiến bút pháp
của Lý
Bạch trong tứ tuyệt cũng có những khác biệt riêng, và có lẽ vì thế mà
nó
làm nên phong vị độc đáo của mảng thơ này so với thơ khác loại của ông
chăng?
Nói
đến Lý Bạch là người ta nói tới một tâm hồn phóng túng, lãng mạn bay
bổng. Tìm hiểu cuộc đời ông, đọc thơ ông, có thể thấy ông chỉ thích
những cái phi
thường : núi cao, biển rộng, những con người sống và yêu hết mình...
Vậy
thì lý gì mà ông lại tìm đến với một thể thơ dù ít gò bó nhưng lại quá
bé
nhỏ như tứ tuyệt ? Và tại sao TTLB lại được đánh giá cao như vậy ngay
cả
khi người ta so sánh nó với thơ khác loại của Lý Bạch ?
Một
cái nhìn hình thức cho thấy TTLB tuy số lượng không phải nổi bật nhất
nhưng đề tài gần như lại đa dạng nhất. Thơ bát cú và bài luật của Lý
Bạch có hơn 150 bài thì non nửa là tặng bạn và tống biệt. Ngay thể ngũ
ngôn cổ thi, Lý Bạch làm nhiều nhất (534 bài) thì đề tài vẫn khá chụm :
khoảng 1/3 số bài thơ đầu đề có chữ "Tặng" - "Tống" - "Ký" - "Biệt",
còn lại một phần lớn lấy đề tài cổ (VD: "Ô dạ đề", "Đảo y thiên", "Tí
Dạ Ngô ca" ...) hoặc viết về cảnh du lãm, hoài cổ, tức sự... Đề tài
trong TTLB tương đối đều hơn, tuy có
sự chênh lệnh nhưng không quá thiên về một khía cạnh nào. Có vẻ như với
khuôn
khổ gọn nhẹ, tứ tuyệt đã len lỏi trong mọi tình huống đời sống và tâm
tư
Lý Bạch rồi để lại dấu ấn của mình ở đó.
Không
chỉ về đề tài mà giọng điệu của TTLB so với thơ khác thể của ông ít
nhiều cũng có nét riêng.
Nhạc
phủ, cổ phong của Lý Bạch (ở đây hiểu là những bài dài quá 4 câu - khác
với tứ tuyệt) viết về tâm tư khuê phụ, chinh nhân thường nhập thân vào
nhân vật để miêu tả. Những bài như "Độc bất kiến", "Đảo y thiên", "Oán
ca hành", "Trường tương tư (bài 2)... đều dùng giọng điệu của chính
người phụ nữ bày tỏ nỗi lòng, lời thơ tha thiết, đầy cảm xúc:
-
"... Quỳnh diên, bảo ác liên chi cẩm,
Đăng
chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm.
Hữu
sứ bằng tương kim tiễn đao
Vị
quân lưu hạ tương tư chẩm..."
("Đảo
y thiên")
Tạm
dịch:
"...
Chiếu ngọc màn thêu cây liền cành,
Nến
soi giường lẻ sáng năm canh.
Kéo vàng, ai có đưa tin đến,
Cắt
gối tương tư thiếp tặng chàng...
-
"... Tĩch thời hoành ba mục,
Kim
vi lưu lệ tuyền.
Bất
tín thiếp trường đoạn,
Qui
lai khán thủ minh kính tiền."
("Trường
tương tư" bài 2)
Tạm
dịch:
...
Ngày xưa sóng mắt liếc,
Mà
nay suối lệ tràn.
Không
tin lòng thiếp nát tan,
Ngày
về gương sáng xin chàng thử trông.
Trong
khi đó, TTLB viết về đề tài này lại chỉ đứng từ bên ngoài, miêu tả cái
biểu
kiến để ngầm gợi lên tâm trạng,. Như bài "Oán tình" tả người đẹp khóc
mà
oán, hay như bài "Xuân oán":
"Bạch
mã kim ki Liêu Hải đông,
La
duy, tú bị ngọa xuân phong.
Lạc
nguyệt đê hiên khuy chúc tận,
Phi
hoa nhập hộ tiếu sàng không."
Tạm
dịch:
Ngựa
trắng dàm vàng đi Liêu Hải,
Gió
xuân nằm trướng lụa, chăn thêu.
Trăng
lặn bên song nhòm nến lụi,
Hoa
bay giường vắng cười khơi trêu.
Bài
thơ toàn là tả cảnh, không một lời nói về tâm trạng. Người đọc chỉ có
thể hình dung một khuê phụ chồng xa mãi tận đông Liêu Hải, đêm gió xuân
về nằm trơ trọi giữa trướng lụa chăn thêu. Nếu cắt dọc bài thơ theo cấu
trúc 4/3, sẽ thấy hai nửa đối lập. Một bên là những hình ảnh đẹp đẽ,
xuân tình:
"Ngựa
trắng dàm vàng" (tượng trưng cho người công tử phong lưu mã thượng),
"trướng lụa chăn thêu" (cảnh chăn gối xa hoa), "trăng lặn", "hoa bay"
(thiên nhiên tình tứ). Còn nửa kia là những xa cách ("Liêu hải đông"),
cô lẻ (nằm với gió xuân - tức là không người), thao thức hoài phí (nến
tàn), trớ trêu (cười giường không). Sự đối lập không nằm giữa các liên
thơ mà ngay trong từng câu dường như gợi ý thiếu phụ nhìn đâu cũng thấy
trớ trêu, bẽ bàng. Thiên nhiên rất đa tình : gió xuân vào màn lụa,
trăng nhòm bậu cửa, hoa bay vào nhà, thế mà người lại vô tình xa mãi. ý
"hoa cười giường không" tưởng nhẫn tâm trước cảnh cô quạnh của thiếu
phụ nhưng lại diễn tả rất đắt tâm trạng chua xót, hờn tủi (chứ không
phải là sầu nhớ). Bài thơ toàn là tả cảnh nhưng lại gợi rất sâu nội
tâm. Tình cảm không bộc bạch thành lời lại càng dồn nén, chất chứa. Nó
gợi cảm giác rằng người ta có thể thấy và cảm thông nhưng sẽ không bao
giờ thâm nhập đến tận cùng được cõi tâm tư sâu thẳm của nhân vật. Nếu
so với những hình ảnh khuê phụ tương tư trong các bài thơ dài của Lý
Bạch
sẽ thấy chúng rất khác. Cái hay của "Đảo y thiên", "Oán ca hành",
"Trường can hành", "Thiếp bạc mệnh"... là ở sự diễn tả đầy xúc động tâm
tư của nhân vật, những tưởng nhớ miên man, ví von nhắn gửi, tình cảm
dạt dào cuốn người ta vào cuộc, cùng sống và chia sẻ bao nỗi niềm khắc
khoải. Còn cái hay của những bài tứ tuyệt như "Xuân oán", "Oán tình",
"Ngọc giai oán"..., lại là ở sự gợi tả, khiến người ta cảm thấy như
mình đứng trước một bức họa tinh tế, khao khát muốn thâm nhập vào đó và
bất lực - hay nói như ý thơ của Lý Bạch nó giống như trăng :"Người
không thể với lên trăng sáng, trăng vẫn mãi đi theo người" ( "Nhân phan
minh nguyệt bất khả đắc , nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ" - "Bả
tửu vấn nguyệt").
Nhìn
chung lại thì TTLB giọng điệu cảm xúc tương đối ghìm nén hơn so với thơ
dài khác thể của ông. Không chỉ khi nói về những con người khác mà ngay
khi về chính Lý Bạch cũng vậy, TTLB ít tả diễn biến tâm trạng, những
mâu thuẫn tư tưởng mà thường chỉ khắc họa một nét tâm tư, suy nghĩ.
Những bài cổ thi, nhạc phủ của ông, chỉ nói một chuyện uống rượu mà
tình ý miên man, khi vui, khi buồn, tưởng tượng bay bổng ("Tương tiến
tửu", "Xuân nhật túy khởi ngôn chí", "Xuân nhật độc chước", "Nguyệt hạ
độc chước"...). Như bài "Tương tiến tửu":
"Há chẳng thấy
Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển chẳng quay về
Lại chẳng thấy
Thềm cao gương soi rầu tóc bạc
Sớm như tơ xanh, chiều tựa tuyết?
Đời người đắc ý hãy vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt
Trời sinh thân ta, hẳn có dùng,
Nghìn vàng tiêu hết rồi lại đến..."
(Hoàng Tạo và Tương Như dịch)
Ông
bắt đầu từ nỗi sầu để khuyên người ta hãy vui tràn. Ông bảo đời người
ngắn ngủi nên phải tận hưởng niềm vui. Nhưng chưa tận hưởng thì ông đã
nghĩ tài của mình sẽ được dùng, tức là ông còn khao khát xông vào
trường đời lắm. Rồi ông lại muốn lưu danh thiên cổ như một thánh rượu
vĩ đại, say mãi không bao giờ tỉnh:
"... Này cỗ ngọc nhạc rung chẳng
chuộng,
Muốn say hoài chẳng muốn tỉnh chi.
Thánh hiền tên tuổi bặt đi,
Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn
đời..."
Tưởng
ông đã tìm được ở rượu niềm vui quên, nhưng cuối cùng, hóa ra ông uống
để tiêu mối sầu muôn thuở:
" ... Đây ngựa gấm, đây áo cừu,
Này con, đổi rượu hết
Cùng nhau ta giết cái sầu nghìn thu."
(Hoàng
Tạo, Tương Như dịch)
Có
thể thấy tình ông dào dạt, cảm khái nhưng lòng ông đầy mâu thuẫn. Vai
muốn mang gánh nặng cuộc đời mà lòng thì muốn vô tư. Vừa cuồng phóng,
khinh bạc
trong tiệc rượu nhưng lại u uất sầu nhân thế. Giọng thơ như buồn bã,
lại
như hào hứng, nửa say, nửa tỉnh, kỳ lạ hiếm có. Nhiều bài cổ phong,
nhạc
phủ khác của ông cũng bày tỏ tâm trạng phức tạp như vậy. Bài "Nguyệt hạ
độc chước" (bài 4), ông bảo "Sầu nhiều rượu tuy ít. Uống rượu cho sầu
lui",
nhưng say rồi thì ông hân hoan phơi phới, thấy "Gò rượu là Bồng lai",
chỉ
muốn cưỡi trăng túy lúy trên đài cao, chẳng màng gì thế tục nữa. Bài
"Hành
lộ nan", ông loay hoay giữa hai ngả đường "xuất" - "xử", khi ngồi tiệc
rượu
thì động lòng bốn phương, khi nhàn nhã buông câu thì mơ được đến bên
"mặt
trời", vừa than thở đường đi khó, lại vừa muốn xông thẳng vào đó :
"Đè sóng cưỡi gió hẳn có lúc,
Treo thẳng buồm mây vượt biển khơi."
(Hoàng
Tạo dịch)
TTLB
ít có bài diễn tả những chuyển biến tâm lý phức tạp như vậy. Không phải
là tâm hồn Lý Bạch đơn giản đi trong tứ tuyệt, vì người ta vẫn tìm thấy
ở
TTLB bài buồn, bài vui, bài cuồng phóng, bài nhàn dật... đủ mọi cảm
hứng, suy tư. Có điều nếu những bài thơ tả tâm trạng dài của Lý
Bạch hấp dẫn người đọc bởi sự đan xen những tình cảm trái ngược, bâng
khuâng kỳ lạ thì TTLB lại hay ở khắc họa một nét tâm tư, gợi lên một
nỗi niềm. Bài "Bồi thị lang thúc du Động Đình túy hậu" (bài 2):
"Thuyền thượng tề nhiêu lạc,
Hồ tâm phiếm nguyệt qui.
Bạch âu nhàn bất khứ,
Tranh phật tửu diên phi."
Tạm
dịch :
Chèo thuyền đều đặn nhạc rung
Lòng hồ lãng đãng trăng cùng thuyền
trôi
Bạch âu nhàn nhã không rời
Tranh nhau bay lướt qua nơi chiếu
quỳnh.
Lý
Bạch tả cảnh ông uống rượu ở Động Đình hồ trở về, trăng cũng theo đi,
cò trắng chẳng chịu rời, quấn quít bay lướt qua chiếu rượu. Không nói
"người về" mà nói "trăng về" ("Nguyệt qui", không nói "người nhàn" mà
nói "chim nhàn" ("Bạch âu nhàn"), con người di chuyển đã kéo cả thiên
nhiên theo quanh mình và để tâm tình lan tỏa tràn ngập vũ trụ. Nhịp
điệu nhàn du ngân lên từ
tiếng chèo thuyền đều đặn, qua dáng bồng bềnh trôi của vầng trăng
("phiếm nguyệt"), đến cái lướt cánh bình yên của chim âu trên tiệc
rượu. Cả bài thơ toát lên một cảm hứng nhất quán về sự vô tư, thanh
thản, cả thuyền, trăng, chim và người như đều thả mình trôi trong yên
bình, không vướng bận. Lý Bạch không trình bày, diễn giảng tâm trạng
của mình. Ông đã để người đọc tự nhiên thâm nhập vào thế giới của ông
và cảm nhận nó như là ông đã cảm. Có lẽ vì tứ tuyệt bé nhỏ mà lòng ông
lại quá bao la, nếu dùng lời mà tả thì không hết
được, cho nên ông chỉ gợi lên một bối cảnh để ngỏ, đưa khoảnh khắc tâm
tư
vào vĩnh viễn. Cái phi thường của Lý Bạch ở những bài thơ trường thiên
như
"Tương tiến tửu", "Nguyệt hạ độc chước"... được thể hiện qua việc khắc
họa
một nhân cách đầy trăn trở, hoài bão, khát vọng. Còn ở thơ tứ tuyệt, nó
lại nằm trong sự cực tả tâm trạng :thật nhàn, thật sầu, thật cuồng...,
người
thường không sánh được !
Hướng
tới gợi tả một cảm xúc tột đỉnh, TTLB không những ít khắc họa mâu thuẫn
tư tưởng mà ngay cả cử chỉ bộc lộ tâm trạng của nhân vật cũng được miêu
tả
có chọn lọc hơn. Như bài "Nguyệt hạ độc chước" (bài 1), Lý Bạch uống
rượu,
nâng chén, hát, múa, hẹn hò... náo nhiệt, hoạt bát. Bài "Hành lộ nan",
ông dằn chén, ném đũa, vung gươm, muốn đi xa, lên cao, ngồi câu cá, mơ
cưỡi thuyền đến bên mặt trời, khao khát phá sóng gió, giương buồm ra
khơi;
cả bài là những chuỗi động từ chỉ hành động ... Đến TTLB thì ngay cả ở
những
bài thơ cuồng phóng nhất, nhân vật cũng chỉ hiện lên với một, hai hoạt
động,
cử chỉ nhất định. Chùm tứ tuyệt "Hoành Giang từ" 6 bài của Lý Bạch, đề
tài
rất giống "Hành lộ nan", cùng tả đường đi sóng gió để càng dấy lên khát
vọng
nhập thế, nhưng nhân vật thì hầu như không hành động gì. Xin trích ra
đây
một bài tiêu biểu :
"Hoành
Giang từ" bài 3 :
"Hoành
giang tây vong trở tây Tần,
Hán
thủy đông lưu Dương Tử tân.
Bạch
lãng như sơn ná hà độ ?
Cuồng
phong sầu sát tiếu phàm nhân. "
Tạm
dịch:
Hoành
giang cách trở ngóng tây Tần,
Sông
Hán về đông đến bến Dương.
Sóng
như núi trắng sao qua được ?
Cuồng
phong sầu giết kẻ buồm giương.
Con
người ở đây không có cử chỉ nào khác ngoài ngóng trông ("vọng"). Từ
Hoành Giang nhìn về phía tây, thấy tây Tần (Trường An) sao mà cách trở.
Lại biết rằng theo sông Hán về đông là đến bến Dương Tử, một đầu mối
giao thông ở hạ lưu Trường Giang. Thế nhưng sóng trắng cao như núi, gió
dữ điên cuồng không qua được, người khách đã giương buồm sẵn sàng để ra
đi đành ôm mối sầu chết người. Từng câu thơ đều xoáy đi xoáy lại vào
hình ảnh con đường. Câu một tả người nhìn, các câu sau nối tiếp tả
cảnh, cho thấy ánh mắt người vẫn đăm đắm trông vọng. Không phải là con
người này không biết làm gì khác mà là toàn bộ tâm hồn đã hướng cả vào
việc ra đi, nay không đi được thì bao nhiêu tâm trạng dồn cả vào một
hành động:"nhìn" con đường. Chỉ một cử chỉ mà khắc họa được rất sâu tâm
lý khát khao hành động và nỗi sầu vô hạn khi phải bó tay. Hơn nữa, Lý
Bạch sáng tác "Hành lộ nan" khoảng năm 730, khi ông
còn ôm ấp ảo tưởng về một đấng minh quân, cho nên vừa khát khao ngưỡng
vọng
vừa sung sức hành động. Còn "Hoành Giang từ" được viết năm 754, hơn
mười
năm sau khi Lý Bạch chủ động rời bỏ triều đình vì thất vọng, mặc dù vẫn
khao
khát hướng về kinh đô nhưng ông cũng biết là muôn vàn khó khăn. Cho nên
cái
nhìn thay cho hành động, nỗi sầu chất ngất. Cử chỉ, tâm lý được miêu tả
tuy
ít nhưng rất chân thực và điển hình.
So
với ở các thể thơ khác, giọng điệu cảm xúc trong TTLB có vẻ ghìm nén
hơn, và do đó cách bộc lộ cũng tương đối khách quan hơn. Ông không
những ít khi dùng lời của nhân vật để trực tiếp nói lên tâm trạng mà
ngay cả những suy tư, triết lý thế sự ông cũng không hay nói ra trong
tứ tuyệt. Những bài nhạc phủ, cổ phong của ông thì ngược lại, bày
tỏ rất rõ quan điểm của ông :
- "... Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh... "
(Xuân nhật túy khởi ngôn chí)
( Sống ở đời như giấc mộng lớn,
Tội chi vất vả đời mình... )
- "... Công danh phú quý nhược trường
tại,
Hán thủy diệc ưng tây bắc lưu..."
(Giang thượng ngâm)
(Công
danh phú quí mà tồn tại lâu dài
thì
sông Hán cũng phải chảy ngược hướng tây bắc)
Ông
lý luận về rượu :
"Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô Tửu tuyền
Thiên địa ký ái tửu
ái tửu bất quí thiên..."
("Nguyệt hạ độc chước" bài 2)
(Nếu trời không thích rượu
Sao Rượu ở chi trời ?
Nếu đất không thích rượu,
Suối Rượu ở chi đời ?
Trời đất đã thích rượu,
Thích rượu không thẹn trời...)
Trần Trọng San dịch.
Ông
lên tiếng chê cả môn đồ của Khổng Tử :
"Lỗ tẩu đàm Ngũ Kinh,
Bạch phát tử chương cú.
Vấn dĩ kinh tế sách,
Mang nhiên trụy yên vụ..."
("Trào
Lỗ nho")
(Ông già nước Lỗ học Ngũ Kinh,
Bạc đầu nhai chết từng chương cú,
Hỏi ông giúp đời thế nào đây?
Mờ mịt như người mây khói phủ..."
-(Hoàng
Tạo dịch)
Nhưng
đến TTLB thì ít có giọng điệu lý sự ấy. Người ta hiểu ông qua cách ông
miêu
tả hành động và cảm nhận thế giới. Ông cũng triết lý, nhưng một
cách
gián tiếp và nhuần nhuyễn hơn. Như ý tưởng của ông về Đạo ở bài
"Sơn
trung vấn đáp" thật là minh triết :
"Vấn dư hà ý thê bích sơn,
Tiếu nhi bất đáp, tâm tự nhàn.
Đào hoa lưu thủy diểu nhiên khứ,
Biệt hữu thiên địa phi nhân gian "
Tạm
dịch :
Hỏi
ta sao dừng ở núi xanh,
Cười
chẳng buồn thưa tự thấy nhàn.
Đào
trôi thăm thẳm theo dòng nước,
Riêng
đất này đâu phải nhân gian."
Ông
không biện luận, bởi vì Đạo là tự nhiên. Ông dừng lại ở núi xanh vì
lòng ông nhàn hay núi xanh làm ông tự nhiên nhàn? Không ai biết được.
Nhập thân vào cảnh, ông đã quên ngay người đối thoại để thấy mình thành
tiên ở chốn đào nguyên rồi. Cử chỉ làm thinh và hoà nhập bản thể vào tự
nhiên đó chính là hình tượng hóa tư tưởng Vô Vi của Đạo... Lý Bạch
không trực tiếp nêu quan điểm triết lý của mình trong tứ tuyệt có lẽ vì
khuôn khổ của thể thơ này nhỏ
bé. Vài câu triết lý đủ choán hết bài thơ và biến nó thành một thứ
tuyên ngôn
cứng nhắc, khô khan. Ông lồng tư tưởng của mình trong hình tượng thơ
một
cách tự nhiên, chính là đã vận dụng nguyên tắc "dĩ thiểu kiến đa" của
tứ
tuyệt, khiến bài thơ hình thức giản dị mà tư tưởng thâm sâu, "ngôn
tuyệt ý
bất tuyệt".
Trên
đây là nói về những bài TTLB miêu tả con người và tâm trạng. Còn tứ
tuyệt
tả cảnh của Lý Bạch cũng có những nét độc đáo riêng so với thơ tả cảnh
khác thể của ông.
Một
cái nhìn bao quát có thể thấy rằng trong TTLB đột nhiên vắng hẳn những
khung cảnh thần tiên, mộng ảo mà xuất hiện tương đối nhiều trong nhạc
phủ, cổ phong của ông, có những bài như "Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu
biệt", "Thục đạo nan"... Lý Bạch toàn tả cảnh tượng kỳ dị, như trong
truyền thuyết, trong mơ :
"
..Trên là ngọn núi cao ngất chắn thần mặt trời cưỡi sáu con rồng bắt
quay trở lại
Dưới
thì ngọn suối uốn quanh, sóng cuộn ngược dòng.
Hạc vàng bay cao cũng không thể qua,
Vượn khỉ muốn qua cũng buồn phải leo
trèo khó nhọc..."
(Thục
đạo nan)
("... Cầu vồng làm áo, gió làm ngựa,
Thần mây bay xuống rộn ràng.
Hổ gẩy đàn, chim loan kéo xe,
Người tiên đông như kiến cỏ..."
(Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt)
Cảnh
trong TTLB tương đối thật hơn. Cũng có khi ông để trí tưởng tượng
của
mình bay bổng, nhưng đều xuất phát từ một hình ảnh có thật hoặc chí ít
là gần với thật. Những bài ông tả cảnh Thu Phố hoang sơ, kỳ vĩ ("Thu
Phố
ca" 17 bài), Động Đình hồ mĩ lệ, thần tiên ("Bồi thị lang thúc du Động
Đình
hồ túy hậu" 3 bài) hay Hoành Giang phong ba dữ dội ("Hoành Giang từ" 6
bài)...
tuy cảnh sắc kỳ lạ, phi thường nhưng vẫn không hoàn toàn xa lạ.
Sức hấp dẫn trong thơ tứ tuyệt tả cảnh
của Lý Bạch không nằm ở sự chồng
chất những
hình ảnh liên hoàn kỳ lạ làm choán ngợp người thưởng thức. Cảnh
trong
TTLB thường đọng ở một, hai hình ảnh trung tâm, sắc nét, đầy ấn tượng. Như
bài "Thu Phố ca" (bài 8):
"Thu Phố thiên trùng lĩnh,
Nhân hành lộ tối kỳ.
(Có
dị bản :"Thuỷ Xa lĩnh tối kỳ")
Thiên khuynh dục đọa thạch,
Thủy phật ký sinh chi."
Tạm
dịch :
Núi non Thu Phố nghìn trùng,
Nơi đây làm khách lạ lùng nhất thôi.
Trời nghiêng cho đá muốn rơi,
Dây leo mặt nước lướt trôi lững lờ.
Bài
thơ tả cảnh núi Thủy Xa ở Thu Phố.
Câu thơ đầu phác họa một thế núi non trùng điệp. Câu thơ thứ hai thu
lại, nói về cảm giác của người đi đường, thấy Thủy Xa là kỳ lạ nhất.
Tuy
không trực tả nhưng đã đem cả nghìn trùng núi non ở Thu Phố để làm nổi
lên
vẻ kỳ lạ duy nhất của Thủy Xa. Hai câu thơ đầu phác họa ấn tượng nổi
bật
về ngọn núi ("kỳ" - lạ). Hai câu thơ sau đi vào miêu tả nó qua một cặp
hình ảnh đối lập. Vách đá nghiêng đã đáng sợ, Lý Bạch còn cực tả nó
bằng cách nói phóng đại "Thiên khuynh dục đọa thạch" (Trời nghiêng đá
muốn rơi), vừa
hình dung được thế chắn ngang trời của núi đá, vừa gây cảm giác đá rơi
trời
sập, chênh vênh khủng khiếp. Tương phản với nó, Lý Bạch điểm một nét tả
nhành dây leo vật vờ trên nước. Đặt dưới sức mạnh ngàn cân của núi sắp
sập
kia mới thấy sự mong manh của nó biết nhường nào. Chỉ bằng vài nét
phác, Lý Bạch đã dựng lên trong bài tứ tuyệt của mình ngọn Thủy Xa hùng
vĩ, núi kề bên nước, uy nghi mà sống động, không chỉ tả được vẻ đẹp kỳ
lạ, hiểm trở
của núi mà còn gợi được cảm giác rợn ngợp trước thiên nhiên quá hoang
sơ,
vĩ đại. Cũng về cảnh Thu Phố, đề tài và cảm hứng tương tự, bài "Thu Phố
ca" số 10 của Lý Bạch viết theo thể ngũ cổ lại có bút pháp miêu tả
khác: "Thiên thiên thạch nam thụ, Vạn vạn nữ trinh lâm, Sơn sơn bạch lộ
mãn, Giản giản bạch viên ngâm. Quân mạc hướng Thu Phố, Viên thanh toái
khách tâm."tạm dịch:
" Thạch nam nghìn nghìn gốc, Nữ trinh
vạn vạn rừng, Núi núi đầy cò
trắng, Khe khe vượn hú vang. Chớ hướng về Thu Phố, Vượn kêu lòng nát
tan. "ở đây là sự chồng chất của những hình ảnh tương đồng. Thạch nam,
nữ trinh, cò trắng, vượn trắng - những thảo mộc và cầm thú hoang dại
tràn ngập khắp nơi, từ đó mà thấy được Thu Phố buồn vắng bóng người đến
thế nào. Bài thơ dài sáu câu, bốn câu đầu tả cảnh, có cùng một lối điệp
từ, cú pháp và hình ảnh. Giả sử cắt bớt đi hai câu, làm thành một bài
tứ tuyệt, nửa trên tả cảnh, dưới tả tình, ta sẽ có bài thơ như sau:
"Thạch nam nghìn nghìn gốc, Khe khe vượn hú vang, Chớ hướng về Thu Phố,
Vượn kêu lòng nát tan. "Về hình thức có vẻ tương đối đủ ý : cũng nói về
cây dại tràn lan (thạch nam), thú hoang sơ (vượn trắng) và tình người
sầu. Thế nhưng toàn bộ cái hay của bài thơ đã mất. Sở dĩ Lý Bạch cố ý
đặt bốn câu đầu tả cảnh cùng một kiểu hình ảnh là để diễn tả sự hoang
dại tràn lan và nhàm chán. Cắt đi một nửa số hình ảnh chính là đã phá
bỏ tất cả vì cảm giác không lối thoát giữa hoang vu kia đã mất. Rất
nhiều bài thơ trường thiên của Lý Bạch đã sử dụng thủ pháp điệp hình
ảnh này để làm tăng ấn tượng. Trong khi đó, bút pháp tả cảnh đặc trưng
của TTLB lại là gợi nhiều hơn tả, chấm phá một hai hình ảnh trung tâm
để gợi lên những tưởng tượng sâu rộng hơn về toàn cục,
- như bài "Thu Phố ca" số 8 đã phân tích trên. Do đặc điểm thể loại hết
sức
ngắn gọn, nghệ thuật kết cấu đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tứ
tuyệt.
Để đạt tới một bút pháp tả tình, tả cảnh hàm súc như trên, Lý Bạch đã
vận
dụng nhiều hình thức kết cấu đa dạng trong tứ tuyệt. ý nghĩa của những
bài
thơ trường thiên của Lý Bạch thường bộc lộ rõ qua xâu chuỗi các hình
ảnh,
cảm xúc, nhịp điệu. Còn trong TTLB, nhiều khi hàm ý sâu xa Lý Bạch lại
gửi
gắm ở kết cấu chứ không phải trong bản thân hình ảnh được miêu tả. Như
bài
"Tặng nội" : "Tam bách lục thập nhật, Nhật nhật túy như nê. Tuy vi Lý
Bạch phụ, Hà dị Thái Thường thê. "Tản Đà dịch thơ:
Ba trăm sáu chục ngày trời Ngày ngày say
bét như đời con nê. Vợ chàng
Lý Bạch ta kia Như ai vợ Thái Thường xưa khác gì.Nếu chỉ căn cứ trên
lớp nghĩa
bề mặt thì đây đúng là một bản "tự kiểm điểm" và là bài thơ thương vợ
của
Lý Bạch. ái ngại cho bà lấy phải một ông chồng một năm ba trăm sáu mươi
ngày say bét, đúng là "hữu danh vô thực", chẳng khác gì vợ quan coi
miếu
Thái Thường. Thế nhưng hàm ý tinh nghịch của bài thơ lại nằm ở vế đối
"Lý
Bạch phụ" - "Thái Thường thê". Vợ Lý Bạch chẳng khác gì vợ Thái Thường,
nghĩa là về một khía cạnh nào đó, Lý Bạch và Thái Thường cũng giống
nhau.
Thái Thường nổi tiếng trong lịch sử là một ông quan trai giới rất
nghiêm,
đến vợ cũng không dám gần để giữ mình chay tịnh coi sóc tôn miếu. Còn
Lý
Bạch lại là một "sâu rượu" say bét quanh năm. Vậy mà cái tật bê tha của
Lý Bạch lại nghiễm nhiên sánh với cái đức tôn nghiêm của Thái Thường
trong
một so sánh tương đương hợp lý đến nỗi không ai phủ nhận được. Khẩu khí
ngông của Lý Bạch ngụ trong việc vận dụng phép đồng loại đối ở liên thơ
cuối và ý tứ của bài thơ vượt lên xuất sắc cũng nhờ ở kết cấu này.Một
bài
tứ tuyệt khác của Lý Bạch:
"Việt
trung lãm cổ": "Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô qui, Nghĩa sĩ hoàn gia
tận cẩm y Cung nữ như hoa mãn xuân điện Chí kim duy hữu giá cô phi.
"Trần
Trọng Kim dịch thơ :
"Việt
Câu Tiễn đánh Ngô vềQuan quân khắp mặt cẩm y lại nhàĐiện xuân cung nữ
như hoaĐến nay chỉ thấy đa đa bay cùng. "Bài thơ này có kết cấu 3/1 :
Ba câu đầu liên tiếp tả cảnh Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô đại thắng,
quân sĩ áo gấm
vinh qui bái tổ, cung điện mùa xuân mỹ nữ đầy mơn mởn như hoa... và câu
cuối đối nghịch lại, điểm một nét hiện thực điêu tàn : gà gô bay trên
nền
cung cũ. Bài thơ không có câu chuyển, hoặc có thể coi câu chuyển cũng
chính
là câu kết. Kết cấu 3/1 chênh lệch này gợi tả nỗi luyến tiếc của con
người
khi phải bứt mình ra khỏi dĩ vãng hoàng kim, và sức nặng ám ảnh của quá
khứ đè nặng trên hiện tại. Bài thơ mở đầu bằng sự hưng thịnh của nhà
Việt
trên sự đổ vỡ của nhà Ngô để rồi kết thúc bằng hình ảnh điêu tàn của
nhà
Việt. Lý Bạch không chỉ ngậm ngùi cho số phận thay đổi của triều đình
Câu
Tiễn. Sâu xa hơn thế, nó là về lẽ hưng vong của lịch sử. Và kết cấu 3/1
không cân xứng này phải chăng còn gợi tả cái đỏng đảnh của con tạo xoay
vần
? ... Có thể thấy rằng kết cấu đóng vai trò quan trọng trong việc nhấn
mạnh,
bổ sung các tầng ngữ nghĩa cho TTLB. Ngay cả ở những bài có một kết cấu
thông
thường thì trình tự giữa các câu cũng là không thể thay đổi và mang ý
nghĩa
nhất định. Chính bởi kết cấu giữ một vai trò quan trọng như thế trong
TTLB
mà xuất hiện một hiện tượng đáng lưu ý: Mặc dù Lý Bạch ít thích gò bó
song
những bài tứ tuyệt theo luật của ông lại chiếm tỉ lệ đến hơn một nửa,
một
số bài có đối. Nhiều bài tứ tuyệt lấy đề tài trong nhạc phủ, cổ thi
nhưng
hình thức thì lại viết theo luật ("Tương Dương khúc" bài 4, "Lục thủy
khúc"
...). Số bài tứ tuyệt đúng luật cũng rất nhiều (Riêng thơ ngũ tuyệt
của
Lý Bạch có 98 bài thì gần 50 bài là đúng luật!). Kết cấu của
những
bài thơ này nhìn chung tề chỉnh, cân đối. Sở dĩ có hiện tượng như vậy
có
lẽ là vì tứ tuyệt luật thi không gò bó rắc rối như bát cú mà thanh luật
thì
lại uyển chuyển, hài hoà hơn thơ cổ thể. Và hình thức đối cho phép mở
rộng
trường ngữ nghĩa, tăng tính hàm súc của câu thơ lại đặc biệt hữu dụng
với
dạng thơ khuôn khổ nhỏ hẹp như tứ tuyệt. Một điểm nữa là ngôn ngữ trong
TTLB
dường như cũng được cô đọng và tinh giản hơn so với ở thơ khác thể của
ông.
Nhạc phủ, cổ phong trường thiên của Lý Bạch sử dụng khá nhiều hư từ.
Như
bài "Thục đạo nan" của ông, câu mở đầu đã xuất hiện hàng loạt thán từ
và
hư từ : " Y ! Hu ! Hi ! Nguy hồ cao tai ! Thục đạo chi nan,
nan
ư thướng thanh thiên..." (Ôi chao ! Ghê thay ! Nguy hiểm và cao thay !
Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh).Tứ tuyệt theo thể cổ
phong,
nhạc phủ của Lý Bạch hư từ rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay.
Không
những thế, thơ cổ thể không giới hạn về số chữ trong câu, những bài
nhạc
phủ, cổ phong của Lý Bạch câu dài, câu ngắn, rất phóng túng. Như bài
"Tương
tiến tửu", có câu dài tới mười chữ ("Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên
thượng lai"), có câu lại chỉ có ba chữ ("Tương tiến tửu". "Bôi mạc
đình").
Bước sang thể tứ tuyệt, mặc dù cũng theo lối cổ thể, nhưng số chữ trong
câu
luôn luôn chỉ là 5 hoặc 7, không bao giờ dài hoặc ngắn hơn. Gần 200 bài
TTLB,
chỉ có 3 bài viết theo thể tạp ngôn, mà cũng là kết hợp giữa hai câu
đầu
5 chữ với hai câu sau 7 chữ. Có thể thấy rằng về hình thức kết cấu
và
ngôn ngữ, TTLB có khuynh hướng đi vào qui củ hơn thơ khác loại của ông
rất
nhiều. Nhìn chung lại, TTLB không chỉ về đề tài, nội dung, giọng
điệu
mà cả về bút pháp nghệ thuật cũng có những điểm riêng biệt so với thơ
khác
thể của ông. Nếu như thơ nhạc phủ, cổ phong trường thiên của Lý Bạch
mạnh
về phô bày những cảm xúc mãnh liệt, tư tưởng phức tạp, hình ảnh liên
hoàn
chồng chất gắn với tưởng tượng bay bổng, nhạc điệu phóng túng và hình
thức
tự do thì TTLB lại có đặc trưng cơ bản là tính hàm súc, cô đọng, gợi mà
không
tả. Đặc trưng này đã chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ đến hàng loạt phương
diện
nghệ thuật của TTLB như khắc họa tâm lý nhân vật trữ tình, hình ảnh và
không
gian nghệ thuật, kết cấu, ngôn ngữ... Có thể nói Lý Bạch đã vận dụng
thành
công những đặc điểm của thể loại tứ tuyệt để đem đến cho thơ ca mình
một
nét đẹp riêng. Tất nhiên, điểm giống nhau giữa thơ cổ thể trường thiên,
bát
cú hay tứ tuyệt của Lý Bạch là rất lớn do chỗ chúng cùng bắt nguồn từ
một
phong cách. Song với những đặc điểm nêu trên của nó, TTLB có tính độc
lập
tương đối để thành một mảng thơ đặc sắc trong sáng tác của Lý Bạch. Nếu
nhạc
phủ, cổ phong của Lý Bạch chiếm ưu thế trong miêu tả diễn biến tâm
trạng,
hoài bão, khát vọng thì TTLB lại thành công nhất ở khắc họa một thần
sắc
của cảnh, một nét tâm trạng, gieo một ấn tượng, truyền một rung động -
đạt
tới chỗ "ngôn tuyệt ý bất tuyệt", "lời gần tình xa", là đòi hỏi cao
nhất
của thơ cổ điển Trung Hoa. Cũng ở đây, ta có thể thấy được phong cách
thơ
thống nhất mà đa dạng, đầy những sáng tạo đặc sắc trên từng thể loại
của
Lý Bạch. 1.3. Để khẳng định tính độc lập của TTLB, có lẽ cũng cần nhắc
tới
hiện tượng chùm tứ tuyệt. TTLB có rất nhiều chùm bài tứ tuyệt ("Thu Phố
ca"
17 bài, "Tương Dương khúc" 6 bài, "Thượng hoàng tây tuần nam kinh ca"
10
bài ...). Vấn đề là chùm thơ tứ tuyệt có thể coi như một bài thơ dài
cắt
đoạn ra không ? Trước hết, có thể thấy hiện tượng chùm thơ rất phổ biến
trong
thi ca cổ điển Trung Quốc. Chẳng riêng gì tứ tuyệt mà ngay ở các thể
thơ
khác cũng vậy. Lý Bạch có cả chùm 57 bài "Cổ phong", 8 bài "Cung trung
hành
nhạc từ", 8 bài "Cảm hứng", 12 bài "Ký viễn"... đều không phải theo thể
thơ
tứ tuyệt. Vậy thì nếu TTLB có những bài kết thành chùm cũng là điều tự
nhiên. Hơn nữa, những bài trong chùm tứ tuyệt của Lý Bạch đều có tính
trọn nghĩa
và độc lập của nó. Một dạng dễ thấy là các bài tứ tuyệt cùng đề tài
nhưng
được sáng tác ở những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau rồi tập hợp thành
chùm
như chùm "Thu Phố ca", mỗi bài ghi lại một khoảnh khắc tâm trạng, một
cảnh
sắc. Có bài sầu dâng ngập (bài 4, 6, 7), lại có bài rất an nhàn (bài
12,
9). Khi thì Lý Bạch đau khổ phải lưu lại Thu Phố ("Buồn làm khách Thu
Phố.
Gượng xem Thu Phố hoa" - bài 6), khi thì ông bảo "Đất này chính là cõi
trời
yên bình" làm ông như thành tiên (bài 12). Khi ông tả tâm sự của mình
(bài
2, 6, 15), khi ông tả cảnh Thu Phố (bài 3, 5, 8 ,9, 11 ), khi ông tả
sinh
hoạt của người dân ở đây (bài 13, 14, 16)... .Cùng về Thu Phố nhưng có
thể
nói không bài nào giống bài nào, cả nội dung, hình ảnh và cảm xúc đều
có
những điểm riêng biệt. Thế nhưng không thể nói rằng những bài tứ tuyệt
này
là các đơn nguyên độc lập hoàn toàn. Chúng vẫn liên hệ với nhau và bổ
sung
ý nghĩa cho nhau. Sự liên kết cả chùm "Thu Phố ca" với nhiều giọng điệu
cảm
xúc trái ngược cho thấy tâm trạng phức tạp, không yên của Lý Bạch khi ở
Thu
Phố và hé lộ cá tính của ông: buồn vui, nhàn nhã đều hết mình. Có những
chùm tứ tuyệt liên kết với nhau rất chặt chẽ, thống nhất cả về đề tài
cũng
như giọng điệu cảm xúc, đến mức người ta có cảm tưởng đó là liên khúc
của
một bài thơ dài (ví dụ : "Hoành Giang từ" 6 bài, "Vĩnh Vương đông tuần
ca"
11 bài, "Thanh bình điệu" 3 bài...). Nhưng ngay cả khi như vậy thì từng
bài
vẫn có tính hoàn chỉnh mà một đoạn thơ không thể có được. Như chùm
"Thanh
bình điệu" 3 bài đều xoay quanh tả vẻ đẹp của Dương Quí Phi. Về hình
thức,
từng bài đều có kết cấu "khai- thừa-chuyển-hợp", có mở có kết hoàn
chỉnh,
hệ thống gieo vần riêng và dù đứng tách ra vẫn làm thành một bài thơ đủ
ý,
hay. Bài 1 tả phong thái thần tiên của Quí Phi, "nhìn mây tưởng là áo
xiêm,
nhìn hoa ngỡ là dung nhan" rồi đi đến khẳng định nàng phải là người ở
non
Quần Ngọc hay Dao Đài là nơi thần tiên ở - Bài 2 lại tả vẻ mặn nồng,
quyến
rũ của nàng như một phụ nữ khả ái nhất đến nỗi có nàng rồi thì không
thiết
chuyện mây mưa với thần tiên nữa ("Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường").
Bài
3 ca tụng nàng được ân sủng của quân vương, đã đẹp lại đẹp hơn trong
mắt
của người yêu, mà người đó lại là bậc đế vương tôn quí. Mỗi bài khai
thác
một khía cạnh của cái đẹp và do chỗ nó là một bài thơ hoàn chỉnh nên
từng
nét đẹp đều được miêu tả dần lên tới cực điểm, trọn vẹn, chứ không pha
trộn,
dở dang. Từng bài lại liên hệ và bổ sung ý nghĩa cho nhau. Bài 1 ví
nàng
như thần tiên thì quả là đẹp, nhưng quá cách vời. Vì vậy bài 2 lại miêu
tả
vẻ quyến rũ đậm đà nữ tính của nàng để hợp thành một cái đẹp toàn vẹn.
Nhưng
đã đẹp rồi mà không có tình thì cũng phí hoài. Cho nên bài 3 ca tụng
quyền
lực sắc đẹp của nàng đủ làm say đắm quân vương và tiêu tan mối sầu vô
hạn
của gió xuân. Hợp nhất ba bài thơ lại, người ta có được một bức tranh
về
cái đẹp tột đỉnh và toàn vẹn. Tóm lại, dù giống hoặc khác nhau về đề
tài,
cảm hứng trữ tình, các bài trong chùm TTLB đều là những chỉnh thể nghệ
thuật
có giá trị độc lập. Mặt khác, chúng cũng liên hệ và bổ sung ý nghĩa
cho
nhau, cùng soi sáng chủ đề chung từ nhiều góc độ. Không thể phủ
nhận
sự tồn tại của chùm TTLB cũng như không thể nghi ngờ tính độc lập của
từng
bài tứ tuyệt trong một chùm thơ. x x x TTLB xuất hiện, với những nét
riêng và mới như đã phân tích trên quả là một hiện tượng đáng lưu ý
trong lịch trình thơ tứ tuyệt nói chung và trong toàn bộ sáng tác thi
ca của Lý Bạch nói riêng. Nói đến sự xuất hiện nổi bật của TTLB là xét
từ một cái nhìn
bao quát trong tương quan so sánh toàn cục. Đó là một mảng thơ đa dạng,
mới
mẻ so với tứ tuyệt của tiền nhân và người đồng đại, hàm súc, tinh túy
và
sắc nét so với thơ khác thể của Lý Bạch. Nhưng cái gì đã tạo cho TTLB
một
diện mạo độc đáo như vậy ? Để trả lời câu hỏi ấy, cần phải đi sâu vào
cơ
cấu nội tại của TTLB, tìm hiểu đặc trưng xuyên suốt mảng thơ này cũng
như
những bộ phận cấu thành nên nó. Các chương 2 và 3 của luận án sẽ lần
lượt
đề cập tới những vấn đề này.
Phạm
Hải Anh
|