Xin
tằm hãy biết
thương tơ.
Phan Huyền Thư
Bắt đầu từ một chuyện "tiếu lâm đời mới " nhưng không mới và cũng không
vui, như thế này: "Bọn quỷ sứ canh vạc dầu dưới địa ngục bảo nhau, nếu
một lúc mà thả ba người Mỹ vào vạc dầu phải đậy lại nắp cẩn thận. Thả
ba người Trung Quốc vào thì càng phải đậy chặt. Nhưng thả ba người Việt
Nam vào thì khỏi phải đậy nắp!" Tại sao vậy? Lý do là: Người Mỹ vốn rất
cá nhân, mạnh ai nấy sống nên thế nào cũng có người nhảy vọt được ra
ngoài. Người Trung Quốc thì rất đoàn kết, thế nào người ở dưới cũng
chịu hi sinh để công kênh người ở trên trèo ra. Nhưng người Việt Nam,
nếu một người có cố nhoi lên
được thì cũng bị những người ở dưới kéo tuột xuống: Thà hy sinh tất cả
"lút"
(cả nút, cả lũ) chứ nhất định không chịu để cho đứa nào ngoi lên, cho
dù
là để "chết", ở trên đầu mình được!
Câu chuyện này bạn có thể nghe ở nhiều nơi khác nhau. Trên một chuyến
xe có bác tài vui tính ưa kể chuyện trên đường đi công tác. Trong một
quán bia thơm nức mùi xào nấu, hay ở một cái vỉa hè khiêm tốn với dăm
ba chén nước chè. Trên ghế đá đọc báo dưỡng sinh buổi sáng của các cụ
hưu trí nhàn đàm. Hay vắt vẻo trên lưng "ngựa" của mấy bác xe ôm lúc
đợi bắt khách.... Điều đó chứng tỏ, người Việt Nam mình rất hóm hỉnh,
rất hiểu mình... rất thích lối nói trào phúng. Nhưng, điều rõ hơn cả,
mà ai ai cười tít sau khi nghe câu chuyện này đều hiểu, đều biết, đều
thừa nhận: Người Việt Nam mình không biết (hay không thích) yêu thương
nhau. Người Việt Nam mình rất khó khăn trong việc công nhận thành quả
"của nhau".
Cho phép tôi mở bài viết theo kiểu "mình tự hành hạ mình", "Người Việt
Xấu Xí", như vậy sẽ dễ nói thẳng, nói thật, về những điều không phải ai
cũng
muốn nghe, mặc dù ai cũng có thể cảm nhận được. Nhất là khi chúng ta
sắp
nói đến một chuyện hoàn toàn mới, hoàn toàn vĩ mô, tràn đầy cảm hứng và
rất
thời đại: Hội Nhập. Hội Nhập và Hội Nhập... Thời này là thời của Hội
Nhập.
Chúng ta sẽ hội nhập như thế nào? Bằng cái gì?
Có thể chúng ta nhận ra, nhưng không dám thừa nhận, rằng chính chế độ
bao cấp, bình quân chủ nghĩa, tập thể chủ nghĩa có một cái gì đó rất
phù
hợp với tính cách người Việt Nam mình. Khi mà cái tôi buộc phải làm bé
đi
trước một cái ta lớn lao, và (lạ lùng thay!), xã hội khi đó còn tỏ ra
có
chút tôn ti trật tự, trên dưới rõ ràng. Không phải quay về khóc than
cho
một thời lành mạnh của quyền lợi đâu, nhưng rõ ràng là một niềm tin
chung,
một lý tưởng sống chung và đặc biệt là, cái "mặt trái của tấm huy
chương",
tức tâm lý "cá mè một lứa" khiến cho mọi người tỏ ra yên tâm hơn, vì
"tuy
mình không hơn ai nhưng cũng chẳng ai hơn được mình".
Trở về với cuộc sống hiện tại của cơ chế thị trường, không khó khăn gì
để nhận ra tính chất "thị" (chợ) ngày càng tác yêu tác quái. Các cụ
ngày xưa ví von "trâu buộc ghét trâu ăn". Nhưng vào thời buổi hiện nay,
trâu buộc
ghét cái thừng, trâu ăn ghét cái cỏ, của nhau. Thật đáng tiếc khi phải
nghĩ
đến một ngày không xa, cái chất "chợ" ấy sẽ trở thành cốt lõi của luân
lý
đạo đức.
Chẳng hạn như nạn phong bì, cho đến giờ vẫn còn tồn tại trong mọi hành
vi ứng xử của chúng ta để rồi người ta có thể mua bán một cách lịch
lãm, tinh tế những thứ (không ai muốn nghĩ là mua được) như: bằng cấp,
chức tước, danh dự, nhân phẩm... sự thẩm định giá trị của vật chất còn
có thể mua được huống gì... chỉ là tinh thần!
Tôi sợ mình sẽ lan man sang phạm vi đạo đức xã hội mà quên mất điều
định nói, đó là phép ứng xử với nhau trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật,
một lĩnh vực được tiếng là của những người có tài năng, của tầng lớp
tinh anh (élite) trong xã hội... Nhưng, trong khi các tầng lớp khán giả
nghiêm túc kêu ca vì sự bùng phát các ca khúc diễm tình, và các ban
nhạc "dưa-cà-mắm-muối" mọc
như nấm thì không ít các nhạc sĩ bác học, chính thống của chúng ta còn
đang
mải đi đòi tiền, kiện tụng về bản quyền với các ca sĩ, với các nhà xuất
bản
băng đĩa nhạc, rùm beng và nhốn nháo cả lên. Một bài hát, đưa ra công
chúng
gặp được ca sĩ giỏi, băng video quay đẹp, hoặc bài hát đó gắn với một
bộ
phim hay thì đằng sau đó lại có vụ kiện tụng, thậm chí lăng mạ nhau,
rằng lời thơ là của anh A hay là của ông B... người nọ bảo là người kia
ăn cắp của mình, rồi than vãn trên báo chí...v..v . Thế là các nhạc sĩ
quyết lập cho bằng được một tổ chức chống ăn cắp bản quyền tác giả, và
vì quá bận rộn với chuyện đời thường, nên không có thời gian sáng tác.
Vả lại, trước khi sáng tác, bây giờ họ còn nghĩ cách làm sao để bảo vệ
bản quyền cho ca khúc mình sắp viết được triệt để nhất!
Thảm hơn nữa, nhạc sĩ nọ không chịu đựng nổi việc ca sĩ A, giọng ca B,
"nổi tiếng được là nhờ có ca khúc của mình"! Nhà thơ kia nổi tam bành
vì "không có lời thơ của tôi, ông ta làm sao viết được ca khúc đó..."!
Rồi vì
tiền bạc, vì không chịu được sự thành công của người khác, vì không
muốn ai
hơn mình nên họ sẵn sàng lăng mạ nhau không tiếc lời ở bất cứ "một dịp
may",
và "nhất là", ở trên mặt báo chí...
Đành rằng vấn đề bản quyền là một chuyện quá ư chính đáng, trong một
nền kinh tế thị trường, nhưng ở đây, có một điều gì đó không chỉ "phi",
mà còn "phản" thị trường. Rõ ràng là, nếu nhạc sĩ đó, thi sĩ nọ... thay
vì lo chửi nhau, hoặc đưa nhau ra tòa, họ cùng "công kênh nhau", để
tiếp tục sáng tác, tiếp tục kiếm thêm tiền, tiếp tục ngày càng nổi
tiếng, chẳng là hay hơn ư?
Nghĩ lại, thấy tiếc cho các nhạc sĩ lớn đã quá cố. Chẳng hạn như Văn
Cao, bản quyền Quốc Ca của ông sẽ phải xử lý thế nào?
Trong một vài lĩnh vực nghệ thuật khác, chúng ta tự đặt ra một sự kiểm
duyệt rất phi nghệ thuật. Cái việc ngồi duyệt tác phẩm của người khác
thật là khoái chí, được ngồi phán năm phán bảy về những lao tâm khổ tứ
của kẻ khác, bỗng chốc cái máu dìm nén lại nổi lên, thế là chỗ này chưa
rõ về ý đồ chính trị, chỗ kia tư tưởng không được mạch lạc, dễ gây hiểu
lầm... Thế rồi cắt xén chỗ nọ, phạt bỏ chỗ kia là chuyện không thể
tránh khỏi với các bộ phim, với các vở kịch. Hãy thử hình dung xem,
biết bao nhiêu ý tưởng, biết
bao đề tài khác nhau của cuộc sống vì không chịu được đòn "chui lỗ kim"
của
hội đồng duyệt kịch bản mà vĩnh viễn chỉ là ý tưởng, không bao giờ
thành phim,
thành kịch?
Các loại hội đồng kiểu như vậy nghiễm nhiên ngồi xoa đầu những người
sáng tạo. Cái chính là, khi ra khỏi hội đồng duyệt, không ít anh chị em
sáng tác đều to mồm chửi họ là ngu dốt, không biết gì mà cũng ngồi lù
lù ở đấy! Nhưng rồi cũng lại nghiến răng mà làm theo sự thẩm định, chỉ
đạo "ngu dốt" của
họ để làm ra những bộ phim, những vở kịch. Chẳng lẽ lại tại... hội đồng
duyệt? Thử thay một hội đồng mới, thành phần gồm những người đang làm
nghề xem
sao? Điều đó chắc là không thể thực hiện được với nền nghệ thuật và
kiểu
quản lý nghệ thuật của ta. Bởi vì sẽ chẳng có ai (kể cả tôi nếu được
mời
vào một Hội đồng duyệt) dám chắc rằng mình sẽ ứng xử như thế nào trước
thói
đố kỵ và tâm lý không chịu chấp nhận thành công của kẻ khác. Nó quá lớn.
Vì nó quá lớn, nên đâu có được lợi lộc, danh vọng hay tiền bạc gì nhưng
người ta vẫn không thể đành lòng ngồi yên. Một chuyện có thật, mới vừa
xảy ra và còn đang tiếp tục trong giới văn chương. Một người cũng ưa
làm công việc viết lách, phê bình văn chương đã "đấm ngực" kêu trong
một cuộc hội
thảo văn học là đau đáu mà mong chờ cái mới, thậm chí, ông tuyên bố rất
đau
đớn: "đốt đuốc đi tìm nhà phê bình văn học" để than rằng "cái loại ấy"
(tức
là những nhà phê bình cho ra hồn, đủ tầm cỡ, có giọng điệu, độc đáo và
mới
lạ, đại khái là có tâm và có tài...) sao mà khó kiếm. Đốt đuốc lên tìm
mà
vẫn không thấy! Vừa hay, một cuốn sách phê bình văn học của một tác giả
trẻ
ra mắt. Cuốn sách cũng nhận được không ít lời động viên, khen ngợi của
một
số nhà văn có uy tín trên báo chí và các tiệc trà, bia bọt vỉa hè của
giới
văn chương... Thế là, cái đau đáu đốt đuốc đi tìm của nhà phê bình nọ
biến
đâu mất, ông liền tức tốc ra một bài sấm sét ở mục Đọc sách (mà dài
những
6 trang in) để cố lôi đủ những đại danh nhân, thi hào của nước Đại Việt
ra
mà "dựng hàng rào sút phạt", nhục mạ nhà phê bình văn học trẻ nọ đã vô
ơn,
quên phắt mất các vị liệt tổ liệt tông mà đi theo học những ông tây, bà
đầm;
dám cả gan trẻ hơn, thành thạo máy tính, làm thuê cho công ty nước
ngoài
....vv... tức là rất nhiều thứ phi văn chương được qui chuẩn về giá trị
đạo
đức để hạ nhục đồng nghiệp trẻ. Ông gọi anh bạn trẻ là "tính cách con
dơi"
trong khi đọc bài viết của ông cũng thấy không ra chim, chẳng ra chuột.
Và
cái chính là, người ta chẳng hiểu gì về cuốn sách mà ông định phê bình
(những 6 trang chữ chi chít) ngoài những dòng qui kết và nhục mạ tác
giả của nó. Tôi sẽ không dài dòng với việc này, nếu không có một chuyện
nực cười hơn xảy ra: ngay sau khi in trên báo, bài báo đó được trao
giải bài viết hay trong
năm (không thèm để ý đến việc đa số độc giả còn chưa kịp đọc). Làm sao
người
ta có thể đếm hết được những nụ cười thoả mãn của cả một "hội đồng tổng
cốc"
đã tung hô bài phê bình kia?
Biết làm sao được, vì "Nó" đã quá lớn, quá mạnh. Cho nên, những chuyện
như vừa kể trên thật là nhiều. Và thật là buồn vì chúng lại thật nhiều.
Tôi
xin kể lại một câu chuyện, đúng ra là một bài học lớn của riêng mình
cách
đây đã gần mười năm. Một nhà báo nước ngoài sau khi xem phim "Bao giờ
cho
đến tháng Mười" của đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh đã nhận xét: " Trong
phim,
có một cảnh: khi phát hiện ra các em học sinh viết trên tường chế đôi
"Thầy
Khang+ cô Duyên" cô giáo đã hỏi "Em nào viết?". Một em đã đứng dậy và
mách:
"Thưa cô bạn Sửu viết ạ!" Đó là một nét tính cách rất độc đáo của người
Việt
Nam, trẻ con ở phương Tây sẽ không làm thế, chúng sẽ để cho người bạn
đã
gây ra chuyện tự giải quyết (một cách chủ động và trách nhiệm). Điều đó
chứng
tỏ Đặng Nhật Minh đã quá hiểu dân tộc mình. Ngay từ khi còn là trẻ nhỏ,
chúng ta đã được khuyến khích vai trò chỉ điểm, tố cáo và nó xuất phát
từ cái
gì, nếu không phải là sự đố kị và không yêu thương lẫn nhau? Chỉ có vài
dòng rất ngắn về một chi tiết rất nhỏ ấy, tôi xin liên hệ để chúng ta
có
thể tự hình dung, nếu chúng ta hội nhập văn hoá thì người nước ngoài sẽ
nhận
thấy những gì!
Một điều nhất thiết tôi phải xin được viết ra, đấy là sự thái quá của
những chuyện tôi vừa nhắc đến trong bài viết. Mọi người chắc không vì
sự
thái quá này mà tranh luận lại với tôi cho tốn giấy mực. Con tằm khi
rút
hết ruột gan của mình để làm kén, cái kén cũng đã bao bọc, cho nó một
vẻ
đẹp của những sợi tơ óng ánh. Chúng ta cũng rút hết tinh tuý của mình
để
cống hiến cho nghệ thuật, vậy thì, mượn lại một câu dân ca quan họ Bắc
Ninh:
"Con tằm hãy biết thương tơ" để mong các văn nghệ sĩ đừng "ghét tơ" của
nhau.
Tôi xin dừng lại vì chắc cũng đã muộn, khi câu chuyện tiếu lâm hiện đại
ở đầu bài viết đã lẳng lặng đi vào tủ sách truyện cười thế giới mất
rồi!
PHT