Thơ của tôi không dành cho bạn!
Xin
trao thi sĩ vòng hoa tặng : Auden, nhà thơ người Anh,
khi được hỏi, hãy chọn bông hoa đẹp nhất trong vòng hoa tặng, ông cho
biết,
bông hoa đó đã tới với ông một cách thật là khác thường. Bạn của ông,
Dorothy
Day, bị bắt giam vì tham gia biểu tình. Ở trong tù, mỗi tuần, chỉ một
lần vào
thứ bẩy, là nữ tù nhân được phép lũ lượt xếp hàng đi tắm. Và một lần,
trong đám
họ, một tiếng thơ cất lên, thơ của ông, bằng một giọng dõng dạc như một
tuyên
ngôn:
"Hàng trăm người sống không cần tình yêu,
Nhưng chẳng có kẻ nào sống mà không cần nước"
Khi nghe kể lại, ông hiểu rằng, đã không vô ích, khi làm
thơ.
Chúng
ta đã thắng trước cuộc đời. (1)
Cũng
trong cuộc phỏng vấn, khi được hỏi, ông làm thơ cho ai,
Auden trả lời: nếu có người hỏi tôi như vậy, tôi sẽ hỏi lại, "Bạn có
đọc
thơ tôi?" Nếu nói có, tôi sẽ hỏi tiếp, "Bạn thích thơ tôi
không?" Nếu nói không, tôi sẽ trả lời, "Thơ của tôi không dành cho
bạn."
Tôi tản mạn về một nhà thơ nước ngoài như trên, là để
nói ra
điều này: thế hệ nhà thơ nào cũng muốn chứng tỏ một điều: chúng tôi
không vô
ích, khi làm thơ. Nếu mỗi thế hệ là một quốc gia non trẻ , và, nếu thế
hệ đàn
anh của chúng tôi tượng trưng cho nước Việt non trẻ - vừa mới giành
được độc
lập - là bước ngay vào cuộc chiến, và, họ đã chứng tỏ được điều trên:
đã không
vô ích khi làm thơ; và đã thắng trước cuộc đời, cho nên đây là một
thách đố đối
với những nhà thơ trẻ như chúng tôi: đừng làm cho thơ trở thành vô ích.
Và nếu
thơ của lớp đàn anh chúng tôi đã làm xong phần đóng góp cho sự nghiệp
chung của
dân tộc, thơ của thế hệ trẻ chúng tôi có lẽ sẽ làm nốt phần còn lại:
thơ sẽ nói
lên nghệ thuật của sự tưởng niệm, và mỗi bài thơ, được viết đúng lúc
như thế
đó, sẽ trở thành một khúc kinh cầu. Đó là tham vọng của thơ trẻ.
***
Nhưng
trẻ, thế nào là trẻ? Và thế nào là một nhà thơ trẻ?
Cho
phép tôi trở lại với Auden. Khi người phỏng vấn đưa ra
nhận xét, trong những bài thơ đầu, có vẻ như ông hục hặc với quê hương
Anh, và
cái giọng gây sự đó không thấy ở những bài thơ sau, khi đã ở Mỹ; có vẻ
như ông
cảm thấy thoải mái, như ở nhà của mình, khi ở đó; và nhà thơ trả lời,
đúng như
vậy, nhưng đây là vấn đề tuổi tác. "Bạn biết đấy, mọi người đều thay
đổi.
Và điều tối quan trọng với một người viết, là hãy ở đúng tuổi của mình,
không
trẻ hơn và cũng đừng già hơn. Một nhà thơ có thể tự hỏi, tại sao mình
không làm
thơ vào lúc sáu mươi tư tuổi, nhưng không bao giờ, tại sao mình không
làm thơ
vào năm 1940, thí dụ vậy."
Ý
nghĩa của thơ trẻ, theo tôi, còn như thế này: một khi bạn
làm thơ với tất cả cơ thể của mình, cho dù bạn ở vào lúc mới vào, hay
sắp sửa
bước ra khỏi cuộc đời, thơ của bạn vẫn được coi là thơ trẻ.
Tôi
suy ra một điều: với lớp thơ đàn anh, có vẻ như chúng
tôi được coi là trẻ, là vì tuổi còn trẻ, những nhà thơ con nít, ranh
con, cứ
nói như vậy. Chưa ai đưa ra nhận xét, thơ của họ trẻ, theo nghĩa, đầy
chất sáng
tạo, đầy ý thơ trẻ, mới. Cũng có người, nhiều người, đưa ra nhận xét:
"thơ
của họ trẻ, vì tràn trề ‘sex’, tình dục", theo nghĩa: " người già hết
gân rồi, lấy đâu ra hứng mà làm thơ dục tính! " Như trên, khi bạn làm
thơ
với tất cả cơ thể của mình, avec tout son corps, như vậy dục tính là
điều tất
yếu của nó. Tôi muốn khẳng định ở đây: Dục tính là thơ.
Khi
đọc thơ trẻ, hãy nhập vào ngọn lửa đam mê cháy bừng bừng
ở trong đó. Chính ngọn lửa đam mê làm nên thơ, chứ không phải hành động
làm
tình!
****
Có
một điều không được thuận cho lắm, đấy là sự hai chiều
giữa chúng tôi và họ (các thế hệ đi trước). Chúng tôi đọc họ nhiều, kỹ
với thái
độ tôn trọng và nghiêm túc học hỏi. Chúng tôi hiểu về họ cũng rất tỉ mỉ
và cam
đoan là không ai dám hiểu sai những gì họ viết; ít nhất chúng tôi cũng
phân
biệt được mỗi người trong số họ khác nhau thế nào, và tại sao lại có
giọng điệu
riêng như thế... Điều này vô cùng quan trọng bởi vì chúng tôi tự hỏi:
họ có
thực sự đọc và hiểu chúng tôi, cái quốc gia non trẻ mà một thời họ đã
là, hay
không? Đây là một vấn đề thật quyết liệt và cũng thật hão huyền. Thực
tế cho
thấy thất bại ê chề của một số những cây bút lao vào viết a dua theo
các cụ,
các chú đều chết yểu. Hãy đúng tuổi của mình, đừng trẻ quá mà cũng đừng
già
quá, là vậy. Thế nhưng làm khác, làm độc đáo một cách rùm beng và tối
tăm cũng
không được chấp nhận. Thường thì người ta dành cho độc giả cái quyền
tối hậu,
khi quyết định ai xứng đáng là thi sĩ trong đám ranh con đó, hoặc người
ta đành
chờ thời gian quyết định giùm, nghĩa là nhà thơ ranh con đó sẽ chìm lỉm
theo
giòng thời gian năm mười tháng, một hai năm, hoặc nếu biết thân thì rút
lui
trước... Không ai đẩy câu hỏi về phía nhà thơ trẻ, theo nghĩa này: chỉ
có người
đó quyết định những dòng thơ của mình. Và nếu tôi, được đẩy cho một câu
hỏi như
vậy, sẽ, rất hung hăng và cũng rất hồn nhiên, trả lời như thế này: có
thể thơ
hôm nay (thơ trẻ) chưa tới nhưng chắc chắn sẽ tới. Từ đó, suy ra một
điều:
chính những thất bại của đám trẻ làm thơ hôm nay, nếu cho đó là thất
bại, vẫn
còn đáng trân trọng rất nhiều, so với cái việc tiếp nối một dòng thơ
của thế hệ
đàn anh, cho dù là thành công. Đây lại là một khẳng định khác về thơ:
thơ là
phải đạp đổ thần tượng, theo nghĩa của Phật dậy: Phùng Phật sát Phật
(Gặp Phật
giết Phật).
Thơ
trẻ hôm nay chưa tới, những chắc chắn ngày mai sẽ tới.
Câu này tôi mượn từ một vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nobel văn chương
người Ái
Nhĩ Lan, Samuel Beckett: "Ngài Godot bảo tôi nói với mấy ông là chiều
nay
ông ta không tới, nhưng chắc chắn ngày mai sẽ tới."
Hy
vọng có bạn ở trong bữa tiệc chiều nay, khi thơ chưa tới.
Khi
thơ của tôi không dành cho bạn.
***
Với
tư cách của riêng cá nhân tôi, xin được đưa ra vài thu
hoạch tự mình trong quá trình viết, đọc và hiểu mình, hiểu người:
-Chúng
tôi ít dùng cấp so sánh ngang, ví von, vần vè hoa hoè
hoá sói. Chẳng hạn, bông hoa đẹp thì trực tiếp tả cái đẹp của bông hoa,
không
cần ví nó giống cái gì khác, như cái nọ, như cái kia... Lý do là: so
sánh, vốn
là một trong những hình thức tu từ (một trong những phép làm văn làm
thơ), đã
bị lạm dụng đến nỗi trở thành đồ dởm, hàng mã. Hoặc phải vòng vèo tả
lướt qua
dăm bảy bông bên cạnh để rồi cho thấy bông hoa mình tả mới là đẹp nhất.
Chúng
tôi thích đi vào bản chất của sự việc và thi ảnh cũng trực tiếp. Nói là
ít, chứ
không phải là không dùng. Ngay như câu thơ được coi là hay tiêu biểu
của chị Vi
Thuỳ Linh luôn được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trích dẫn: " ....cát bay
lên
như những linh hồn..." thì cũng là một câu thơ viết theo lối cũ. Nếu bỏ
từ
"như" câu thơ chắc sẽ mới hơn, hay hơn và đi vào bản chất hơn. Nếu
giữ nguyên từ "như", phép tưởng tượng của một độc giả thông thường
cùng lắm cũng chỉ ra na ná như những vòng xoáy cát trong phim "Xác ướp
Ai
Cập" là cùng!
-Chúng
tôi ít dùng số hoá: chẳng hạn, hàng cây là hàng cây;
những hàng cây thì lại quá nhiều, quá dài rộng không quan sát được...
Điều đó
tạo ra một cảm giác chung chung, thiếu cụ thể mà các bài thơ của các
đàn anh
hay mắc. Chúng tôi ý thức được rất rõ sự khác nhau giữa "một" và
"những".
-Chúng
tôi ít dùng biện pháp nhân cách hoá bởi vì, chúng tôi
muốn đặt sự vật và con người bình dẳng, không cần phải biến cái cây,
con bọ
thành người. Tự thân sự vật cũng có linh hồn và những diễn biến phức
tạp của
riêng nó. Chẳng hạn như câu thơ của Văn Cầm Hải mà nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo
cũng rất hay trích dẫn: "...Chùm hoa ti- gôn cũng đỏ màu tập thể..."
-Chúng
tôi ít dùng các thể thơ có sẵn như: lục bát, song
thất lục bát, thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, Xon-nê.... không phải các thể
thơ đó
không hay, không có giá trị, nhưng đôi khi nó làm cho người viết bị cảm
giác tù
túng, mất tự do theo đuổi những ý nghĩ, cảm xúc và trí tưởng tượng, thi
ảnh của
mình bằng những nhạc điệu buồn tẻ. Làm thế, chẳng khác nào viết lời mới
cho một
bản nhạc có sẵn. Thành kính mà nói, chúng tôi thấy các thể thơ trên đã
được các
thế hệ đi trước khai thác đến triệt để, cùng kiệt rồi, nếu làm chắc
chúng tôi
sẽ không thể phát tiết hơn được.
Đây
mới chỉ là một vài so sánh nho nhỏ tôi nhận thấy về sự
khác trong những sáng tác trẻ với các thế hệ đi trước. Tôi cho rằng
điều khác
biệt cơ bản là: Hoàn cảnh xã hội và kinh tế của đất nước đã có rất
nhiều thay
đổi, rất nhiều điều mới tốt và xấu. Sự bùng nổ thông tin, công nghiệp
hoá, hiện
đại hoá đất nước kéo theo những chuyển biến nhanh về vật chất khiến cho
tốc độ
nạp vào của trí tuệ con người nói chung đòi hỏi phải linh hoạt hơn. Và
một điều
rất quan trọng chúng tôi phải đối mặt: "tốc độ nhớ phải rất nhanh nhưng
tốc độ quên còn nhanh hơn". Chính vì vậy sự quyết định đến hình thức
mới
của thi ca là phải cô đọng, đơn giản và đi vào bản chất trực tiếp. Làm
được như
vậy mà vẫn giữ được âm vang, nhạc điệu, tiết điệu của mạch thơ, của
ngôn ngữ
chính là nhiệm vụ của chúng tôi và các thế hệ đi sau nữa.
Thế
hệ viết trẻ chúng tôi thật tự hào vì mình là công dân
của một đất nước độc lập, . Nhưng cũng chính vì sự độc lập, tự do vinh
quang
ấy, chúng tôi lâm vào một mê hồn trận. Chúng tôi giờ đây có vẻ sống quá
sung
túc, đầy đủ so với các thế hệ cha anh, chúng tôi được hưởng nền hoà
bình yên ấm
một cách đương nhiên vì không phải chịu một mất mát nào về cả tinh thần
lẫn thể
xác, không biết thế nào là chiến tranh. Bề ngoài, chúng tôi sống có vẻ
thiếu lý
tưởng hơn so với các thế hệ cha anh vì chúng tôi không có một kẻ thù
chung và
cụ thể nào cả. Chúng tôi không thấy căm thù thực dân Pháp hay đế quốc
Mỹ. Kẻ
thù của chúng tôi bây giờ là cái ác, sự ngu dốt, đói nghèo và bệnh tật.
Tất cả
những kẻ thù đó thật vô hình và nằm trong chính bản thân mỗi người.
Chúng tôi
phải tự đấu tranh và tiêu diệt kẻ thù trong chính bản thân mình.
Nhưng
dẫu sao, thật may mắn vì chúng tôi đã là công dân của
một đất nước độc lập - tự do. Chính tự do, theo tôi là bản chất của thi
ca. Mỗi
người được tự do trong thế giới cảm xúc của riêng mình. Tôi xin nói
thêm về đề
tài, thực ra với kinh nghiệm của bản thân, tôi thấy nhà thơ trước hết
phải tự
do trong tư tưởng, trong cảm giác của mình. Chính vì vậy, cái mà nhà
thơ mô tả
không nhất thiết phải là cái có thật, cái có ý nghĩa... và thơ cũng
không nhất
thiết đơn thuần chỉ là nghệ thuật của sự mô tả bằng hình tượng, bằng
ngôn ngữ.
Thơ là sự diễn dịch thế giới cảm xúc tự do và bí ẩn của mỗi cá nhân.
Ngôn ngữ
của thơ phải là sự âm vang, không phải chỉ là sự có ý nghĩa lạnh tanh,
khô khốc
và vô cảm. Điều ưu việt hơn cả của lực lượng các nhà thơ trẻ hiện nay
có lẽ là
sự tự do trong đề tài. Thực ra, đối với họ không có đề tài nào khi làm
một bài
thơ cả, nhưng cuối cùng cái mà nhà thơ đưa đến cho người đọc lại chính
là điều
mà nhà thơ muốn nói. Chính vì những điều mà thơ trẻ hôm nay muốn nói
rất đa
dạng, phóng khoáng và tự do; thậm chí hơi bị xa xăm, mờ mịt... và điều
đó gây
sự khó chịu, bực tức với một vài độc giả cũng là chuyện thường, không
mấy quan
trọng. Chúng tôi có thể nhìn thấy nhau, đọc của nhau, hiểu nhau và thấy
rất thú
vị. Thật khó hiểu là tại sao các thế hệ đi trước lại không hiểu chúng
tôi một
cách dễ dàng, thân ái như chúng tôi đã từng hiểu và kính trọng họ?
Thêm
một lần nữa, chủ quan để phát biểu, tôi luôn hình dung
ra nền văn chương của mỗi quốc gia như một con diều có ba đuôi. Cái
đuôi dài
nhất, đẹp nhất ở chính giữa giúp cho con diều bay lên được là văn
chương chính
thống. Bên cạnh đó, hai cái đuôi nhỏ hơn, ngắn hơn nhưng lại giữ vị trí
cân
bằng cho con diều là thứ văn chương lưu vong của những người xa tổ
quốc. Cái
đuôi còn lại là loại văn chương đi tù. Có thể gộp chung cả văn chương
mang tính
chất chống đối, nổi loạn và thứ văn chương được viết ở trong tù. (Tôi
hết sức
mong được mọi người hiểu theo nghĩa tích cực về loại văn học này, bởi
vì ngay
cả văn học Việt Nam chính chống cũng có những tác giả lớn, trưởng thành
trong
cách mạng ở những chốn tù đầy). Hai cái đuôi phụ tuy là không được nhìn
nhận
một cách chính thống nhưng bao giờ cũng góp một phần vào việc nhận diện
ra cả
con diều văn học. Đã từng có những nhà văn đoạt giải Nobel trên thế
giới là người
lưu vong hoặc đã từng đi tù. Chúng tôi đương nhiên là muốn đứng trong
hàng ngũ
của cái đuôi chính thống, nhưng biết làm gì nếu cứ mãi không được tiếp
nhận vào
nền văn học chính thống của đất nước bằng cái biển đợi: "Có triển
vọng". Chỉ là loại có triển vọng thôi thì chúng tôi sẽ lâm vào cảnh
"lưu vong trên đất mẹ"đợi ngày cấp visa. Vì chúng tôi không thích
vượt biên và lại càng không thích đi tù trong một bối cảnh đất nước độc
lập, tự
do và phát triển ngày một lớn mạnh như bây giờ..
Tôi
xin được kết thúc những suy nghĩ chân thành của mình
bằng một câu châm ngôn vui vẻ: "Bọn trẻ thường hay bị lừa bởi những của
giả, người già thường hay nghi ngờ cái có thật". Có thể, những giá trị
mà
chúng tôi hôm nay đang say mê theo đuổi chỉ là những điều không có
thật, cuộc
đời sẽ dạy cho chúng tôi phải mở mắt ra. Học phí như vậy cũng thật đáng
quí.
Thế nhưng những cái đã có thật thì sao? Vậy thì, học theo nhà thơ người
Anh nọ,
tôi xin lỗi, nếu thơ của tôi không phải dành cho bạn!
Phan
Huyền Thư (Hà Nội).
(1)
Xin trao thi sĩ vòng hoa tặng
Chúng ta đã thắng trước cuộc đời
Thơ Thanh Tâm Tuyền