|
Gió ngày ấy còn
thổi mãi
Hai mươi
năm trước ngõ là một con đường nhỏ dẫn thẳng vào khu tập thể gồm hầu
hết là các gia đình văn hóa mới, có chứng nhận đóng dấu phát hàng năm.
Một cái cổng lớn bằng sắt hàn hoa lá cành thường xuyên được gia cố,
cánh lớn luôn được khóa chặt, giống như mọi cánh cổng liên quan tới
những nơi quyền chức từ bấy đến giờ. Cư dân trong khu thì ra vào qua
cánh cổng nhỏ luôn luôn mở. Đã có lần một ông cán bộ cao cấp có tiêu
chuẩn Volga hứng chí cho anh lái xe nghỉ, tự mình ngồi sau tay lái đưa
vợ tới thăm một người bà con sống ở đó. Bà vợ oai phong lẫm lẫm đã được
anh thường trực cung kính nép bên cánh cổng nhỏ mời vào, còn ông chồng
cao cấp của bà thì được đá mắt kèm lời dặn: 'anh ngồi ngoài trông xe
chờ đồng chí đây không nhỡ trẻ con nó tắt mắt thì chúng tôi không chịu
trách nhiệm.' Cuộc viếng thăm đó đã trở thành một huyền thoại của ngõ,
được kể tới tận bây giờ, khi mà cánh cổng cũ đã được tháo bỏ (có lệnh
hay tự động thì cư dân không một ai biết). Ngày gặp mặt cán bộ công
nhân hưu trí, ông thường trực cũ mắt đã đục đục, bộ còm lê si đa mua
đâu đó trên mạn Quốc Tử Giám giật giật mấy ngón tay ông bạn già hỏi
thăm về ông khách cốp dạo nào. 'Khổ. Nào tôi có biết. Thấy bà ấy bảo gì
ông ấy cũng nghe, lại nữa là ông ấy tự lái xe... May gặp ông ấy không
để bụng chứ hôm ấy thì tôi hoảng quá... ông ấy mất rồi à... Khổ...'
Huyền
thoại dĩ nhiên để nghe mà nửa tin nửa ngờ. Bọn trẻ bây giờ phóng xe ào
ào vào ra cái ngõ chật hàng ngày theo châm ngôn 'đi xe xịn là để người
tránh chứ đâu phải để tránh người' không hoài hơi tìm hiểu những huyền
thoại kiểu như thế, cũng như những điều kiện tinh thần vật chất làm nảy
sinh huyền thoại, chẳng hạn sự tồn tại của một cái cổng có thật và một
ông thường trực có thật một thời. Cũng có thật một thời: vườn hoa giữa
khu tập thể, tiếng bóng chuyền vang rất xa những chiều hè đầy nắng,
những bông sen với mùi hương có thể làm người ta đêm về bay lên được
trong bóng tố dày đặc đầy hăm dọa, bởi tiếng còi báo động quen thuộc mà
bao giờ cũng đột ngột.
Không có
ai từ nơi đó thúc nhau 'đi đi đi đi'. Không có ai từ nơi đó gọi nhau
'về đi về đi'. Người ra ra vào vào cánh cổng vô hình xưa, thân yêu thì
hồ hởi chào nhau, hỏi giá mớ rau con cá vừa mua. Mà ghét nhau, vừa cãi
chửi nhau thì cũng cố làm sao để 'con mặt... kia' biết nỗi khinh bỉ
đang chực vỡ òa ra, nhưng nếu có vỡ òa ra ở đây thì cũng không bị lên
án là kẻ chấp nhặt và gây sự...
Thật ra
thì tôi hoàn toàn không liên quan gì đến cái ngõ nhỏ đầy ứ chuyện vặt
vãnh của thế gian kia. Tôi đứng bên này đường, trấn ngay trước cửa một
nhà hộ sinh, ngày ngày nhìn những bà ộ ệ đi vào và khép nép đi ra, nào
khăn nào nón, đùm đùm gói gói, mặt mũi vừa võ vàng vừa bủng beo, nhưng
mắt thì cứ sáng rực. Tia sáng đó chúng ta thường chỉ thấy ở mắt người
vừa sống lại. Không phải lúc nào họ cũng hớn ha hớn hở cái vẻ ấy, tạm
gọi là vẻ đàn bà. Có những người đi vào một mình, đi ra một mình, mặt
cúi gầm, và tia nhìn của họ không hòa được vào ánh ngày rất rực rỡ ở
miền đất này, khoan thủng mặt đất lầm lỳ, làm chân tôi buốt nhói. Khi
đó, tôi thường lắc mình, rì rào, cố cho giống một một tiếng thở dài an
ủi mà người đời có thể cho nhau. Nhưng có lẽ tôi đã cố làm một việc
không vừa sức, nên họ, những người đàn bà đó thường không nghe thấy, cứ
cúi mặt như thế bước dấn về phía phố. Chỉ có một lần, tôi nhớ rõ, có
một người con gái gầy guộc, mặt vàng như nghệ, ôm một bọc nhỏ cúi đầu
bước ra khỏi cổng nhà hộ sinh. Tôi đã cố chao cả vòm lá trên đầu, gọi
gió giúp sức. Tiếng gió lá rì rào, như một hơi thở nhẹ, êm dịu, bất
thường vào buổi sáng tháng bảy nóng giãy giụa cả người đã khiến cô gái
ngẩng đầu lên. Đôi mắt cô ứ đầy nước và cô mỉm cười. Từ bên đường bước
vội sang một cô gái khác. Họ trao nhau cái bọc, từ đó thoát ra tiếng oe
oe non dại. Tôi nhớ chuyện này là vì nụ cười và đôi mắt ướt kia. Họ dìu
nhau đi vào ngõ, đầu ngẩng cao, bất chấp những đôi mắt nhìn họ. Có một
bà nạ dòng từ trong đó lao ra giằng lấy cái bọc đùm đứa bé, chửi bới cô
gái ầm ỹ. Một bà khác cũng lao ra. Hai người đàn bà trẻ chỉ né người,
bình thản đi tiếp. Chỉ có tôi biết cùng họ rằng con đường dẫn từ cái
cổng chỗ tôi sang cái cổng bên đường rất dài, dài sang tới kiếp sau của
họ.
Hoàn toàn
không phải vì linh thiêng mà tôi biết được những điều vốn mù mịt với
con người. Mặc dù quả thực người ta hay tới gốc tôi khấn vái. Xứ sở này
vốn chuộng những điều bí hiểm, nếu không có thì họ sẽ tự tạo. Nên đền
miễu bị triệt từ năm này qua năm khác mà còn nguyên đó. 'Thần cây đa ma
cây gạo.' Tôi chưa từng được yết kiến vị thần đã lấy thân tôi làm nơi
trú ngụ. Mà ma, có thật sao? Chỉ nhớ lâu lắm lắm rồi, bảy tám kế hoạch
năm năm rồi, một đêm kia có người đàn bà trẻ mang đến đặt giữa rễ cái
rễ con của tôi một bọc nhỏ chỉ còn hơi âm ấm và hoàn toàn câm lặng. Nếu
tính thời khắc theo giờ làm việc của rất đông người khi đó thì đấy là
giữa ca ba. Những người quét đường còn đang rê chổi đoạn đầu phố, phải
tảng sáng hoặc muộn hơn họ mới tới được nơi này. Người đàn bà ra đi
không dùng dằng. Nhưng tôi biết chị ta đã khóc, khóc nhiều lắm, trước
và sau khi từ bỏ cơ quan mà chị ta đã làm việc mấy năm trời, khóc khi
một mình lăn lộn bên rệ đê làng Thanh Nhàn, cái làng mà dân cư của nó
toàn những kẻ cả đời không biết tới chữ thanh nhàn, khóc lúc tỉnh dậy
thấy bên cạnh mình là đứa bé vẫn dính với mình bằng một sợi thịt da
định mệnh. Chị ta sẽ còn khóc nữa, khi đã trở thành một bà lão bệ vệ và
lắm của chìm, rất được ông chồng đang lên như diều thì bị hất về hưu
sớm và những đứa con ngoan ngoãn giỏi làm ăn kính yêu. Nhưng đấy là
chuyện của bây giờ. Tôi là một cây đa già lão. Người già thì thích ôn
cố trước khi tri tân.
Tôi vừa
nói chuyện ma. Phải, nếu có thì con ma nhỏ đó nay cũng đã thành một ma
luống tuổi. Đứa bé đó cứ lạnh buốt dần đi giữa những rễ cái và rễ con
của tôi. Lúc tảng sáng, khi bà lão bán xôi thường ngồi sát tường nhà hộ
sinh phát hiện ra thì đứa bé chỉ còn là một hình người bé bỏng bầm tím.
Cái linh hồn bé nhỏ đó nấn ná một hồi lâu quanh mấy cái tã cái chăn cũ
cũ rồi bay lên lẩn vào vòm lá, buồn bã nhìn xuống đám người đang lao
xao thương cảm và chì chiết, thở dài. Đấy là một tiếng thở dài kỳ dị,
rất kỳ dị vì không chứa ẩn một chút nào sự thoả mãn bé thơ, làm lớp da
xù xì của tôi co lại vì đau đớn. Rồi nó bay đi. Không bao giờ nó trở
về.
Nhưng mà
từ đó dưới gốc tôi bắt đầu một cuộc sống khác. Bà lão bán xôi đặt nơi
thằng bé bị lỗi giờ sinh một bát hương. Những buổi sáng tiếp theo bà
đều cắm vào đó một nén hương và đặt bên cạnh một bát xôi. Bát xôi đó,
khi đã hết hàng, bà sẽ nhẩn nha gảy gảy tàn than và ngồi nhai chậm rãi
cho đến hết trước khi cất gánh lên vai về nhà. Có vẻ như từ hôm đó bà
thường bán hết hàng sớm. Không biết vì sao, một sớm kia bà thôi bán
xôi, chuyển sang bán vàng hương, cũng ở chỗ đó, và bảo rằng thánh khiến
bà. Thánh, theo cách giải thích rối mù mà hết sức đơn giản của bà,
chính là đứa bé, nay đã được sung vào đội ngũ những ông hoàng.
Bà lão sai
một thằng cháu đóng cái hòm gỗ, sơn đúng màu sơn của quan tài loại ba
mậu dịch bán căn cứ vào giấy chứng tử, chất đầy ở một cái phố nhỏ gần
gần đó. Thằng cháu phát huy trí tuệ cho xứng với đồng bạc tương đương
năm bát phở gà của bà, đóng đinh treo cái hòm đỏ đó lên thân tôi, chỗ
có cái chạc ba đầu tiên, thỉnh bát hương đã ấm chân vào đó rồi dùng vôi
ăn cắp của công trường gần nhà quét một vệt trắng lốp từ đó xuống tới
gốc. Thật không ngờ rằng chỉ một cái hòm đỏ nhỉnh nhỉnh hơn tổ chim bồ
câu như thế đủ để đánh thức lại cả một niềm tin tưởng ngỡ đã chết từ
lâu trong lòng dân chúng. Người ta đổ xô tới khấn vái, bát hương đặt
cao quá không cắm được thì họ cắm hương thẳng vào mặt đất, giữa rễ cái
rễ con. Những bà chửa đi đẻ thắp hương trước lúc còn chưa khóc mếu vì
đau. Người nhà họ hớt hải chạy ra thắp hương khi những cơn đau kia đã
tới mức bất bình thường. Những bà bán hàng trong cái chợ gần đó đều đặn
khấn vái nhoay nhoáy trước lúc mở hàng. Những ông mặc thế sự xoay vần,
cứ tiếp tục các lễ nghi cúng quảy để xin thánh thần đừng rời bỏ đất
nước này mà đi hết. Người ta xin phù hộ và người ta lễ tạ, đông nhất là
vào rằm mồng một, chen chúc nhau, thích đẩy nhau, lườm nguýt nhau trong
khoảng cách từ gốc cây cho tới bờ tường nhà hộ sinh. Hoàn toàn công
khai, bởi ngôi nhà sát nhà hộ sinh khi đó là một xưởng chế biến mì sợi
và bà chủ xưởng cũng rất thành tâm vái gốc tôi đều đều mỗi sáng. Sau
này, khi hết chiến tranh, bột mì viện trợ không còn và xưởng chế biến
mì sợi phải đóng cửa, nhà xưởng trở thành trụ sở công an phường thì mọi
sự cũng có khác đi. Nhưng tôi sẽ kể lần lượt và còn chưa tới khoảng
thời gian đó...
Một cách
ngẫu nhiên, tôi biết được cư dân trong cái ngõ bên đường luôn luôn khai
không đúng địa chỉ của mình. Cứ như trời xui, ai cũng như ai đều một
mực nói là nhà họ ở Cây đa Nhà bò. Nghĩa là bên này đường, dưới gốc
tôi. Nghĩa là ở trong nhà hộ sinh. Một cô gái đã đỏ hết mức có thể đỏ
khuôn mặt xinh xắn khi đọc trong cái cười của anh bạn mới quen một sự
nghi ngờ không xứng đáng với sự thành thực của cô. Tôi rất tiếc phải kể
ngay ở đây rằng đấy chính là dấu hiệu đầu tiên cho thấy mối quan hệ của
họ không thể khai thông được, mặc dù cả hai đều trẻ, đều thông minh và
nói tóm lại là đẹp đôi. Cần phải biết rằng vào những năm tháng ấy không
thể có một cô gái chưa chồng điềm nhiên đi qua gốc tôi bước vào cổng
nhà hộ sinh nếu không có một lý do chính đáng, liên quan tới một người
khác có lý do chính đáng để vào ra nơi đó: một bà chị ruột của mình
hoặc của bạn, một bà chị họ, một cô em, hay bà mẹ (ví dụ thế) đi đẻ.
Thực ra
thì cả khu tập thể bên kia đường mang chung một số nhà, như mọi số nhà
khác. Đấy là một trong những khu tập thể đầu tiên được xây dựng sau
ngày tiếp quản Hà Nội. Không phải là một khu dân cư chung chung mà là
khu tập thể của một nhà máy. Ba dãy nhà cao tầng cách nhau những khoảng
sân rộng thênh thang và những vườn hoa to như một góc công viên. Tất cả
các căn phòng đầu tầng đều rộng gấp đôi các căn phòng khác. Theo như
cách người ta hình dung về một cuộc sống chung đầy lý thú thì đó sẽ là
nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân trong tầng, đọc sách chẳng hạn, đánh
bóng bàn chẳng hạn. Trong những tiểu thuyết Liên Xô được hào hứng dịch
và đọc thời ấy thì căn phòng đó sẽ được gọi là Góc đỏ. Những cái cống
lộ thiên chạy xung quanh mỗi ngôi nhà bao giờ cũng khô rang và không
một cọng rác vào ngày nắng ráo. Ngày mưa, nước theo đó chảy ồ ồ xuống
cống cái. Không bao giờ khu tập thể bị ngập, ngay cả lúc đầu kia thành
phố dân chúng bì bõm lội trong nước dâng như lũ trên phố. Những cái ghế
cho trọng tài ngồi thổi còi cầm chịch mỗi trận đấu bóng giao hữu giữa
cư dân trong khu hay giữa đội bóng của nhà máy với các đội bóng khác
trong thành phố luôn được gia cố. Cư dân của khu tập thể sống gần như
cùng một nhịp ăn, làm, chơi. Cũng có đôi ba gia đình có một nhịp sống
khác khiến mọi người vừa nghi ngại vừa ganh tị. Nhưng họ là thiểu số,
và tôi thích kể tiếp về số đông hơn.
Cô gái mới
vượt cạn một mình kia không thuộc thế hệ những đứa trẻ đầu tiên có mặt
trong khu tập thể. Những đứa trẻ đó, sinh sau ngày hòa bình lập lại,
lúc bố mẹ đang phấn chấn vì căn phòng tập thể mới được phân có một đặc
điểm chung: chúng thường mang những cái tên trùng lặp và người ta phải
phân biệt chúng bằng cách gọi ghép tên người sinh thành ra chúng. Rất
nhiều Quyết; Chiến; Thắng; Hòa; Bình; Hồng; Hà; Quang; Minh; Nam;
Trường; Sơn... Gọi lên nghe đã hừng hực tinh thần thời đại, có nhuốm
chút gì đó quê quê (ở tên các cô gái).
Thế hệ trẻ
con đó là anh chị của cô gái vừa một mình vượt cạn. Chúng nó đã từng
chứng kiến mà không hề biết cái phút quyết định sinh tử của cuộc đời
cô. Lúc cô mới chỉ là một mầm sống...
*
Đêm đã thở
một hơi dài mát mẻ vào buổi chiều hè ít gió. Phố đã lên đèn. Những bóng
đèn không có chụp lung lay trên những sợi dây điện chăng dọc ngang trên
thành phố như một tấm mạng nhện khổng lồ. Thế nhưng khu tập thể vẫn âm
thầm tối. Vẫn chưa có điện. Những người đàn bà đang chầu hẫu chờ đợi
bên mấy cái máy nước công cộng rên rỉ. Thỉnh thoảng lại có tiếng ré lên
của một bà nào đấy khi bị mấy ông tắm gần đó dội bắn vào. Bà gầy nhăng
nhẳng than phiền:
'Nóng bức
thế này mà nhà ăn hôm nay không làm cho chảo nước rau muống luộc cho
mát ruột. Cơm chiều mấy đứa nhỏ tha về, nhìn thấy bát canh bí đỏ đã bứ
cả cổ. Chan húp trệu trạo được vài ba miếng là buông đũa.'
Bóng tối
chụp lấy mấy người đàn bà. Tiếng một cô tre trẻ:
'Em dặn
con bé đặt nồi chè đỗ đen. Mà quên không đóng lò mùn cưa trước. Cháu nó
tự làm, lỏng tay, nồi chè chưa nhừ lò đã sụp. Nó không biết tương ngay
đường vào... Còn lạng đường ướt mua vội vàng hôm rồi sợ hết hạn. Đỗ một
nơi đường một nẻo. Cũng cố húp.'
'Còn
không? Nhà này còn khúc đá. Tôi ủ mùn cưa chưa chảy hết đâu. Bảo nó
sang lấy về mà ăn chè. Mùa này chỉ chè đỗ đen đá là chơi được. Nóng thế
này ăn gì cũng như nhai trấu.'
'Không ăn
được thì phải nằm. Nằm một lúc chiếu sũng mồ hôi. Bọn trẻ con thì thích
lăn trên sàn đá. Nhưng mà chỉ mát được vài ba phút, xong rồi là có
thoát được mồ hôi đi đâu đâu. Em bảo chúng nó rải cái chiếu không đứa
nào chịu nghe...'
Lại tiếng
bà gầy nhăng nhẳng:
'Ừ, nhà
này cũng thế. Chúng nó lăn khắp nhà chẳng màn chẳng chiếu. May mà nóng
thế này muỗi cũng sơ tán đi đâu tiệt cả. Sáng dậy bước chỗ nào cũng rin
rít bàn chân vì mồ hôi. Ngồi quạt cho con rã cả tay. Vừa đặt lưng nằm
thì chồng lại...
Tiếng cười
vừa phá ra bị ngắt nửa chừng bởi tiếng trẻ con bỏ dở cuộc chơi trốn
tìm, ùa ra từ những miệng hầm công cộng chưa được lấp, chạy rình rịch,
hố hố há há: 'Ra xem bà điên hát. Bà Tam bị điên chúng mày ơi'. Lũ đàn
bà buông những cái chậu đầy ụ quần áo đương giặt dở, vặn lưng đứng dậy
buông tất cả xoong nồi xô chậu rảo chân theo lũ trẻ về phía cổng. Đám
đàn ông buông gầu, độc quần đùi ướt huỳnh huỵch chạy xô về phía trước.
Phía ấy, phía cây đa già, vẳng lại một điệu ngâm thơ, rồi làn thảm, rồi
sa mạc chênh, rồi lại cả 'Đường cày đảm đang' và quan họ. Loạn xà ngầu.
Rõ là cuộc biểu diễn của người điên. Người đàn bà điên vắt vẻo trên
cành cao chót vót, cười khanh khách, chới với gọi xuống: 'Này chị em
ơi...'. Điện bật sáng bất ngờ. Những người đàn bà đứng dưới kinh ngạc
và âu lo. 'Đúng là chị Tam. Sao lại thế này trời ơi.' - Tiếng người đàn
bà trẻ. Tiếng người đàn bà sồn sồn: 'Vừa hồi chiều cô ấy còn đứng chia
cơm ở nhà ăn tập thể'. Những tiếng xì xào nửa thương cảm nửa ơ hờ lan
trong đám người dở quen dở lạ đang phình dần ra dưới gốc cây. 'Thiếu vi
ta min A đấy mà. Tôi nói đố có sai. Bây giờ có ông nào trèo được lên sờ
nhẹ vào người bà ấy một cái là yên cả.' Tiếng cười ùng ục vang lên như
tiếng nước mới đùn ra khỏi ống sau một thời gian dài bị mất. 'Thì ông
thử trèo lên. Nói thế là đầy mình kinh nghiệm rồi.' '... Mẹ mấy ông
này. Nói thật lại tưởng là đùa nhả. Hồi tôi ở bộ đội, đàn bà con gái bị
đầy. Tự dưng khanh khách cười nửa ngày không dứt. Tự dưng khóc rũ rượi
như bị ma làm. Nằm co quắp cứng đơ. Cứ ông chính trị viên vào đặt tay
lên người một cái là thở bình thường, ngủ dậy lại đâm đầu đào bới gỡ
bom phá đá như điên...' Đám người cứ đông dần lên, nhưng dần dần lặng
phắc. Chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thì thào: 'Đừng làm cô ấy sợ nhỡ
nhào xuống thì chết'. Một cô gái trẻ nói với lên như khóc: 'Xuống đi
chị Tam ơi. Về nhà đi tắm đi... em hứng cho chị hai xô nước đầy rồi. Về
nhà hát. Về em quạt tóc khô cho. Về nhà đi mai còn đi làm...' Người đàn
bà vẫn khanh khách cười vẫn vẽo vọt hát từ cái chạc ba cao chót vót,
tóc đổ dài bay rờn rợn trong cơn gió đêm vừa mới nổi. Bài hát về một
cây trúc xinh đứng một mình vẫn xinh. Bài hát về bèo dạt mây trôi và
những nỗi lòng dang dở. '...Đôi ta thương nhớ í i ... biết bao giờ...
lại nhớ tới người... ra sông lại nhớ tới người chứ xuống sông... xuống
sông gánh nước.. í i...' Đám đông chợt mê đi. Chưa bao giờ họ nghe
người đàn bà nhỡ thì này hát. Sâu lắng. Vời vợi. Đượm một nỗi gì giống
như là hạnh phúc. Và điều ấy trở thành kì quái khi người đàn bà thốt
nhiên ngưng giữa lời ca, khóc khóc cười cười. Không ai để ý người đàn
ông tới cùng đồng chí trưởng công an khối.
'Nào bà
con ta giải tán. Giải tán. Khẩn trương. Về ngủ mai còn đi làm. Mấy đứa
nhóc này... đằng sau quay... chạy!... Nào bà con mình rẽ ra cho chúng
tôi làm việc...
Đám đông
ồn ào trở lại. Người đàn bà lại hát váng lên. Trẻ con cứ như cóc nhảy
ra rồi lại nhảy vào. Cái giọng Nghệ của anh công an nói bình thường
nghe cũng ra khẩn cấp mà chẳng có tác động gì. Thế mà người đàn ông vừa
cất tiếng là mọi người xì xào nhỏ dần rồi theo nhau rời gốc cây. Người
đàn bà trên cành cao cũng ngần ngừ im tiếng.
Người đàn
ông nói giọng Nam bộ nghe nhỏ nhẹ. Mọi người ai cũng biết ông. Độc
thân. Phó giám đốc nhà máy. Ở một mình một phòng nhỏ sửa lại từ cái nhà
tắm ở tầng một. Dân tập kết mà không bia rượu, không ăn mắm sống. Nhiều
khách và nghe nói vợ con còn trong kia. Mấy anh cán bộ tổ chức hành
chính, ông bác sĩ rể của nhà máy, mấy người đàn ông năng nổ và đồng chí
công an xúm vào nhau, vung tay vung chân rồi đồng loạt quay sang ông
Thản;
'Làm thế
nào bây giờ anh? Trèo lên thì trèo được. Nhưng sợ nhỡ ra chị ấy hoảng
nhảy thẳng xuống đất thì...'
Anh công
an hộ khẩu khum hai bàn tay làm loa hướng lên người đàn bà dở tính:
'Chị Tam
ơi xuống đi, xuống có chuyện gì thì đề đạt với các đồng chí có trách
nhiệm. Xuống đi chị... Có gì mà phẫn...'
Anh cán bộ
tổ chức của nhà máy gạt ngang:
'Sao đồng
chí lại nói vậy. Ai làm gì mà chị ấy phẫn. Chị Tam xuống ngay. Có gì
thì phản ánh chúng tôi giải quyết!'
Người đàn
bà điên đung đưa đôi chân, vuốt mớ tóc dài về đằng trước, khe khẽ cười,
khe khẽ khóc, rồi lại hát váng lên. Tiếng hát giờ khản đặc. Ông bác sĩ
đứng nghiêng người nhìn xuống bàn chân lắng nghe...
Ông bác sĩ
đến gần ông Thản:
'Anh Thản
này! Tôi nghe như chị này giả dại đấy thôi. Nhưng cũng là vì đầu óc
căng thẳng lắm. Không biết chuyện gì. Thường ngày ở cơ quan anh chị ấy
làm gì... Làm nhà ăn à? Hay là có chuyện chấm mút gì bị vỡ lở ra...
Người đàn
bà điên đã chuyền cành xuống gần chỗ hai người đàn ông đứng, bất chợt
cười phè phè, và lại tiếp tục vẽo vọt những lời ca vờn quyến thê thảm.
Ông Thản lắng nghe, cố trấn áp xuống đáy lòng một nỗi xót thương sâu
xa. Ông không biết vì sao người đàn bà lại dở ra như vậy. Chỉ mới chiều
nay chị ta còn đứng chia cơm trong nhà ăn. Chị ta bao giờ cũng ý tứ xới
cho ông một gà mèn cơm vơi vơi, nhưng lại gia thêm thức ăn hay chút
nước canh vào cái nắp gà mèn. Chị ta không mấy lúc bắt chuyện với ai.
Nhưng chăm làm như một bà cố nông vừa được chia ruộng. Suốt mấy năm rồi
chị ta là chiến sĩ thi đua của nhà máy. Cũng cảnh cơm tập thể như ông.
Có lần bên bể nước, ông thấy chị ta nhặt mớ rau và vo một rá gạo con,
cười ngượng nghịu lúc mọi người trêu chọc về nỗi người làm bếp ăn tập
thể lại chê cơm tập thể. 'Nhà có ông anh họ' - 'Thế không phải là ông
anh ruột à? Anh liền ruột ấy mà. Nghe phong phanh cô có... Này, cứ tìm
cha nào xa vợ mà tấn công áp sát. Tiếc gì cái mác chiến sĩ thi đua. Gỡ
gạc lấy đứa con... ' Bà có tiếng bỗ bã nhất cười hơ hơ nửa châm chọc
nửa thành tâm khuyên bảo... Khi đó ông Thản đã lặng lẽ xách xô nước rút
dù. Lòng ông đau nhói. 'Có hẳn đàn bà cứ phải tầm ruồng đàn ông chỉ để
kiếm một đứa con?' Về phòng, ông Thản buông phịch xô nước ngoài cửa,
ngồi như một gốc cây khô. Ông nhớ đôi môi mềm ấy, làn da nóng ấy, đôi
mắt ấy. Hừng hực và lấp lánh trong bóng mờ căn phòng không bao giờ tối
hẳn bởi ánh sáng của ngọn đèn đầu đường hắt chéo vào. Người đàn bà ấy
ông đã bao năm theo đuổi, đã cưới về, đã có với ông hai mặt con trước
ngày ông ra đi, đã chỉ nhìn ông ứa nước mắt. Vợ chồng ông buổi đó không
nói lời hẹn thề. Nhưng mà ông tin cậy vào những năm chung sống. Sự ngu
ngốc của đàn ông! Nhưng có hẳn là như thế. Khi mà khoảng thời gian chia
xa đã không phải là hai năm, đã là mười hai năm...
... Những
người đàn ông đứng bối rối và bất lực dưới gốc đa. Ông Thản lên tiếng,
qủa quyết và điềm đạm:
'Thôi các
anh cứ về ngủ mai còn công việc, để tôi đứng đây chờ chị ấy xuống.'
Anh công
an hộ khẩu trẻ mừng rỡ vì được giải thoát ra khỏi công việc bó tay bó
chân này, nhưng cũng có phần lúng túng:
'Vậy thì
hay rồi. Tôi về qua đồn một chốc rồi lại chạy ra. Mà có điều gì gấp rút
thì đồng chí chạy qua chỗ tôi...'
Phố vắng
dần. Vào khuya. Ông xích lô vẫn chực khách trước cổng nhà hộ sinh cũng
đã vắt mình lên yên kẽo kẹt đạp đi. Ông Thản đứng lặng lẽ dưới gốc cây,
tiếc đã không hỏi ông xích lô hút nhờ một điếu thuốc lào cho bớt cơn
thèm một hơi thuốc lá bất chợt khô ran lồng ngực. Gió đêm rờn rợn quẩn
trong vòm lá. Người đàn bà điên im lặng, lầm lũi tuột dần xuống. Ông
Thản lặng lẽ gio tay. Người đàn bà đổ nhào vào ngực ông, nức một hơi
khan, âm thanh khản đặc: 'Em khổ quá.' Không biết vì sao ông Thản lại
nói như mình biết cả: 'Đừng dại dột em ạ. Trẻ con không có tội gì....'
*
Chỉ có tôi
biết rõ nguồn cơn câu chuyện của họ:
- Anh bảo
em làm sao bây giờ? Không chồng mà chửa. Nhục nhã thân em đã đành. Còn
mang tiếng cả nhà máy. Biết làm sao bây giờ.
- Đừng oán
hận người ta chị ạ. Có phải là lúc ấy chị đã hạnh phúc? Đừng băn khoăn
miệng tiếng người đời. Trẻ con không có tội gì. Mà nếu chị quyết... thì
tôi sẽ trao đổi với ban phụ nữ nhà máy xem có cách nào... Chỉ có điều
ta phải cùng nghĩ cho kĩ. Biết đâu đứa trẻ không phải là nguồn cơn đau
khổ...
Người đàn
bà đổi thế ngồi, vén gọn mái tóc rồi chậm chạp búi lại:
- Anh nói
phải. Nếu em bỏ cháu, miệng tiếng người đời em cũng vẫn không ngăn
được. Đã chắc gì để mà hy vọng vào duyên muộn. Chỉ có điều em sợ... Nhà
máy sẽ không kỷ luật em chứ anh. Anh nói hộ em một câu. Tội nghiệp. Giờ
mà em bị đuổi... Đã thoát ly rồi mà phải đâm đầu về quê, ruộng đất vườn
tược không, nhục thân em đã đành, cả nhà em nhục. Sinh cháu ra để cháu
bị sỉ vả bêu riếu từ trong nhà ra ngoài làng, thà rằng em lại trèo lên
cây đâm đầu xuống...
Người đàn
bà cố trấn áp nỗi sợ trước cái nhục thứ hai, nếu tính cách trục mầm
sống ấy ra khỏi thân mình. Sẽ còn phải lâu lắm kể từ ngày ấy những phụ
nữ lỡ làng như chị mới có thể tự do đi vào phòng sinh đẻ có kế hoạch ở
các bệnh viện phụ sản, đóng tiền, nhận một cái tích kê, rồi mấy tiếng
sau yên tâm ra về trong cảm giác vừa nhẹ nhõm vừa đau đớn vừa cắn rứt.
Không có một tờ giấy cam đoan của một người chồng cho phép chị làm điều
ấy, chị sẽ phải xin giấy chứng nhận ở cơ quan, sẽ phải chịu đựng đủ
kiểu nhìn như muốn lột da rút xương của những người quen người lạ. Chị
đã từng biết điều đó, không hẳn là người trong cuộc. Nhưng tuyệt nhiên
không phải là kẻ đứng ngoài. Mãi mãi chị không quên nổi buổi chiều ấy,
buổi chiều chị vừa tròn mười tám tuổi, buổi chiều chị rơi tõm vào trong
nỗi đau đớn không cùng tận của đời đàn bà.
*
- Ối giời
chị Phận. Tưởng chị hôm nay đi chợ Thá. Em đang dở tay làm cỏ. Chị vào
nhà... U em trong buồng. U ơi, chị Vân đến chơi đây này...
Người đàn
bà kéo nón, múc nắng tạt mặt. Đôi mắt dài có cái nhìn rừng rực và làn
môi nhợt nhạt làm cho gương mặt ấy thật đáng chú ý. Thời mỏng mày hay
hạt, thời má đỏ môi hồng, thời ngồi trên hè chằm nón thỉnh thoảng nhìn
ra sân nắng cười một mình của chị đã tàn héo từ lâu, từ lúc tiễn chồng
đi B, suýt chết vì đẻ non ngay buổi tối xã làm lễ báo tử một loạt mười
anh trai làng. Từ ngày đó, Phận quần quật làm, thôi không chằm nón nữa
mà đi buôn nón những ngày việc đồng áng vãn. Chị hay qua nhà Tam, nhìn
con em họ vai cứ tròn dần, má cứ ửng dần, tóc cứ bóng dần, thở dài bảo
bà Nhị:
- Thím
đừng bắt nó lấy chồng sớm. Chả trai làng thì trai thiên hạ. Hiếm gì.
Như cháu đây, nói thím đừng cười, đến cái hơi chồng có muốn nhớ cũng
không nhớ nổi. Thì thím bảo cưới được có mấy ngày. Người làng người
nước cả. Bố mẹ cháu nhận lời thì cháu cũng gật. Biết gì đâu. Chúng cháu
chả được như chú thím...
Bà Nhị
cười. Bà cũng cảnh vợ liệt sĩ từ khi còn trẻ. Cũng bao đêm nghiến răng
nằm không dám mộng, không dám đặt bàn tay lên chính thịt da mình, từ
chập tối đã thu vén con dao bầu đặt đầu giường. Nào phải để phòng ai.
Phòng chính mình thôi. Nhưng bà biết mình hạnh phúc hơn người cháu họ
của chồng. Ông bà mê nhau thật. Lại nữa bà không vướng bận gì nhiều với
gia đình nhà chồng. Ông Nhị con độc, các cụ qua đời sớm cả. Đến tuổi
này, nghe cô cháu họ của chồng than vãn, bà Nhị mới giật mình. Giá
không thương nhau đến vậy, giá không từng mê nhau đến vậy, không biết
bà có giữ mình khó hơn không...
... Bà Nhị
cầm con dao bài rọc lá trầu mà tay cứ run bần bật:
- Việc đến
thế rồi hả cháu. Mày định sao bây giờ. Mà sao ngu thế, đã chồng đã con
rồi, cũng phải biết giữ thân. Ai lại để tới tận giờ mới tính. Vỡ chuyện
ra thì mày chỉ có nước chết với nhà nó.
- Cháu chả
sợ thím ạ. Ông Trác ông ấy đang ngõi ghế chủ tịch xã, đố dám làm ầm
lên. Xấu mặt cháu thì hổ mặt ông ấy thôi mà. Ông ấy rên ầm ầm. Những là
tôi tưởng thím lòng gang dạ sắt thờ chồng. Bao nhiêu đàn bà góa đàn bà
ế, được cái danh vợ liệt sĩ là hơn thiên hạ đủ đường. Cháu mới bảo thế
này, thế thì bác gái có lẽ cũng mong cái danh ấy lắm. Sao ngày ấy bác
đẩy nhà em nhập ngũ ở nhà làm ông xã đội trưởng quèn. Bây giờ bác làm
phó chủ tịch xã rồi, to chuyện rồi, em mới đến thưa chuyện với bác. Chứ
bác vẫn chỉ là ông xã đội, em chẳng dám. Bà vợ ông Trác phủi đít đứng
dậy bảo cháu gái đĩ già mồm. Thím xem, cơm no bò cưỡi người ta chửi
thiên hạ dễ thế đấy.
- Thế
thằng Trác bảo sao?
- Ông ấy
đi ngay ra ủy ban, cấp giấy cho cháu đi phá. Cháu đã định liều. Nhưng
ông ấy nói như van thím ơi thím làm thế chết tôi chết cả họ nhà này
không ai không ngẩng mặt lên được thím nghe tôi thì thôi tôi coi thím
vẫn là người trong nhà trong cửa. Chả hiểu ông ấy đả thông bà vợ thế
nào mà bà ấy mang ra cho cháu gần trăm bạc với hai thúng gạo nếp với
lủng củng những gì gì nữa cháu cũng chả nhòm. Cháu bảo phắt bà ấy mang
về.
- Mày định
thế thật à. Cháu ơi người chửa cửa mả. Không dưng động dao động kéo vào
người. Mà cái thằng mặt dày ấy là thằng nào?
Chị Phận
cười nhợt nhạt:
- Thằng
nào mà chả như thằng nào hả thím. Thằng nào lúc ấy mà chả luồn chả cúi
chả như trâu húc mả. Thím bảo thời buổi loạn này, thằng nào ở nhà không
đui què mẻ sứt chân tay thì bụng dạ cũng toàn rắn rết. Lúc ấy cháu chỉ
nắm cái ý của nó thôi mà. Có khác gì nhau đâu.
...Tam
không nghe được câu chuyện buồn thảm của mẹ và chị. Bà Nhị gọi cô gái
vào, chẳng nói gì nhiều, chỉ dặn dò:
- Chị Phận
phải đi bệnh viện. Mày để u làm nốt cỏ vườn. Đi thu xếp quần áo theo
chị lên viện xem có đỡ gì được nhau không. Cầm lấy chục bạc này, vài
hôm nữa u lên nếu chị em chưa về được. Có lọ vừng u mới giã hôm kia
cũng cầm theo. Mà chị có thèm ăn gì cũng không được mua bán lung tung,
chỉ được cơm với thịt rang, cùng lắm thì mua cái bánh giò.
Người con
gái vô tư:
- U buồn
cười, ngưòi ốm mà lại bắt ăn kiêng thế thì nóng ruột chết. Cũng phải
tấm mía múi bưởi chứ lại, rồi bát canh khúc cá. Em sẽ mua cho chị. Em
có tiền riêng, không cần tiền u em. Mà chị bị bệnh gì phải đi viện gấp
thế, sao em chả nghe nói trước gì.
Bà Nhị nạt
mày biết gì rồi quay sang cô cháu, nghẹn lời:
- Phải giữ
mình con ạ. Sao tao lo qúa, lo còn hơn hồi mày đẻ con Ngần. Cố chịu đau
chịu đớn kiêng khem cho kĩ rồi về chừa đi con ạ.
Phận cúi
mặt, nghẹn ngào:
- Thôi nói
làm gì trước hả bà. Con đi chuyến này, chả nghĩ đến mình, chỉ những
thương con Ngần. Nó quặt quẹo từ ngày mới đẻ. Đã nhà quê, đã mồ côi,
lại không xốc vác, mai sau biết làm gì đút miệng.
Tam là
người duy nhất trong ba người đàn bà không nghĩ rằng những lời đó sao
mà sái. Nhưng cả mẹ và người chị họ cũng không hề nghĩ rằng chỉ hôm sau
đã phải để tang nhau.
*
Ông Thản
ôm người đàn bà đang run bần bật trong cơn nức nở khan, buồn bã. Ông
không nghĩ tới việc trách cứ Tam. Có thể làm điều ấy được chăng khi
trong trí ông lần lượt diễu lại những con chữ tai ác. Những con chữ làm
ông đau đớn, vì nỗi bất lực của mình khi nghĩ tới hai đứa con gái còn
nhỏ dại, nghĩ tới người vợ đã bỏ nhà đi. Vợ ông có đau đớn như thế này
không? Có tủi hổ như thế này không? Có tuyệt vọng như thế này không?
Đối diện với nỗi đau khổ của Tam, ông chợt hiểu ra rằng ông không được
quyền căm hận. Nỗi đau khổ cùng cực suốt mấy tháng qua đã làm ông lầm
tưởng. Còn lại trong ông, nguyên vẹn, vẫn là những yêu thương ấy, những
yêu thương sâu nặng, sâu nặng đến độ trở thành đảm bảo cho lòng chung
thủy nơi ông.
Thế cho
nên ông Thản đã không ngần ngại buông bát cơm chiều vào thẳng nhà hộ
sinh thăm Tam vừa qua cơn đẻ khó. Chị thư ký công đoàn nhà ăn e dè:
- Thì anh
cứ ăn cho xong bữa hẵng nào. Trong ấy giờ có chị tổ trưởng phụ nữ rồi.
Lẽ ra phải báo cho phòng hành chính. Nhưng giờ này thì còn có ai ở nhà
máy nữa đâu. Vả lại không hiểu sao cô Tam cứ một mực xin được gặp
anh... Cô ấy nói gở lắm...
***
Ngân không
biết có cần phải mô tả tiếp nỗi đau đớn của người đàn bà tội nghiệp ấy
nữa không? Chị ta nằm như dán vào cái giường trải tấm chiếu không còn
biết màu gì của nhà hộ sinh. Khuôn mặt qua cơn mất máu vì đẻ khó không
xanh mà bừng bừng đỏ trong cơn sốt. Trên cái tủ con đặt sát giường Tam,
chỏng chơ nải chuối và hộp sữa. Chị tổ trưởng phụ nữ nhà ăn, người vẫn
thường đứng bếp với Tam sốt ruột đứng đổi chân ở đầu giường, dáng vẻ
vừa thương hại vừa dè bỉu, diễn đạt trọn vẹn lòng tốt bất đắc dĩ với
mấy sản phụ đầy vẻ hạnh phúc cùng phòng. Chị ta thấy ông Thản, tươi
cười:
- May qúa,
phó giám đốc có đây rồi. Bác sĩ vừa lại phòng báo chuẩn bị chuyển cô ấy
lên viện C anh ạ. Giờ cô ấy mới ngủ có vẻ yên yên. Trước cứ mê, khóc
gọi ai mãi...
Người đàn
bà ngừng lại, thăm dò:
- Với lại
cứ gọi anh...
Ông Thản
bình tĩnh:
- Được
rồi, chị về qua nhà chị thư kí công đoàn, nói tôi nhắn công đoàn trích
qũy trợ cấp đột xuất cho cô Tam, mức cao nhất. Cô ấy chưa lo được cho
con. Mà thế này thì chưa biết nằm tới bao giờ...
- Cô ấy
may mắn qúa, được phó giám đốc quan tâm trực tiếp thế này...
Không có
một chút ác ý nào, dường như thế, ẩn tàng sau câu nói. Nhưng hình như
mọi lời đồn thổi tai vạ thiên hạ tung ra làm cho người đời điêu đứng
đều bắt đầu như thế chăng? Không như thế, người ta sẽ không thể chịu
đựng nổi ngày sống khó nhọc, buồn chán mà tưng bừng của những năm tháng
ấy. Không ai biết, trong cơn sốt khô rốc, Tam đã gặp lại người chị họ
chết đã bao lâu rồi . Đã nhìn thấy mình trong tấm thân dường như mỏng
hẳn đi của Phận sau cơn băng huyết, không động cựa giữa căn phòng bệnh
viện huyện âm u cơn gió đồng chiều. Đã thấy lại mình, mười tám tuổi,
đưa ngang cánh tay gạt nước mắt ròng ròng chảy, lếch thếch xách gói đồ
hai chị em hôm trước tha đi, chạy theo hai người đàn ông bà con hàng
huyện đã thuê giúp để võng xác Phận về. Cô gái mười tám tuổi chẳng biết
tục lệ làng nước là gì, đã suýt làm cả làng náo loạn...
Buổi chiều
ấy bà Nhị không hiểu làm sao mà cứ như giẫm phải tổ kiến. Bụng dạ tơ
vò. Bà không nói được với ai về nỗi sợ thất đảm đang nghiến lấy tâm can
mình. Nắng chiều còn như chan lửa, bà đùng đùng đội nón, vác sào ra thu
rơm đang phơi lại, rồi chạy ra chạy vào, luấn quấn với đàn gà và đám
thúng mủng, bụng bảo dạ phải nấu nướng rồi sáng mai đùm lên với hai chị
em nó.
Buổi tối
ấy, trăng quầng. Bức bối. Bà Nhị chặn chuồng gà xong, ra ngõ, nép dậu
cúc tần, nhìn ngược về phía đầu làng. Thì Tam chạy tới, giọng khản đặc:
- Mẹ ơi,
con đưa chị Phận về. Bây giờ võng chị ấy vào đâu?
- Giời ơi!
Chị ấy chết rồi ư? - Bà Nhị nghe hai hàm răng lách cách trong miệng như
vào những ngày đông đi làm bùn cấy cần, hay sang đò sớm đem nón mới
chằm đi chợ xa - Nó đâu?
- Chúng
cháu đứng đây bà ạ.
Tiếng đàn
ông đục đục. Hai bóng người nhô ra khỏi hàng rào ô rô nhà bên, trải dài
trong trăng cùng cái võng treo giữa hai đầu đòn xóc, phủ tấm chiếu im
lìm. Bà Nhị run giọng, nói như rên:
- Các ông
làm phúc... Giời ơi... Đây không phải là nhà chị ấy. Nhà chị ấy chỉ có
độc con bé cháu hơn mười tuổi. Con tôi không biết... Tam ơi, con nhờ
hai bác võng chị trở lại đầu làng. U đi báo cho bên nhà chị ấy. Giời
ơi... ối Phận ơi...
Bà Nhị
khóc suốt đêm ấy, khóc khi mắng thẳng mặt thằng cháu chồng phó chủ tịch
xã và con vợ chỏng lỏn của nó, khóc khi lẩy bẩy liệm đứa cháu dưới gốc
đa đầu làng và chôn nó trong đêm, khóc khi ôm đứa con dại của Phận vào
lòng cố dỗ cho nó ngủ. Nhưng sáng ra thì bà không khóc được nữa khi
nhìn mặt con gái. Mặt Tam trắng như người nằm ổ, nhưng cô không có cái
vẻ yếu lướt tự hào của họ. Cô như người đi lạc, dúi vào đâu ngủ đỗ, rồi
đột nhiên bừng tỉnh. Bà Nhị biết thế là vĩnh viễn con mình không còn có
thể vô tư. Chỉ một sớm một chiều, cô đã chạm tới nỗi đau đâm suốt đời
đàn bà, thuở đó.
Nhưng Tam,
dù thế, không tự miễn dịch được cho mình. Nếu những người đàn bà biết
bước lùi trước những khao khát hạnh phúc của mình, có lẽ họ đã không
đau khổ nhiều như thế. Nhưng như thế, thế giới này còn gì?
***
Trích đoạn
bản thảo:
Thế giới
này còn gì? Thật là một câu hỏi đàn bà. Chỉ có đàn bà hay những người
trẻ tuổi mới băn khoăn và đặt những câu hỏi chẳng để làm gì như thế. Sẽ
đến ngày cô ta nhìn đời nhẹ nhõm hơn, ân cần hơn, bớt thiết tha hơn. Và
cô ta sẽ gần giống như tôi: chấp nhận tất cả.
Và cũng sẽ
đến cái ngày cô ta hiểu ra rằng dính vào chuyện văn chương chữ nghĩa là
dính vào một trò chơi nguy hiểm, mà kẻ đặt cược vào chữ nghĩa thường là
kẻ thua. Sẽ chuốc lấy cho mình những băn khoăn day dứt không có kết
thúc. Sẽ tự làm mình rủi ro khi cứ cố phân tích bản thân, cố đi tìm
mình trong bóng đời. Điều ấy, người đời sẽ hiểu ra thôi, rất nhanh. Chỉ
cần một cơn bệnh trọng. Chỉ cần một lần mấp mé bên bờ sống chết.
Cô ta lấy
tôi làm nhân vật. Tôi từng nói về mình rồi, tôi có lẽ không thiêng
liêng gì. Nhưng tôi có linh hồn, sinh thành từ đất và nước. Tôi đứng
đây, đón tiếng gió ngàn đời, nhìn ngắm con người và muốn hiểu họ. Tôi
đã thấy cô ta từ khi cô ta còn bé tí, nắm chặt ngón tay bà mẹ, chập
chững đi trên mấy đầu ngón chân những bước đầu tiên ra với phố. Chính
hôm đó là hôm tôi trút lá ra lộc mới. Nắng. Và gió. Và tôi đón từng cơn
gió thả lá rào rào. Cô bé lúc đó mặc cái váy trắng, cổ trễ một bên vai
và gấu lại hếch lên một bên, để lộ cặp đùi gầy. Đứa bé ấy đã ngước nhìn
tôi, đã reo vui: "Mẹ... Lá..." Đấy là đứa trẻ con đầu tiên đã để ý đến
tôi. Và cũng bởi thế tôi đã không ngừng quan tâm tới nó. Tôi biết đứa
bé ấy cái ngày nó ôm con búp bê nhựa mậu dịch nhem nhuốc nhăn nhó để
cho mẹ nhét vào cái ghế ngồi bằng gỗ đã bắt đầu chật chằng sau xe đạp
cùng đủ thứ đồ lỉnh kỉnh. Tôi đã dõi theo nó dọc thành phố, đã thấy nó
gà gật trên con đường dẫn ra ngoại thành về nơi sơ tán. Ở đó, nó đã học
những bài hát đầu tiên buồn thảm. 'Be bé bằng bông - hai má hồng hồng -
bé đi sơ tán bế em theo cùng...' 'Bố ơi bố mũ bố có sao vàng - sao
vuông mũ mẹ mũ con sao gì?'. Cả một bài kinh khủng... Giải phóng miền
Nam? Tôi biết nó ngày nó trở về thành phố, đi học còn phải mang theo
cái bàn gấp bố nó kì cạch đóng từ gỗ tạp và nửa cục gạch thay cho ghế
ngồi. Từ bao giờ, chính tôi không tự biết, ngày sống của đứa con gái ấy
đã trở thành một phần vui buồn của lão già này...
Nó, chính
nó, đã là kẻ đầu tiên thành tâm ôm ấp con bé người đàn bà giả điên sinh
ra. Không phải là mẹ con bé, không phải bà nó, cũng không phải ông
Thản, người đàn ông đã tự hứng lấy bao nhiêu đồn thổi và nghi kị độc
địa, không hề được một lần nói lại rằng không phải ông thương đứa con
của ngưòi đàn bà lỡ dở vì tình ý với chị ta, mà chỉ vì...
***
- Cô Tam
này! Em bé đói rồi này. Nó cứ mút mãi ngón tay của cháu.
- À à úi
chao ôi con bống. Em tè sũng ra rồi đây chị Ngân này. Em tè hết nên
rỗng bụng đấy mà.
- Cô cho
em bé bú đi. Rồi để cháu trông em cho. Máy nước đang vắng, cô đi giặt
cho em đi cô ạ.
- Ừ. Ngân
giúp cô thế này thì học vào lúc nào? Rồi mẹ có mắng cho không? Độ vài
ba hôm nữa bà nhà cô từ trong quê ra đỡ cho cô, chaú sang chỉ việc chơi
với em thôi. Rồi chị Ngân dạy em học nhé. Con mẹ nằm đây với chị nhé,
để mẹ đi vò ù cái đống tã này...
... Lúc ấy
Ngân lên mấy nhỉ? Ngân đâu đã cạn nghĩa chữ thương người. Cứ xong bài
vở là Ngân kiếm cớ qua nhà cô Tam, để được nắm hai bàn chân nhăn nheo
mỏng hơn cả chân búp bê của em bé, được ngửi cái mùi sữa chua chua
phảng phất quanh giường, và chơi trò ra vẻ mình là chị lớn cho thoả ao
ước có em. Ao ước ấy, Ngân đã bao nhiêu lần kèo nèo mẹ. Nhưng mẹ và bố
chỉ cười, bảo có hai chị em Ngân là đủ rồi, cứ đứa nào cãi nhau thì đứa
kia bênh và sau này cúng giỗ thì hai chị em chia nhau việc. Bố bảo
thích em thì sang mà chơi với em nhà cô Tam. Mẹ dặn thêm có sang thì
trông em đỡ cho cô giặt giũ cơm nước. 'Đang chân son mình rồi giờ con
bận con mọn một mình ra ra vào vào cái chái đó, rõ tội. Nhà ở quê nghe
đâu cũng neo người, có mỗi bà cụ lụi cụi với mấy con gà con qué giờ
cũng phải thu xếp ra trông cháu lâu dài... May mà có ông Thản... Người
ta bảo...'
Khi đó
Ngân đâu đã hiểu hết sự độc địa của người đời. Bác Thản Ngân vẫn gặp
chiều chiều ở nhà cô Tam. Bác ngồi yên lặng nhìn con bé, rất ít khi
cười. Không có Ngân ở đó thì bác sẽ thay Ngân trông con bé cho cô Tam
đi chợ, giặt giũ hay chạy ra tổ phục vụ đầu ngõ. Mấy hôm trước Ngân mới
thấy cô ngồi nán lại nói chuyện với bác:
- Em nghe
bác thôi ăn cơm tập thể. Thế là thế nào ạ? Chị em giờ nấu không ngon
hay sao ạ?
- Có gì
đâu cô. Ăn tập thể thì cứ phải đúng giờ đúng giấc. Tôi công kia việc nọ
hay đến muộn, phiền các chị các bà xong việc ngồi chầu phục vụ nốt tôi.
Với lại tự túc thì mới thấy hóa ra mình không ăn hết tiêu chuẩn. Tháng
này tôi còn dư ba lạng phiếu thịt, lại cả phiếu cá và đậu phụ. Cô cầm
lấy mua thêm. Vài ba hôm nữa bà ngoại ra, thêm miệng ăn trong nhà là
gay lắm đó.
- Em trả
ơn anh cả đời không nổi. Không có anh thì đã không có con bé cháu bây
giờ, thì chắc em ân hận suốt đời. Anh giữ lấy phiếu mua mà dùng, em
không dám cầm đâu. Em làm nhà ăn thì lạ gì. Tiêu chuẩn sự nghiệp hành
chính có bao nhiêu. Mà anh thì đồng hương đồng khói suốt.
- Ấy cô
Tam đừng bận lòng. Anh em tới tôi thì có gì ăn nấy à. Dân Nam tụi tôi
sống dễ mà. Cô không cầm thì không lẽ xui tôi mang ra bán cho phe phẩy,
rồi mắc cái tiếng tiếp tay với tư thương, khéo bình bầu cuối năm trượt
cái oạch đó đa... À mà cô Tam này, việc khai sinh cho cháu tới đâu rồi?
- Dạ... Em
đang rối cả ruột anh ạ. Em đã hứa với người ta sống chết gì cũng không
khai tên người ta ra, không để người ta khổ từ trong nhà ra phố. Nhưng
mà lớn lên con tủi nỗi không cha thì... em sợ cháu oán.
- Tôi
người ngoài chả dám bàn gì. Nhưng nếu chỉ vì một cái tên đàn ông để làm
bố con bé cháu thì... Tên tôi nè. Tôi họ Võ. Mấy đứa nhỏ nhà tôi tên
đẹp không à. Võ Hằng Thương con chị. Võ Hằng Tâm con em. Hay con bé này
ta đặt là Võ Hằng ... Hằng...
- Giời
ơi... Cả cái nhà máy này ai chả biết chỉ độc anh họ Võ. Mẹ con em làm
thế sao đành.
- Cô Tam
băn khoăn làm gì. Người ta nói mỏi miệng thì người ta thôi. Mà giả dụ
họp đảng ủy có ai nói ra nói vào thì bất qúa tôi lại tiếp tục lặng im
là cùng chứ gì. Cái chính là con bé. Đã sinh ra nó thì phải cho nó được
làm người bình thường. Chúng ta đã sống không bình thường mãi rồi. Tôi
nghĩ hay gọi nó là con Hằng An. Võ Hằng An.
Cô Tam
nước mắt ròng ròng. Ngân chả hiểu vì sao. Chỉ thấy bác Thản đặt tên cho
em bé hay quá. Nghe qua đã chôn ngay vào ruột.
- Mẹ này,
em bé nhà cô Tam sẽ tên là Võ Hằng An. Sao bố mẹ không đặt cho con tên
hay như thế. Tên gì lại là Lều Thoại Ngân. Cô giáo bảo họ nhà mình nghe
như họ người Hoa. Thế là chúng nó cứ gọi con là Tàu Phù đanh đá.
- Tên con
hay mà. Có gì mà phụng phịu. Con bảo cô Tam đặt tên em bé là Võ Hằng An
à?
- Không!
Bác Thản đặt. Cô Tam nghe rồi khóc. Tên em bé hay hơn tên cô ấy bao
nhiêu.
Mẹ đưa mắt
cho bố. Đêm, xoay trở trên cái giường có rệp, Ngân nghe mẹ thì thào vơí
bố:
- Ông Thản
liều qúa. Rõ là thánh chứ không phải là người. Cái cô Tam không có phận
mà gặp ông ấy thì qúa phúc. Trước thấy mấy ông miền Nam tập kết ngồi
đâu cũng chửi, lại tụ tập bia rượu lu bù, em cứ chờn chợn. Nghĩ người
Nam họ hời hợt, ba trợn ba trạo. Ra ở đâu cũng ngưòi mình cả, có thế
này thế khác.
- Tốt thế
rồi thì khổ - Tiếng bố.
Cả bố, cả
mẹ, và người cùng nhà máy không ai biết rằng đêm đêm ông Thản vẫn lần
đọc lại lá thư cũ kĩ. Thư do con gái ông viết, không biết vì nước mắt
hay vì những cơn mưa rừng mà nhoè mất nhiều dòng. Cũng không ai biết,
khi đặt tên cho đứa con của người đàn bà khốn khổ, ông đã nghĩ tới một
đứa bé khác, đã hình dung mình là một người đàn ông khác, và người đàn
bà nước mắt ròng ròng ngồi trước mặt ông không phải là Tam, mà là người
vợ ông yêu.
***
Sau này,
Ngân đã nhiều lúc dằn vặt mình bởi không hề nghĩ rằng khi ngây ngô kể
về người đàn ông tốt bụng và kín đáo ấy chị đã làm cho bố mình mất ngủ.
Nhưng biết làm sao được. Khi đó Ngân còn bé qúa. Cái giường đầy rệp
không thể làm mất giấc của một đứa trẻ lên mười
Nửa đêm về
sáng, người cha lặng lẽ vén màn khoác áo ra đường. Gió từ bờ tre bên đê
rờn rợn thổi trên tấm lưng còn âm ẩm mồ hôi. Sao đã mờ đi. Phố phường
thanh vắng qúa. Cái thanh vắng yên lành của những đêm vừa yên bình trở
lại. Vẫn còn nguyên những dãy tăng xê hai bên hè phố. Hầm công cộng
cũng chưa lấp. Không còn tiếng còi báo động hú dồn. Người đàn ông đi
trong cơn mộng mị, trong nỗi thiếu vắng thắt lòng một Hà Nội cũ càng.
Hà Nội của những tiếng rao đêm rải trong sương trước ngày kháng chiến.
Hà Nội chợ Hôm thơm nức mùi thức ăn đầu chợ Hôm thời hòa bình lập lại.
Ngày đó ông hai mươi. Mới chỉ hai mươi.
Ngày đó
ông còn làm việc ở phố Trần Bình Trọng. Khuya, công việc vãn vãn, mấy
chàng trai rủ nhau thả bộ dọc Trần Nhân Tông đi kiếm cái ăn đêm. Hồ
Thiền Quang về khuya mơ màng như một con mắt khép khiến chàng trai liên
tưởng tới con mắt kia lấp lánh sau mái tóc lơi bên má... Cô gái nhà góc
Quang Trung Trần Nhân Tông... Đề tài bàn tán mê mải của mấy anh cán bộ
mới về xuôi. Bao lâu rồi ông không còn gặp lại anh em cũ cùng cơ quan
độ ấy. Bao lâu rồi ông không một lần thấy lại gương mặt cô gái ngày
xưa. Đâu phải vì đã vợ con mà không dám tìm người nữa. Tránh tất cả
những quan hệ cũ, người cha tìm cách tránh gặp lại chính mình. Ông căng
thẳng toàn bộ con người mình để sống, như tất cả mọi người thời bom
đạn, nhưng cũng là để chống lại hồi ức mênh mông cứ tìm cách quay về.
Về những ngày tháng ở cơ quan, về một thời mới lớn, về những chiều
sương một mình một túi dết công văn, áo nâu quần đùi lên Chiêm Hóa hay
lần về ngủ đỗ nơi Ghềnh Quýt. Về những người anh hay than phiền ông
lười tưới rau tăng gia ngày ấy. Họ bây giờ ở đâu?
Ông cúi
đầu đi, không muốn hỏi mình câu đó. Họ ở ngay đây, trong lòng thành phố
này, chắc là không mất ngủ như ông, chắc là không phải vật vã với khao
khát có nguyên cả một căn phòng để đêm về vợ chồng có thể thì thầm
những điều ngoài chuyện tem phiếu và lương lậu, để buổi tối con có chỗ
mỗi đứa một góc học bài. Họ ở ngay đây, giữa thành phố này, chắc là
không phải đổ trống ngực khi gắp thăm cái xe đạp cung cấp cho vợ khỏi
phải rều rệu đi bộ đi làm đi chợ. Như ông những năm chưa xa xôi gì.
Những năm
ấy, bao nhiêu đêm đông gió bấc, khi ngồi sau xe ôm lưng bố để bố đạp xe
loanh quanh các phố cho qua cơn thở khó, Ngân đã nghe bố kể bao nhiêu
chuyện về thời xưa của ông. Tiếng được tiếng mất, lúc bị bạt đi vì gió,
lúc bị chìm lấp trong hơi Ngân thở rít như tiếng gió hút qua ống nứa.
Khi đó, Ngân chưa cảm thông sâu xa được với cha mình. Chỉ thấy đời buồn
khổ qúa, nặng nhọc qúa, nặng nhọc như sự hô hấp của mình. Tiếng dương
cầm khuya thường nghe những đêm xưa ấy không mang lại cho Ngân một cảm
giác gì nhẹ nhõm. Nó giống như âm thanh vẳng lại từ một thế giới khác,
có thật, rất yên bình, mà không thể nào len vào được. Đấy không phải là
ý nghĩ bình thường nên có ở một con bé lên mười.
Cảm giác
cô độc của mình bắt đầu từ đó chăng? Nhiều năm sau này, khi ngồi cùng
chúng bạn. Ngân lại bắt gặp mình luẩn quẩn với ý nghĩ này. Cảm giác đó
chiếm trọn ngày sống của Ngân. Nhưng cô độc không phải là thói quen,
chưa bao giờ là thói quen của chị. Rất ít người biết điều đó. Bởi thế,
rất nhiều người thân với Ngân.
Nhưng
những người con trai từng muốn đi qua đời Ngân thì biết rất nhanh. Mặc
dù họ không hiểu. Bản năng tự bảo vệ của đàn ông! Họ làm Ngân kinh ngạc
và oán hận, đôi khi, để rồi sau lại thấy cả hai cùng may mắn. Họ nhận
ra ngay cái phanh tự động rít lên trong tâm hồn Ngân ngoài ý muốn của
Ngân. Không ai biết rằng cần phải mặc kệ, cần phải đừng kiêu hãnh thế,
cần phải bước dấn thêm một bước cho ngưòi đàn bà nhỏ kia gục đầu vào
vai mình, rỏ lên đó những giọt nước nóng bỏng và mặn mòi, để rồi sau đó
...
Bản thảo...
Để rồi sau
đó... Nếu có thể thế, cô ta sẽ nói cho anh ta nghe cái gì. Về tình yêu
chăng? Ở trên bát ngát này, tôi đã nghe được bao nhiêu tiếng thì thầm
tình ái vẳng lên từ mặt đất. Tiếng lục đục hối hả vọng lên từ dưới hố
tăng xê giữa giờ báo động. 'Nhanh lên anh, nhanh lên anh, báo yên
rồi...' 'Em...' Tiếng chàng trai rên không khác gì tiếng người sắp
chết. Những đứa trẻ có biết rằng chúng được sinh ra để rồi chết trong
những năm tháng ấy như thế nào không? Không phải từ tình yêu. Làm sao
có thể có tình yêu giữa hai con người chưa từng biết mặt nhau, chỉ vô
tình đi qua đời nhau khi lao vội xuống hố tăng xê vào lúc còi báo động
rú. Những đêm hè Hà Nội... Những ban trưa Hà Nội... Không chợ. Không
trường. Không ông bà già. Không con trẻ. Chỉ có những người trẻ tuổi đi
về theo tiếng còi tầm. Nhưng đấy không phải là một thành phố chết. Vẫn
ran ran tiếng ve những buổi chiều lộng gió. Hàng sấu phố Trần Hưng Đạo
mùa hoa vẫn rải những cánh nhỏ như màu nắng sáng đánh lừa đàn sẻ mỗi
bình minh. Mấy gốc ban già đường Thanh Niên dẫu vắng chân người vẫn đơm
vầng hồng xôn xao khi mùa xuân đến sớm. Và, những đứa trẻ vẫn ra đời.
Không phải từ tình yêu, không phải, mà từ nỗi tuyệt vọng của lòng ham
sống. Hay cũng có thể là từ thói dễ dãi cả trong hạnh phúc lẫn bất hạnh
ở không ít người.
Hay là
tiếng thì thầm mời mọc đêm đêm vẫn lan từ gốc cây này tới gốc cây khác
ở khoảng phố gần nơi tôi đứng đây. Những đứa trẻ lớn lên đã giễu cợt
gọi chỗ đó là thung lũng tình yêu. Nơi đó nhiều công sở và nhà lãnh
đạo. Nơi đó có một bể bơi thiếu niên chỉ những chiều hè sau những năm
đánh phá lao xao tiếng trẻ. Nơi đó có một vườn hoa nhỏ đối diện với cửa
nhà xác một bệnh viện. Nơi đó có những bức tường trống chạy dài các
khẩu hiệu được viết bởi bàn tay của các họa sĩ nhà nghề nằm kề bên
những cánh cổng sắt chỉ mở ngày đôi bận cho xe ra vào. Bọn đàn ông ban
ngày thường một tay giữ ghidong xe đạp một tay vạch quần tồ tồ vào
tường, ngay cả lúc khối phố đã cho kẻ thêm bên cạnh các khẩu hiệu khí
thế hừng hực hai chữ lạnh lùng: Cấm đái. Còn ban đêm, cũng họ, sẽ tìm
tới khoảng không gian khai mù mịt lấp ló những ngọn đèn dầu chỉ đủ soi
rõ mẹt thuốc lá hay mẹt bưởi sấu ô mai, để mặc cả, âu yếm và chửi rủa.
Tất cả những ngọn đèn thành phố cho lắp ở khoảng phố đó đều bị người ta
chọi đá cho vỡ lập tức. Đấy là thiên đường đèn dầu. Của những gã choai
choai no cơm hứng cật. Của những tay đàn ông nhà quê thoát li xa vợ
lương chỉ đủ tậu cái xe đạp tuần tuần tháng tháng về nã thêm gạo của vợ
con. Của những người đàn bà xộc xệch vì cơm áo thường từ mấy khu bờ
sông lại hay từ đoạn dưới Lương yên Thúy ái ngược lên. Tôi rất sợ những
âm thanh vọng lại từ nơi đó... Chúng không giống như tiếng bình yên của
những bầy chim thức sớm...
***
Nơi đó,
gần nhà lắm, nhưng Ngân thường tránh đạp xe qua. Đi thêm một đoạn nữa,
sẽ có thể rẽ ngang, sẽ lại gặp những vòm cây bốn mùa xanh lục, và những
khoảng phố êm đềm. Ở khoảng giữa phố Lê Thánh Tông, nhiều năm về trước,
đi ngang nhìn qua hàng rào gang một biệt thự có lính gác, bọn Ngân buồn
cười mãi vì lần nào cũng thấy một ông da đen đen mặc váy quấn một cục
trễ rốn. Nghe nói đấy là một lãnh tụ cách mạng ở Miến Điện. Đấy là một
chiến sĩ thực sự hay đấy là một tên cốp khủng bố? Làm sao một câu hỏi
bất kính như thế có thể nảy ra trong đầu Ngân khi đó?
Nhưng sau
này, hồi tưởng lại phố xưa, nhớ cái bụng tròn đen đen bệ vệ lộ ra dưới
cạp váy của ông lãnh tụ Miến Điện, Ngân lại băn khoăn nhớ. Những cuộc
cách mạng bùng nổ là hạnh phúc hay là bất hạnh của các dân tộc đã đưa
vai ra gánh gồng lịch sử? Và những cuộc kháng chiến? Có phải người ta
cứ phải đi cho hết con đường máu ấy để trở lại với mình? Những ai, nào
những ai ai, sau khi chinh chiến đi qua còn được nhớ?
Đám bạn
thường cười Ngân vì nỗi nhớ đủ thứ vớ vẩn và vô nghĩa, trong khi ngày
sinh của nhau, chẳng hạn, chật vật lắm Ngân mới có thể giữ được trong
đầu. Nhưng một cuộc gặp gỡ tình cờ, một tiếng cười vô cớ, một câu
chuyện bâng quơ tất cả đã quên đi thì Ngân lại nhớ rành rẽ nhiều năm.
Cần phải nhiều thời gian nữa để Ngân hiểu rằng chai đá được là đỡ khổ.
Bao giờ?
Một cách
vô thức, Ngân đã tự biến mình thành nơi lưu giữ kí ức của ông bà cha
mẹ. Thổi suốt lòng Ngân cho tới bây giờ là tiếng thầm thì về cơn gió
của những chiều biên giới xa xưa, là tiếng đêm rì rào bí ẩn của cánh
rừng vây quanh khu nhà cơ quan giữa rừng Việt Bắc. Bữa cơm cơ quan
không có tay đàn bà nấu nướng toàn măng và bí đỏ những ngày đầu kháng
chiến. Miếng thịt trâu bạc nhạc người bạn Tày hơn hai tuổi để dành cho
bố sau chuyến giao thông về sớm ngày ấy ngọt mãi tới bây giờ. 'Gian nan
đời vẫn ca vang núi đèo - Nhớ khi tiếng mõ rừng chiều - chày đêm nện
cối đều đều suối xa... Ngày ấy đúng là thế đấy...' Người cha hay nhắc
nhỏm những tên đất tên người. Lạ, nghe mãi thành thân quen, như tên
quê, như tên người họ hàng gần vì hoàn cảnh nên chưa bao giờ biết mặt.
Bố kể:
- Ngày xưa
khi bằng thằng con gái của bố bây giờ bố đã một mình đi giao thông rồi.
Đường rừng quanh co. Lắm dốc lắm. Mình người Hà Nội, tản cư về quê mấy
ngày đã biết mùi đồng ruộng rừng rú gì đâu. Mỏi lắm. Thế nhưng mấy cô
Mán thì lại cứ cười rinh rích bảo đi đường miền xuôi chắc mỏi. Các cô
ấy trèo núi quen, đi chân bao giờ cũng nhấc cao thế này này.
Bố kể:
- Ông cụ
người Thổ, tên là Muỗi, tính hiền lắm, nhà nghèo lắm. Mà có cái gì cũng
cho cơ quan. Có năm sinh nhật Bác, cơ quan bày trò ăn uống. Ăn mãi thịt
trâu bí ử sợ quá rồi, ông Tuất mới xung phong cải thiện cho anh em.
Tưởng làm gì, hóa ra ông ấy tính thịt con chó ông Muỗi cho đã nuôi được
tới nửa năm. Đã chuẩn bị đầy đủ riềng húng mắm tôm, mài dao rửa thớt
xong xuôi từ chiều hôm trước. Lại còn phân công nhau vào tận trong bản
vặt cho được mấy quả chanh cốm. Cứ thấy con chó len lét len lét, sập
tối chui tít vào tận góc lán dưới sạp nằm im thít. Anh em bảo chó nó
khôn, nó biết sắp chết nên buồn, có anh lại tuyên bố luôn là thà ăn
thịt trâu kho thừa lại còn hơn ăn thịt nó. Nỡ nào... Ai ngờ con chó nó
ngửi ra mùi cọp. Nửa đêm, nằm trên sàn nứa, cả sạp dài thế này này,
nghe oẳng độc một tiếng, tất cả chồm dậy vỗ sạp ầm ầm. Đốt đuốc lên
thấy một vệt máu chạy từ tít trong góc dưới sạp ra cửa. Hôm sau, nhìn
mới biết con hổ rình gần chỗ trồng bụi ớt từ bao giờ. Hú vía. Hết được
xơi thịt chó lại quay ra thương nó qúa. Nuôi nó từ lúc nó bằng con
chuột mang từ nhà cụ Muỗi về...
Những kỉ
niệm bố nhắc lại quanh mâm cơm nghe có vẻ vui vui nhiều hơn buồn. Những
buổi chiều đi đánh đai gốc trám chờ trám rụng để hôm sau nhặt. Những
trưa rủ nhau đi đánh cá suối bằng nhựa cây sui. Những đêm rừng trong
quán tản cư ở Sơn Dương. Và cô Mán vẫn hồn nhiên se trụi cả lông mày
bằng sợi chỉ. Ngân đâu biết vì sao cha mình thiết tha với ngày cũ đến
thế, đâu biết vì sao dù thế ông vẫn không tìm gặp lại bao người trong
những câu chuyện ân tình xưa. Mà ông, cũng đã chắc gì ông tự biết, rằng
mình thực ra đã sống hết đời người từ sau lần oan khuất kinh hồn mà ông
chỉ nói nhẹ nhàng là tai nạn, rằng mình thiết tha với yêu thương xưa
chỉ để sống mà san sẻ bớt ngày tháng gian nan cho vợ cho con.
Những ngày
tháng lạ lùng với Ngân. Bầy trẻ cùng khu tập thể đi sơ tán vãn cả. Đám
lớn theo trường. Đám nhỏ theo cơ quan bố mẹ. Lớp học rã không tăm hơi
bè bạn. Chị gái cũng theo trường đi. Chỉ còn Ngân, bé nhỏ và yếu đuối,
giữa thành phố trống, chờ mẹ đưa về quê ở cùng bà. Mỗi sáng Ngân bê cái
ghế con trên chồng mấy cuốn tiểu thuyết người lớn và bát bánh khúc,
tròng thêm vào cổ cái bi đông sắt của bố, lùi lũi xuống ngồi một mình ở
cửa hầm công cộng vừa đượ cxây cầp tốc trong khu. Những cơn gió sớm
thênh thang lồng qua các cửa hầm, hơi bom từ làng bên hất văng người,
hương vị chiếc kem que ngày chiến tranh... Tất cả Ngân đều biết. Không
có gì giống cảnh Matxcova để trống trước bước hành quân của đoàn lính
viễn chinh Pháp mà Ngân đã đọc được ở Chiến tranh và hòa bình chính
trong những ngày tháng đó...
Năm ấy
Ngân còn chưa lên mười. Tất cả đều lạ lùng. Bởi vì yên tĩnh, mặc dù de
dọa thì cụ thể và bất ngờ hơn rất nhiều. Cái làm Ngân nhớ nhiều không
hiểu vì sao lại là bậc thang mà Ngân đột nhiên phát hiện ra một vết lở
mới vào một đêm chạy báo động. Vết lở ấy còn mãi mấy mươi năm sau. Nó
không nhắc nhớ ngày chiến tranh, nó nhắc nhớ những con đường làng lát
gạch nghiêng không biết từ thuở ca dao nào và sau này chẳng hề được tu
bổ, toang hoác những ổ gà. Những ổ gà khiến các bà lão đêm đêm ngồi
hóng gió ở dốc bến giữa xóm nhỏ mà bà cháu Ngân sơ tán về lại chép
miệng thở than về một ngày xưa không trở lại.
Nhưng
những ngày tháng đó vẫn chòng chành mãi trong Ngân. Điềm nào báo trước
cuộc chiến tranh khi đó? Chưa bao giờ Ngân nghe ai thắc mắc như mình.
Hình như cái điềm ấy đến cùng với chấy và rệp. Không biết lây từ đâu mà
trẻ con hồi ấy lắm chấy thế. Tóc nhiều đứa trứng chấy trắng như rắc
vừng. Có mấy đứa con gái vẫn chơi với Ngân còn phải gọt trụi cả đầu để
tiệt chấy. Mẹ chiến đấu từng ngày với những con chấy sơ tán qua đầu hai
chị em Ngân những lúc tụ bạ cùng đám trẻ, nhất quyết không để chúng kịp
sinh sôi. Đấy là một cuộc phong tỏa tuyệt vọng và mẹ đã chứng tỏ một sự
kiên nhẫn khó hiểu. Tối nào chị em Ngân cũng phải gò cổ gục đầu trên
trang vở để mẹ lấy lược bí cào lên mái tóc cắt ngắn của mình và mẹ vô
cùng hể hả khi đột nhiên một con chấy kềnh rơi bộp xuống, lồng vô
phương trên trang vở như một chiếc xe tăng.
Nhưng mẹ
phải buông xuôi trước đám rận cũng đột nhiên sinh sôi ở mọi nhà trong
khu tập thể vào hồi đó, mặc dù mẹ được bố giúp tận tình. Ngày cuối tuần
nào cả nhà cũng phải tổng vệ sinh. Mẹ nấu hết ấm nước sôi này đến ấm
nước sôi khác để bố dội vào từng khe giường. Thế nhưng bọn rận lì lợm
vẫn cắn nhoay nhoáy cả đêm khiến mẹ thường xuyên mất ngủ. Ngân không
tài nào lí giải được nguyên nhân nạn chấy rận hoành hành trong khu tập
thể hồi đó. Chúng đột nhiên biến hết ít ngày sau khi máy bay Mỹ ngừng
đánh phá. Điều ấy bí hiểm chẳng khác gì sự bầy cò vẫn bay rợp phố Ngân
ngay cả trong những ngày năm ác liệt nhất đột nhiên rùng rùng bay đi
vào một buổi sáng rất đỗi yên bình và không về lại.
Bố kể hồi
lên Việt Bắc cả cơ quan cũng bị bệnh ghẻ hành. Nấu đủ thứ lá lẩu độc
địa để tắm mà không lại với ghẻ. Rồi cũng tự nhiên mà khỏi, đồng loạt,
vào năm bắt đầu mùa phản công. Còn rận, bố bảo chả có bao giờ, mặc dù
giường nằm là sạp nứa đóng dọc lán cho cả đống người đêm đêm co quắp
nhau. 'Đỡ lạnh.' Bố bảo thế, mắt ánh lên một niềm âu yếm tháng ngày đã
qua.
Ôi chiếc
giường kháng chiến. Ngân không thể nào hình dung được mình có một lần
nào nằm trên đó. Có lẽ bởi thế mà Ngân không sao hiểu thấu nỗi chua
chát của bố khi nhắc tới những ân tình thời ấy. Với Ngân, ân tình phải
được biểu hiện trong sự đủ đầy vật chất chứ không phải chỉ là trong
gian khó. Lúc gian nan, ngưòi ta dễ sống với nhau hơn, dễ lo lắng cho
nhau. Đấy chưa chắc là cảm thông, đấy là bản năng cộng sinh của con
người.
***
Khi đã đi
xa, người đàn bà trẻ con của tôi nhiều khi ân hận vì nỗi đã tàn nhẫn
nói tuột điều đó với cha mình. Ông bố không yên lặng. Ông không thể nào
chịu nổi ý nghĩ chính nỗi đau khổ của mình là căn nguyên tính khí hoài
nghi ở con gái. Dù không còn dám tin người, ông vẫn mong con mình biết
tin người, tin đời. Không có chuyện cân nhắc đó là bản tính tốt hay
xấu. Nhưng ông biết rằng, khả năng dễ tin sẽ làm người ta sống dễ dàng
hơn, vui vẻ hơn. Và ông cũng biết rằng ông đã chua xót biết bao nhiêu
khi phải trút lại nửa cuộc đời kia của mình, nửa đời vô tư lự, đầy tin
tưởng, niềm tin vô chừng hoang dại.
Gió ngày
ấy còn thổi mãi. Xót và ráp. Như con đường len lỏi qua những cánh ruộng
bậc thang thiếu nước mà ông vẫn còn cảm được dưới chân trần, bàn chân
của cậu bé học trò Thủ đô nhà nghèo nhưng cũng chỉ mới bắt đầu biết thế
nào là lăn lộn khi chiến tranh vồ tới. Gió ngày ấy còn thổi mãi, lạnh
buốt hơi mưa chiều rừng Việt Bắc. Cậu trai mười bốn tuổi lên cơn sốt
rét nửa đường đi giao thông. Thằng bạn vừa đỡ ông đi vừa khóc vừa chửi
cho bằng hết vốn liếng chửi bới bằng ttiếng Kinh đã học được ở ông.
'Mày ơi. Đi đi. Mẹ mày. Không tao bỏ mày lại ở đây cho cọp vồ bây giờ.
Cố thêm một đoạn là tới Sơn Dương. Cố đi nào. Rồi tao đi xin kí ninh
cho. Rồi tao xin gạo nấu cháo cho. Mẹ mà mày chứ mày làm ông khổ.' Ông
không đi nổi nữa. Thằng bạn lệch thệch cõng ông, cổ tròng thêm túi dết
công văn của ông. Mãi mãi sau này , khi đã từng trải bao nhiêu cay
đắng, khi đã tự dứt mình khỏi mọi quan hệ cũ, ông vẫn thầm tự hỏi không
biết bây giờ thằng bạn lang bạt nơi đâu. Có nhớ chiều xưa cõng ông đi.
Có nhớ đêm xưa ở Sơn Dương dựa lưng vào đống chăn mượn đắp cho ông háo
hức nghe những câu chuyện vùng tề của đám đàn ông đàn bà buôn chuyến.
Có như ông, vẫn nhớ y nguyên tiếng ghita phập phừng bên đống lửa. Và
những bài ca... 'Đêm nay biết bao nhiêu người Thủ đô mơ thấy trở về nơi
ngàn năm văn vật ... ôi Hà Nội ơi ghi biết bao kỉ niệm luyến thương...
Ngày Tổng khởi nghĩa tưng bừng muôn ánh sao vàng... Ngày tết Trung Thu
các em nhi đồng Thủ đô vui đón trăng lên quanh Bờ Hồ... Ba Đình...'
Tiếng đồng ca chìm đi trong một giai điệu buồn buồn rồi bất chợt lại
cất cao phơi phới... 'Mời anh vệ quốc dừng chân bên quán...' 'Đây miền
biên giới chứa chan bao tình mến thương...Còn lưu tiếng thơm lớp người
ngày xưa lưu dấu... Đây miền biên giới êm đềm khi bóng chiều về... Lôi
cuốn bao người về vui với gió chiều hôm... Có ai xuôi về miền quê đồng
bằng yêu dấu... Tôi nhắn đôi lời...'
Gió ngày
ấy còn thổi mãi. Cơn gió sáng đầu tiên về lại Thủ đô. '...Cất bước ra
đi chiều năm xưa... Dặm dài kháng chiến quên ngày về... Bụi đường
trường chinh pha mái tóc... Cất bước ra đi ghi lời thề... Ngày mai sẽ
về...' Bài ca ấy làm ông buồn lịm cả người khi tìm về phố cũ, dù biết
chẳng thể nào thấy lại bóng mẹ bóng em. Ông đã đứng dưới gốc cây già
đầu phố nghe tiếng gió, nhớ quặn lòng thằng bạn Thổ không được về xuôi
tiếp quản Thủ đô, hoàn toàn không biết rằng chỉ nỗi nhớ ấy là duy nhất
để ấm lòng nhiều năm tháng về sau. Nhớ giọng nó hút dài đi trên con
đường rừng buổi hai đứa từ Sơn Dương về lại cơ quan. Bài hát ấy ở cơ
quan có lẽ chỉ có hai đứa hay hát nhất. 'Mẹ ơi lúc xa mẹ tuổi còn đang
thơ ấu... con ra đi xa xăm không hẹn ngày về... Buổi nào con ra đi lòng
ghi nhớ... Tiếng của mẹ già gọi hoài vang nương khe...' Và ông, vừa dứt
cơn sốt, thấy mình không giống mình của ngày hôm trước. Nó có nhìn thấy
đôi mắt ông nóng ướt hay không mà đột nhiên chuyển giọng, gào mấy câu
hát nhại vừa học được đêm trước: 'Tóc em dài sao em không búi cứ phi dê
cho rối lòng anh...' Không có một bóng người trên đường ngoài hai thằng
con trai nhỏ. Chỉ cánh rừng sau mấy ngày mưa sũng nắng mới hừng. Không
bao giờ ông gặp lại thằng bạn đã chia chung với ông tấm chăn đơn ngày
ấy, đã tập cho ông ăn ớt hiểm chống sốt rét, đã chỉ cho ông cách đào
măng và thổi cơm lam. Làm sao ông có thể nói cho Ngân hiểu được rằng
đấy phải là những ân tình vĩnh viễn và ông tin có những người không bao
giờ thay lòng. Không có niềm tin ấy, làm sao ông có thể sống sau những
ngày không còn dám tin ai mình vẫn thường gặp mặt và thường phải tự xét
mình sống có còn lí tưởng hay không?
Tâm sự.
Tâm tình. Lí tưởng... Không hiểu sao Ngân lại dị ứng đặc biệt với những
từ như thế, đến nỗi không bao giờ dùng để nói về mình. Ngôn ngữ không
phải là đời sống con người. Ngôn ngữ đứng đằng sau đời sống và bản thân
nó lại có một cuộc đời riêng biệt. Không thể gò ép nó. Không thể gọt
đẽo nó. Không thể phỉnh phờ nó. Và cũng không thể dùng nó để phỉnh phờ
mình.
Cũng vì
thế mà Ngân ưa chế nhạo. Trước hết là chế nhạo mình. Đấy là một khả
năng rất không nên có ở đàn bà. Nó cũng giống như cái kính mà một người
đàn bà trẻ phải mang, dù có đẹp có sang có đắt tiền đến mấy thì cũng
chỉ làm cho ngưòi đàn bà đó mất nhiều hơn được trong cái nhìn đầu tiên
của người đời. Người đàn bà phải cần hơi hơi xinh, hơi hơi thông minh,
hơi hơi duyên, còn ngoài ra: thừa, để có thể hạnh phúc theo tiêu chuẩn.
Lê Minh Hà
|
|