Felix Culpa: Đọc Nắng Hồng Phương Nam
tiểu thuyết của Nguyễn Chí Kham
NQT



Trước tiên, người viết cần xác định, đây không phải là một bài điểm sách, theo đúng nghĩa của nó. Chỉ là tản mạn xung quanh một vụ nắng, và một vụ mùa. Về những điều bật ra, khi đọc, có khi chẳng liên quan gì tới cuốn sách.

Sau đây là một vài gợi ý.

    - NHPN viết về một thời kỳ sau 1975. Nhân vật chính từ giã cuộc đời thường để vào cuộc đời tù. Độc giả, từ những dòng tóm tắt như thế, tự nhiên là sẽ có ý nghĩ, chắc là "căng" lắm đấy. Nhưng không phải như vậy. Cuộc giã từ, đổi đời thường lấy đời tù diễn ra rất ư là "êm ả", trong khi thực tế không phải như vậy. Ngay cả khi cho rằng, bởi vì đây chỉ là một cuộc du ngoạn diễn ra chừng 10 ngày, theo như thông báo của nhà nước mới, nó cũng không thể êm ả như vậy. Tại sao tác giả lại chọn một cách viết như thế?
    - Cách viết giả tưởng, và lịch sử vốn đi kèm với nó, đặc biệt, lịch sử Lò Thiêu, Trại Tù của một số tác giả như Kertesz, Sebald... liệu có thể áp dụng để giải thích NHPN?
    - NHPN: Chỉ là Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi, tập truyện đầu tay của NCK, nối dài, trải rộng ra?
    - NHPN: một great design? Một cách nhìn khác về Trại Tù? Và như một geat design, cho dù thất bại, vẫn đáng một ngọn đèn cầy (Brodsky viết về Akhmatova)?
    - Trừ những bài ca phản chiến theo đúng nghĩa của nó, và bây giờ trở thành "void", những bản nhạc tình ca của Trịnh
Công Sơn cứ sống hoài, tuy được viết ra từ những ngày phản chiến đó. Liệu NHPN là một lập lại kinh nghiệm trên?

Từ những gợi ý trên, đưa đến nhận định chìa khóa, về cuộc chiến VN, nhìn từ phương nam: một cuộc chiến không thể có anh hùng miền nam?

********

Ông viết, "Một cuốn sách phải quậy nát bấy, những vết thương... Một cuốn sách phải là một hiểm nguy. Những cuốn sách của ông, chúng nguy hiểm theo nghĩa nào?"
"Thì đúng như vậy. Hãy nghe này:... khi cuốn "Précis...." của tôi ra lò, một tay phê bình của tờ Thế Giới (Le Monde) gởi cho tôi một lá thư, với lời trách móc: 'Ông không nghĩ đến hậu quả, nếu cuốn sách lọt vào tay mấy người trẻ tuổi?'. Thật là phi lý! Sách phục vụ lớp trẻ? Phục vụ như thế nào? Dạy dỗ chúng? Giúp chúng học? Nếu như vậy, chúng chỉ cần tới trường, tới lớp."
"Không, tôi cho rằng cuốn sách đúng là một vết thương. Nó phải thay đổi cuộc đời của người đọc, cách này hoặc cách khác.... Một bà viết về tôi, mới đây, trên tờ Le Quotidien de Paris: 'Cioran viết điều mà người ta phải nói thầm, khi nhắc lại'. Tôi không viết, theo nghĩa 'làm ra một cuốn sách', để cho người ta đọc. Không, tôi viết để hất đi một gánh nặng cho tôi. Nhưng rồi sau đó, khi nghĩ về 'nhiệm vụ của những cuốn sách của tôi' (la fonction de mes livres), tôi nói với mình, chúng phải như một vết thương. Một cuốn sách, mà người đọc 'vũ như cẩn' sau khi đọc nó, là một cuốn sách vứt đi."
Cioran

Kafka cũng từng nói như vậy: Ông viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đoc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)

**********

Người viết quen Nguyễn Chí Kham từ những ngày ở Quán Chùa. Khi còn tờ Nghệ Thuật, và Sài Gòn còn tương đối thanh bình. Thập niên 1960. Đọc bài văn đầu tiên của anh, trong mục Những Người Viết Mới, trên Nghệ Thuật  do Viên Linh làm tổng thư ký.

Ngồi Quán Chùa, anh cho biết, đó không phải là bản văn đầu tay. Anh đã từng viết trước đó. Đã có nhiều truyện ngắn đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Đã lãnh tiền nhuận bút nhiều lần. Những truyện ngắn đó, tuy không tệ, vì được chọn đăng, nhưng anh muốn, một cách viết khác. Đoản văn trong mục Những Người Viết Mới là thử nghiệm đầu tiên, cho một thứ văn học, khác. Tôi nói, tôi thường đọc Tiểu Thuyết Thứ Năm, và biết những truyện ngắn ở đó như thế nào. Và một khởi đầu như vậy, dù muốn hay không muốn, nó cũng bám chặt lấy anh. Đọc Nắng Hồng Phương Nam là thấy ngay điều đó. Câu chuyện có thể dài hơn nữa, dầy hơn nữa. Nhưng không phải như vậy. Tôi nhớ, Faulkner đã từng nói, trong một truyện ngắn, cái lấy ra khỏi quan trọng hơn là cái giữ lại. [ Barthes: Sự đánh giá của chúng ta chỉ trông cậy vào thực tập, và thực tập này là của việc viết. Một bên, là cái có thể viết, và một bên là cái không còn có thể viết: Cái gì nằm trong thực tập viết, cái gì đã bị bỏ đi, đã rời khỏi nó. Bản văn nào tôi bằng lòng viết (lại viết), mong viết, thèm viết....?: Our evaluation can be linked to a pratice, and this pratice is that of writing... (S/Z, trang 4, bản tiếng Anh của nhà xb Hill and Wang, New York]. Tôi nghĩ, định luật này phải áp dụng cho cả truyện dài. Khởi đầu dễ dãi quá làm hỏng những trang viết tiếp theo. Theo nghĩa này, người ta cho rằng câu mở đầu là rất quan trọng. Bạn cứ viết được câu mở, là có thể kéo dài nó. Cũng vẫn theo nghĩa này, Walter Benjamin cho rằng những mẩu đoạn mà một nhà văn lớn hì hục với chúng, nặng ký hơn so với những tác phẩm đã hoàn tất. Trường hợp này đã từng xẩy ra trong văn học. Trên tờ Người Nữu Ước, đã lâu lắm, nhắc tới một nhà văn Mỹ rất nổi tiếng, thuộc loại best-sellers, tôi không còn nhớ tên (tác giả một cuốn sách đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người Lữ Hành Kỳ Dị), ông này đúng ra có thể viết những tác phẩm "vượt thời gian", nhưng lại bằng lòng làm một tác giả best-seller. Tờ báo kết luận, ông ta đã "bán rẻ" tài năng của mình.
{Tác giả này tên là Harold Robbins]
Trong NHPN có những câu văn thuộc loại bán rẻ, bên cạnh những câu văn thuộc loại bán đắt. Thí dụ như, ngay ở đoạn đầu...
Câu mở đầu là rất quan trọng, Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, tôi đã từng trải qua một kinh nghiệm như thế. Chấp nhận thành công dễ dãi kéo theo những tác phẩm dễ dãi. Có thể có người nghĩ khác, nhưng với tôi, đây là một " kỷ luật", đối với ai đó tính lựa chọn cuộc đời "trăm năm rách nát với văn chương". (Nguyễn Du). Beckett còn khó hơn nữa: Hãy thua. Thua nữa. Thua cho bảnh.
*****
Theo tác giả một cuốn sách viết về Chekhov, William Faulkner đã lấy Chekhov làm thí dụ, 'Trong một truyện ngắn, bạn càng nói nhanh, càng giản tiện về một điều, một chuyện, và nếu được, thì đây là thứ số một, như Chekhov, khi ông sử dụng mỗi lần hai hay ba ngàn từ. Nếu không được thứ số một, ông phải dùng tới tám chục ngàn từ'. Về truyện dài, ông nói, "Trong một cuốn tiểu thuyết, bạn có thể cẩu thả, nhưng trong truyện ngắn, không thể cẩu thả. Tôi nói tới những truyện ngắn của Chekhov. Chính vì vậy mà tôi coi tiểu thuyết là thứ hạng nhì.... trong truyện ngắn bạn phải hết sức chính xác."
Chekhov vốn không viết được truyện dài, và để giải thích cho sự không thể viết: "Chỉ những nhà văn thuộc nòi phong nhã [issu de la noblesse] mới biết viết tiểu thuyết. Còn chúng ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt quá sức chúng ta."
[Roger Grenier, Hãy nhìn tuyết rơi (những ấn tượng về Chekhov), nhà xb Gallimard, tủ sách Folio, 1992]

Nguyê
n văn câu của Faulkner:
"Vâng, thưa Ngài. Ngài có thể cẩu thả, có thể bỏ rác vào trong một cuốn tiểu thuyết, và người đọc sẵn sàng bỏ qua. Trong một truyện ngắn, kế bên thơ, hầu như mọi từ phải đúng... Tôi muốn nói những truyện ngắn hay, như của Chekhov. Chính vì vậy mà tôi coi nó hạng nhì, bởi nó đòi hỏi chính xác gần như tuyệt đối. Đâu có chỗ thừa để mà cẩu thả. Đâu có chỗ bỏ rác."
(Faulkner ở Đại Học, trang 207)


***

Khi người ta viết [được], thì hà cớ chi mình [còn cố mà]... viết?

Tôi có đọc được ở đâu đó, trong cái cõi văn Việt, một ông nhà văn có tuổi, trong thư gửi một người bạn trẻ lăm le viết, rằng, hồi còn nhỏ, ông ta mê đọc lắm, có đồng nào, là cúng cho tiệm cho mướn truyện, đồng đó. Rồi tới một lúc, ông tự hỏi tại sao người ta viết được, mà mình lại chịu... thua, [chịu bỏ tiền ra mướn truyện]?
Thế là ông viết, và trở thành nhà văn.
Tôi nghĩ, ông ta dù thế nào đi chăng nữa, cũng có chút thành thực, khi nhìn lại cái thuở tập tành viết của mình. Rằng cái chuyện viết nó cũng chẳng ghê gớm gì lắm đâu. Sartre cũng đã từng khuyên y chang như vậy, khi nói: Muốn biến một câu chuyện trở thành một cuộc phiêu lưu, thì cứ việc ngồi vào bàn, và viết.
Giống như một anh chàng lần đầu mê gái, ẩn tàng trong công việc ngồi vào bàn, và viết, là một chân lý của văn chương, khi dám liều mình làm quen với... mớ chữ!
Nhưng giả sử có người hỏi tiếp: Nếu người ta viết được mà tôi cứ cố tình chịu... thua, vưỡn cố tình  không chịu...  viết, thì sao?
Nói rõ hơn, cái việc tớ ngồi vào bàn và viết đó, nó không liên quan gì đến người khác. Người khác viết được hay không, tớ đếch cần. Điều [tớ] cần, là [tớ] viết!

[Khi ngồi vào bàn, hãy nhớ một điều thật là quan trọng: Sau những văn chương Cách Mạng, Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, Chống Cộng, Chống... CỦA CHÚNG TA, bây
giờ chỉ còn độc một thứ: văn chương của tớ, của cậu....]

Hoặc nói bảnh hơn, riết róng hơn: Chỉ khi nào tớ thấy rằng, cậu viết không được, nên tớ mới đành phải... viết:

Vả chăng, những kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn?
(Lý Trác Ngô. Tựa Tây Sương Ký)

Người khác viết được, tớ chỉ cần đọc, chẳng cần viết làm gì cho nó mệt... c[ử] [ả] mình!

Đây là ý nghĩa câu của Barthes: Khi nhà văn xuất hiện, là mở trong hắn ta/ chị ta, một vụ án văn chương. Và cái gọi là văn chương tiền phong, trước hết, và trên hết, là một yêu cầu tự thân, và chỉ chỉ liên can tới, chỉ một nguời. Thí dụ như Nguyễn Du, chẳng hạn. Khi Truyện Kiều xuất hiện, người ta biết được một điều: văn chương chỉ có mỗi một nhiệm vụ, là ca tụng cái đẹp, thí dụ như thân thể một người đàn bà, nhất là khi người đó đang... tắm:

“Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
“Sờ sờ trước mắt một tòa thiên nhiên!”


Coetzee lại giải thích khác, khi đi  tìm ngưyên nhân của cái việc viết dở như hạch ở một số tác giả...

Bởi vì, cũng chính Sartre, đã để cho nhân vật của mình, là anh chàng Roquentin,
Trong khi mơ màng nghe một nàng Kiều đen hát, qua dĩa nhạc Jazz, tại xen cuối ở Điểm Hẹn (Rendez-vous des Cheminots) trong Buồn Nôn:

Some of these days, You'll miss me honey."
[Một ngày nào em sẽ nhớ anh...]

Và mơ tưởng viết về một cuộc "phiêu lưu":  "Nó phải đẹp và cứng như thép"....
[Il faudrait qu'elle soit belle et dure comme de l'acier]

[Phiêu Lưu_Viết_ Dục Vọng Cương Cứng Mong Được Trường Tồn_Le Dur Désir De Durer_ Belle et Dure Comme De L'Acier]


Buồn Nôn thoạt đầu có tên Buồn Phiền: La Mélancolie. Cái tít này, Sartre mượn của Durer, một họa sĩ Đức (được nhắc tới trong Les Mots).
Thân Phận Tình Yêu của Bảo Ninh, sau đổi là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Liệu Nắng Hồng Phương Nam, một cái tên vô thưởng vô phạt, huề vốn như thế, là nhằm trung tính hóa (neutraliser), những cái tên như Bếp Lửa, Nỗi Buồn, Dựa Lưng Nỗi Chết, Mùa Hè Đỏ Lửa, và sau này, Đáy Địa Ngục, Đại Học Máu....?


Cũng vẫn Sartre, trong bài viết về Francois Mauriac, sau in lại trong Nhận Định I (Văn Chương Là Gì?), cho rằng, "Sách nói cho cùng chỉ là mớ giấy lộn, nhưng coi chừng, nó còn là một con đại bàng đang chuyển động” (nguyên văn: một cái dáng lớn đang chuyển động, une grande forme en mouvement). Con đại bàng đang xỏa hết hai cánh rộng của nó đó, là: Sự Đọc. La Lecture..... “Một cuốn tiểu thuyết lớn phồng ra bằng thời gian của những độc giả của nó (un roman... se gonfle, et se nourrit avec le temps de ses lecteurs).”


******

Trong bài trả lời phỏng vấn của Thanh Tâm Tuyền (La Part d' Exil; trong lời giới thiệu, Lê Hữu Khóa đã coi ông là một tác giả đáng gờm nhất, le plus redoutable, đối với giới phê bình Việt Nam, do tính sáng tạo đa dạng, do lý thuyết văn chương tổng hợp), ông viết: Sau khi được giải phóng - après ma libération, tức là sau khi ra khỏi trại tù, chứ không phải sau 1975 (người viết bài này thêm vô) - trên con đường trở về, việc đầu tiên mà tôi làm, là cúi gập mình ghi chép những bài thơ đã được ký ức lưu giữ suốt thời gian bị giam giữ... Tôi là một kẻ sống sót, nhưng tôi không muốn là nhà văn nữa, như tôi từng mong muốn. Khi ở trong trại tù, tôi đã viết trong ký ức: Viết, phải làm sao, đối với tôi, như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Và bây giờ, tôi tự bảo mình: Một việc như thế, khi nào tôi có thể?: Lại-viết (re-écrire)......

Liệu có thể đọc NHPN: như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi?
*****
Ở cuối cuốn tiểu thuyết của Cees Nooteboom, In the Dutch Mountains, người kể chuyện-tiểu thuyết gia nhập vào câu chuyện gẫu,  về sự thực và giả tưởng, với những cái bóng của Plato, Milan Kundera, và Hans Christian Andersen....
"Tại sao", nhân vật Nooteboom hỏi," tôi lại ham muốn  không thể cưỡng lại được, cái việc giả tưởng hóa, nghĩa là kể ra những điều dối trá?"...
"Đó là do bất hạnh", Andersen trả lời, "Nhưng bạn bất hạnh chưa đủ, cho nên bạn chẳng làm sao mà viết ra nổi".

[Coetzee, trong bài viết về Cees Nooteboom:  Tiểu thuyết gia và Du lịch gia]

Coetzee cho rằng, chưa từng có một tác giả nào nhận xét cay đắng như vậy, về chính những gì mà ng ười đó viết ra, và ông giải thích thêm, nỗi bất hạnh của Noteboom, là do ông ta quá thông minh, quá rắc rối nhiêu khê, quá kẻ tỉnh (urban), cho nên không thể nào trao "hết" trứng cho ác (dấn thân hết mình vào chuyện viết, nghĩa là ảo tưởng hóa cuộc đời), và lại còn ít nhức nhối về cái số mệnh (nghiệp) viết (cuộc đời trăm năm rách nát vì văn chương), thành thử không làm sao có thể biến nó thành số mệnh (nghiệp) của chính nó.
Theo Coetzee, chẩn đoán căn bệnh văn chương ở một số nhà văn bất hạnh chưa đủ mà đã đòi viết văn, của Andersen, thật đúng với cuốn In the Dutch Mountains: Với tất cả những tài năng, những dí dỏm, những hóm hỉnh, với tất cả những tia sáng sáng tạo, những chiếu rọi vào một cái tôi, và vào cái gọi là "giả tưởng của cái tôi", với tất cả cái gọi là phong nhã, yểu điệu của một văn phong, cộng tất cả lại, vẫn chưa đủ "cảm" (feeling), để mà viết ra nổi một cuốn tiểu thuyết, tức là một câu chuyện.

*****
Borges nhắc tới một lời khuyên của Khổng Tử, rằng chúng ta phải kính trọng quỉ thần, nhưng Ngài nói thêm, liền đó, rằng chúng ta phải tránh né những loài siêu nhiên đó (the supernatural beings). Kính, và né. Những huyền thoại về Đạo Giáo (Taoism) và Phật Giáo cũng không hề coi thường một lời khuyên như vậy. Theo ông, không có một xứ sở nào lại mê tín như là xứ Trung Hoa. "Cuốn tiểu thuyết bề thế của họ, Hồng Lâu Mộng (The Dream of the Red Chamber), là cuốn tôi [Borges] thường trở tới trở lui. Trong đó, hằng hà sa số, là những ngỡ ngàng, kinh ngạc, [những thần tiên, những mĩ nữ, nào gương báu để soi việc gió trăng, gương soi để khuyên răn người đời, nào tam sinh hữu hạnh, nào nước để tưới sự buồn...], chúng không phải là bất khả, đâu phải là không có, mà đầy rẫy ở trong Hồng Lâu Mộng:  chính là bởi vì đây là hiện thực  (precisely it is realist, and marvels are not considered impossible or even unlikely). (1)

(1): Trích từ bài viết "[Bo Tung Linh, Hổ Khách "
] P'u Sung-ling,The Tiger Guest", ( trong Tuyển Tập Không Giả Tưởng của Borges, Selected Non-Fictions, J.L. Borges, Eliot Weinberger biên tập, Penguin Books, trang 507).

Ở trên, tôi có đưa ra đề nghị: Nắng Hồng Phương Nam, do cái tên của nó, là nhằm hóa giải những cái tên như là Đáy Địa Ngục, thí dụ vậy. Bây giờ, mượn ý của Borges như vừa dẫn, qua một cuốn tiểu thuyết thật là đồ sộ, chắc chắn là đồ sộ hơn, chỉ nói về bề dầy, so với NHPN, chúng ta có thể nhìn ra một "sự thực":
Nếu ĐĐN là một thái quá về địa ngục, thì NHPN cũng là một thái quá, cũng vẫn một [đáy] địa ngục đó.
Một khi bạn bình thường quá, hoặc "ngây thơ quá",  về "vẫn cùng một" thực tại, như vậy là biến nó trở thành không thực, thành một thứ quỉ thần,
mà quỉ thần là phải Kính,
và Né.

Nhắc tới Borges, và qua ông, tới Hồng Lâu Mộng, tới tác giả của nó: Tào Tuyết Cần, (1716?) - 1763 (?), giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm cô phẫn, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại.
Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quí tộc... Năm lần vua Khang Hi tuần du phương Nam, thì bốn lần ở lại nhà họ Tào... có thể đoán biết cuộc sống trong phủ Giang hồi đó xa hoa, vương giả thế nào.... Trong Hồng lâu Mộng, Nguyên Phi về thăm nhà có một buổi mà phải xây cất bao nhiêu đình tạ... nữa là hoàng đế tuần dự ngự đến nhà.
Nhà ông chẳng những hào môn vọng tộc hiển hách như thế, mà còn có truyền thống văn chương...Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: Cha bị khép tội bị cách chức, bị tịch biên gia sản, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ở vùng ngo\ại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu.
Hồng Lâu Mộng có thể xem là làn phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quí tộc đã tan vỡ đó.

[Trích HLM bản tiếng Việt, do nhà Văn Học ở trong nước, xuất bản]

Bây giờ người viết thử mô phỏng đoạn trên, ứng vào NHPN:
Tác giả vốn thuộc vào một miền đất, từ khi bắt đầu lịch sử của nó, đã thừa mứa miếng ăn cái mặc, đã bao lần họ Trịnh muốn thôn tính nhưng đành chịu thua, phải trở về lại đất bắc, rồi tới ngày 30 tháng Tư năm đó... Vào lúc tác giả bắt đầu viết NHPN thì tất cả đã ở đằng sau rồi, cả một miền đất trở thành.... một chân lý không bao giờ thay đổi, cả một cuộc chiến trở thành tủi nhục, cả những ngày tháng dài cải tạo cũng đã quá xa rồi, khi ông viết, ông ở bên Mỹ, và NHPN có thể xem là làn phản quang những hồi ức của tác giả về cuộc sống đã có một thời đẹp đẽ đó, nếu không phải của tất cả thì cũng là của riêng ông, với một số người đẹp ở trong quãng đời đó, nhất là quãng đời cải tạo ở miền bắc, chưa nói đến chuyện nhờ nó mà ông, người tù_như một nhà văn, hân hạnh gặp được Nhất Linh, và luôn cả Loan, tại Hà Nội....

Bạn có thể cho rằng, người viết quá cay đắng, cay nghiệt, quá... nhưng sự thực là như thế đó: Nếu Hồng Lâu Mộng chỉ là một giấc mơ ở lầu hồng, chỉ là cuộc tình tay ba tay tư tay năm tay sáu tay bẩy, giữa Bảo Ngọc và một mớ con gái đẹp, NHPN thật sự chỉ là một cuộc tình, của một anh chàng sĩ quan đi cải tạo, với  một số những người đàn bà....
 
Vần đề còn lại, thật là nhức nhối: Tại sao HLM thì thành công mà NPHM lại... thất bại?

Liệu cái thất bại của NHPN có đáng một ngọn đèn cầy, như Joseph Brodsky đã nói, về trường hợp một "great design"?

Tôi tin là đáng!
Theo nghĩa, một tác phẩm thất bại (dở) nhiều khi cho chúng ta nhiều bài  học quí giá, so với một tác phẩm "được", nào đó, cũng viết về cuộc chiến, đó!

********


Đỗ Long Vân viết Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, tại Sài Gòn, vào năm 1967.
Cuộc chiến, "ba mươi năm nội chiến từng ngày": Ở bên ngoài Sài Gòn. Xa. Xa lắm
Những ngày Mậu Thân 1968. Một năm sau đó. Chưa có. Chẳng thể nào có.
Vậy mà người đọc vẫn cảm thấy, chúng, cái thực, cái chết chóc, cái hung bạo, hiện diện ở trên từng trang sách.
Khi cảm thấy độc giả hơi lơ là với nó, tác giả cảnh cáo: Tại sao, tại sao...

Tôi tin rằng, sau này, sử gia, tiểu thuyết gia, nhân loại gia... muốn nhìn lại những ngày Mậu Thân, không thể bỏ qua Vô Kỵ giữa chúng ta của Đỗ quân.

Đâu phải tự nhiên Thánh Thán bỏ công đọc truyện trai gái ở dưới Mái Tây. Một nhà cách mạng Việt Nam (Nhượng Tống) bỏ công dịch nó.

"Vở 'Mái Tây' tôi dịch hầu các bạn đây nguyên là một vở tuồng Tầu. Người viết vở tuồng ấy là Vương Thực Thủ đời Nguyên. Cũng như tất cả các nhà viết tuồng ở Đông hay Tây phương thường lấy một truyện xưa làm 'lam bản', họ Vương viết truyện này lấy truyện 'Hội Chân' làm lam bản. 'Hội Chân' nghĩa là 'gặp tiên'....."
[Nhượng Tống: Cùng Bạn Đọc. Viết trên Phong Mãn Lâu đêm 25.1.1942]
[Trích từ bản in của nhà xb Văn Học, Hà Nội. 1992]

[Bạn đọc để ý: thời gian Nhượng Tống dịch Mái Tây, là trước 1942, rõ hơn: trước Cách Mạng Mùa Thu. Đỗ Long Vân viết Vô Kỵ giữa chúng ta: trước 1968, trước biến cố Mậu Thân, mà trận địa chính của nó là Sài Gòn, “hang ổ của Mỹ Ngụy”, nói theo những người CS, hay nói theo Đỗ quân: "Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết"].
 
Đâu phải tự nhiên, thay vì viết về cuộc chiến Tây Sơn, và một ông vua Gia Long người miền nam thống nhất đất nước sau đó, Nguyễn Du viết về một con điếm ở mãi bên Tầu, bán mình chuộc cha....

******

Làng Kế Bên: Nắng Hồng Phương Nam?

Làng Kế Bên của Kafka là một câu chuyện gồm gần như chỉ một câu, mà người viết trích lại sau đây:

Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như Nội đây, nhìn lại nó, thấy đời như co rút lại, thành thử Nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: làm sao mà một người trẻ tuổi rong ruổi sang làng kế bên mà không e ngại - bỏ qua chuyện tai nạn - một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, vẫn không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy".
Bản tiếng Anh:
The next village.
My grandfather used to say: “Life is astoundingly short. To me, looking back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand, for instance, how a young man can decide to ride over to the next village without being afraid that – not to mention accidents – even the span of a normal happy life may fall far short of time needed for such a journey”.

Bây giờ cứ giả sử như Làng Kế Bên là:
Địa Ngục,
Trại Cải Tạo,
Đại Học Máu...,
Miền Đã Mất [Lost Domain],
Cõi Thiên Thai,
Quãng đời để dành, theo nghĩa:
Khi còn đang sống ở bên trong một cuộc chiến,  bị nó hành hạ, nên phải bịa đặt ra một quãng đời để dành, bây giờ mới có thì giờ rảnh ranh để sống nó!
Ở đây, [tôi muốn nói, ở trong Nắng Hồng Phương Nam] bạn [tôi muốn nói, tác giả, và độc giả của NHPN] sẽ gặp lại tất cả những giấc mộng lớn nhỏ, mà cuộc chiến làm cho phải bỏ dở...

Cái anh chàng sĩ quan cải tạo, trong thời gian còn cuộc chiến, anh ta bị khốn quẫn về nó.... nên chẳng có thì giờ, dù chỉ để nghĩ, tới làng kế bên, có thể có thực, thí dụ như những người tình mà anh đã từng gặp, mà vì chưa có dịp sống, nên nhét tất cả vào trong đó....có thể do anh bịa đặt...
Rồi chiến tranh kết thúc. Dù muốn, người ta cũng chẳng cho anh có thì giờ lo cho vợ con, gia đình.... Anh phải đi cải tạo, và anh dành cái quãng đời không còn có thể lo cho gia đình đó, mơ tưởng về một cõi thiên thai, về một làng kế bên....

****

Nắng Hồng Phương Nam: Một thứ "Lam Bản" tìm thấy lại, theo nghĩa của Milton:
Paradise Lost: Time Regained. Thiên Đàng Mất Đi là Thời Gian Tìm Thấy Lại
Time Regained: Paradise Lost. Thời Gian Tìm Thấy Lại là Thiên Đàng Mất Đi.
Vấn đề là: Thời gian tìm thấy lại, là thời gian nào?
Thời gian trước, hay sau,
Trại Tù?

****

Nắng Hồng Phương Nam: "Felix Culpa": "Happy Fault", " Happy Guilt": "Tề Ngụy Hạnh Phúc"?

O felix culpa, quae talem ac tantum meruit habere Redemptorem
Missal
O happy fault, which has deserved to have such and so mighty a Redeemer.
Trích theo tự điển những trích dẫn, The Oxford Dictionary of Quotations.

Norman Manea [cho rằng câu này có thể là của St. Augustine, nhưng như từ điển trích dẫn Oxford cho thấy, của Missal] dịch là (nguyên bản tiếng Anh của chính tác giả):
O happy guilt, which has served such a great Redeemer, trong bài viết về  Mircia Eliade, khi trích một câu trong nhật ký của triết gia này:
"Tôi thường nghĩ về mình như sau: nếu không có cái felix culpa đó - là một đệ tử của Nae Ionescu - tôi có thể ở lại quê hương. Tốt nhất, tôi nên chết vì bịnh lao, trong một nhà tù." Ngày 29 tháng Tám 1985.
[Manea trích theo Ricketts, tác giả cuốn sách về Eliade: Mircia Eliade, The Romanian Roots, p. 142).
Normal Manea trong bài viết FELIX CULPA, đã chỉ trích Mircea Eliade, về thái độ ủng hộ phát xít của triết gia này, tương tự trường hợp Heidegger, bị chỉ trích hợp tác với Nazi, và sau đó giữ một thái độ câm lặng thách đố, khinh khi...
Liệu có thể coi NHPN như một "felix culpa", "đối cực" của những đại học máu, đáy địa ngục?

Ôi chao,
Được Sống Sót Cuộc Chiến,
Được Cứu Chuộc Cuộc Tù,
hóa ra là chỉ để:
Được (hay Bị?)
Viết
Nắng Hồng Phương Nam!

***
Thanh Tâm Tuyền, đã từng làm lại được thơ, ở trong trại cải tạo, nghĩa là một cách nào đó, ông lại trở lại được với Làng Kế Bên: Cõi Sáng Tạo.

"...Chẳng có chi là rõ ràng đối với tôi. Tuy nhiên, tôi nhủ thầm, tôi đang sống lại, nghĩa là thơ ca đang trở lại, và tôi sung sướng vì điều này. Tôi rụt rè e lệ như khi còn trẻ, với những bài thơ đầu, tôi giấu bạn tù những bài thơ, tôi không dám đưa cho họ đọc.
Khi bạn sống dửng dưng, ngày này qua ngày khác, chẳng nghĩ tới tương lai, chẳng nhớ về dĩ vãng, không âu lo hiện tại, bạn còn lại chi? Còn cái điều đã có ở trong bạn; nó có đó, chẳng cần đến sự mong muốn của bạn.
Để qua đi những ngày đen tối, những đêm mưa gió, ngày lạnh căm, bão bùng, mùa này, mùa nữa... tôi tìm lạc thú ở cái điều "đã hiện hữu ở trong tôi" đó; tôi mang theo, chỉ có nó; nó luôn luôn ở trong thân thể tôi."
Thanh Tâm Tuyền:
Thơ Giữa Chiến Tranh và Trại Tù

NQT