KHI THÔNG ĐIỆP
PHẢI THỐT THÀNH LỜI
Xem Khúc cầu nguyện của Ea
Sola
Nguyễn Thanh Sơn
Nói như một số nhà báo, thì vở diễn thứ năm của Ea Sola-Khúc cầu
nguyện-đã kết thúc "trọn một vòng của sự sáng tạo gắn liền với nghệ
thuật truyền thống đương đại Việt nam". Có người đã ngầm ví von vở múa
với "hành thứ năm" sau những Hạn hán và Cơn mưa, Ngày xửa ngày xưa,
Cánh đồng âm nhạc, Thế đấy thế đấy như một sự tiếp nối trong ngũ hành
kim-mộc-thủy-hỏa-thổ của
triết lý phương Đông; và cho rằng vở diễn là "một sự tiếp nối mà không
lặp
lại" của Ea Sola trong quá trình đem cái đương đại tới với sân khấu
Việt nam.
Những đóng góp của nữ biên đạo múa Ea Sola trong tám năm qua đối với
sân khấu già cỗi của Việt nam là không thể phủ nhận. Những vở diễn của
chị đã chứng tỏ một điều, sân khấu hiện đại có đủ chỗ cho bất cứ chất
liệu nào mà người nghệ sĩ muốn sử dụng, và những chất liệu cho cái hiện
đại có thể nằm ngay trong cái truyền thống, ngay trong cuộc sống hàng
ngày mà đôi mắt chúng ta thường thờ ơ lướt qua. Sân khấu hiện đại là
nhìn những sự vật cũ bằng một con mắt mới chứ không phải ngược lại.
Suốt gần một giờ đồng hồ của Khúc cầu nguyện, Ea Sola đưa người xem vào
một trạng thái căng thẳng của những chỗ lặng, của "những ký hiệu mang
dáng dấp Sola" như một người đã viết lại trong bài báo của mình, để
cuối cùng, đi đến cái "thông điệp được nói thành lời" của chị: "Tôi yêu
người!". Có lẽ Ea Sola sợ rằng, vở kịch múa của chị không truyền tải
được cái thông điệp đấy tới người đọc bằng các vũ điệu, nên phải để cho
các nhân vật
của mình nhắc đi nhắc lại thông điệp đơn điệu ấy bằng ngôn ngữ nói.
Ea Sola cẩn thận như vậy hoàn toàn không thừa. Khúc cầu nguyện thiếu
một cái gì đó hết sức quan trọng, thiếu một sức sống, một chiều sâu của
tình cảm, một triết lý của minh triết Á châu mà những tiếng nhị, câu hò
Huế dù đã rất cố gắng cũng không bù đắp được. Cái thiếu nhất của vở
diễn, điều khiến nó khó có thể trở thành một tác phẩm nghệ thuật đích
thực, có khả năng trở đi trở lại trong tâm trí người xem, lại chính là
cái mà thông điệp chị muốn đưa đến cho người xem- tình yêu con người.
Thiếu tình yêu với
con người, các vũ điệu, âm nhạc và thông điệp không gắn kết được với
nhau
trong một thể thống nhất, nên đã không tạo được sinh khí cho vở diễn.
Hai mươi hai diễn viên của Ea Sola, dù đã hết sức cố gắng (khác với các
diễn viên nghiệp dư của những lần diễn khác, lần này, họ là những
diễn viên tạm coi là chuyên nghiệp), vẫn không hoà được vào tác phẩm.
Không hẳn vì ngôn ngữ múa hiện đại xa lạ với công chúng và diễn viên
Việt
nam, cái chính là họ đã "bị sử dụng" chứ không phải được diễn. Tài năng
và sự thông minh của Ea Sola là ở chỗ, chị hình dung được những vũ
điệu,
những động tác bản năng, hay kể cả trạng thái bất động của họ sẽ có tác
dụng ra sao với ý đồ của vở diễn, và chị đặt họ rất "đúng lúc và đúng
chỗ"
trong vở diễn của mình. Giống như một dược sĩ lạnh lùng biết cân đong
đo
đếm liều lượng thuốc một cách chính xác, Ea Sola biết cách chị nên tác
động vào giác quan nào của khán giả, và sử dụng rất chính xác diễn viên
của mình cho mục đích đó. Chị biết, ngay cả khi chị để cho họ tự do
nhất
trong diễn xuất của mình, thì họ cũng không bước ra khỏi cái "vòng kim
cô"
đã được chị vạch ra đó. Diễn viên của Ea Sola, nghiệp dư hay chuyên
nghiệp,
cũng chỉ là những công cụ trong bàn tay đạo diễn. Không cảm nhận được
cái
tổng thể, không thực sự sống trong tác phẩm, các diễn viên diễn như
những
người máy vô hồn-dù có thể họ không ý thức được điều đó.
Trong khi rất nhiều nghệ sĩ cố gắng dùng sự lạnh lùng để che dấu cho
trái tim nồng nhiệt của mình, trường hợp của Ea Sola lại ngược lại. Chị
dùng chính sự cuồng nhiệt bên ngoài các động tác múa của mình để che
đậy cho sự lạnh lùng bên trong của một cách tiếp cận văn hoá "từ bên
ngoài", chứ không phải giao hoà với văn hoá Á đông. Thành công của các
vở diễn của Ea Sola ở ngoài nước một phần phụ thuộc vào sự lạnh lùng
châu Âu trong việc giải mã sân khấu châu Á. Hơn ai hết, Ea Sola hiểu
khán giả châu Âu, đặc
biệt là khán giả Pháp, chờ đợi điều gì ở một tác phẩm châu Á: họ cần
một
tác phẩm mang tư tưởng, hay khoác tư tưởng châu Âu, nhưng lại được thể
hiện
bằng những cái exotic châu Á. Những âm vang của quá khứ, của chiến
tranh,
những nhân vật vô danh đội mũ phớt quan sát ngoài lề tấn tuồng của cuộc
sống đang diễn ra trên sàn diễn, những hình ảnh tượng trưng và độc
thoại
của kịch phi lý...dù được che đậy bằng âm nhạc dân tộc, bằng những
tiếng
hò Huế vẫn lờ mở hiện ra phương thức tiếp cận văn hoá một cách "thực
dân".
Tính "thực dân" trong vở diễn của Ea Sola không chỉ ở cách chị sử
dụng diễn viên, sử dụng âm nhạc và động tác múa, mà còn ở mục đích của
những phương tiện ấy. Chị muốn thông điệp của chị phải đến được với
khán
giả bằng mọi cách, mọi con đường. Trạng thái căng thẳng của sáu mươi
phút
diễn là cái cách chị diễn không để cho khán giả có thời gian suy ngẫm,
cuốn
họ vào dòng tư tưởng lạnh băng của chị, thống trị và thuyết phục tư
tưởng
của họ, áp chế suy nghĩ của họ. Và ẩn sau và vượt cao trên vở diễn là
con
mắt quan sát, mổ xẻ chuyên nghiệp và lạnh lùng của người nghiên cứu tâm
lý
con người.
Sân khấu của Ea Sola giống một cuộc performance (trình diễn) lớn hơn là
giống một sân khấu múa, chính vì vậy, diễn viên vàở một chừng mực nào
đó, cả khán giả cũng chỉ là những công cụ cho chị thể hiện ý đồ đạo
diễn-giống như những bức ảnh, những tấm bìa cứng tượng trưng cho bia
mộ, tiếng trống, tiếng nhị-tức là cũng chỉ là những đồ vật mà thôi. Tuy
vậy, nghệ thuật
performace đòi hỏi một sự tham dự tích cực của khán giả vào quá trình
hình
thành tác phẩm nghệ thuật, cố gắng khiến khán giả trở thành "đồng tác
giả"
với người trình diễn. Sự lấn lướt trong việc trình bày ý tưởng của mình
khiến Ea Sola đã đẩy khán giả về vị trí thụ động, cho nên cuộc
performance
của chị cũng không đạt được tới thành công mang tính nghệ thuật.
Chính vì vậy, cảm giác "bị chinh phục" của khán giả đối với vở diễn
thường ít khi kéo dài ra đến bên ngoài rạp hát. Ea Sola rất khéo sử
dụng tương phản: tương phản của âm thanh (tiếng hò Huế cao vút, kéo dài
đặt
bên những độc thoại ngắn ngủi, lầm bầm trong cổ như "tôi yêu người");
tương
phản của động tác (động tác chậm chạp, đều đặn của một số diễn viên khi
ra sân khấu và những động tác múa dồn dập, mạnh mẽ của Ea Sola), tương
phản
của hình ảnh (những tấm bìa phẳng tượng trưng cho bia mộ và những đám
vải
cuốn quanh người)...Nhưng tương phản lại chính là con đường dễ dàng
nhất,
lười biếng nhất trong việc gây ấn tượng cho những khán giả dễ tính.
Hình
ảnh tương phản giống như ánh đèn flash làm chói mắt khán giả trong phút
chốc, khiến họ không có thời gian để nhận ra rằng không có một thông
điệp
gì mới, không có một tư tưởng gì mới đằng sau những hình ảnh tương phản
ấy.
Bản thân cái tên Khúc cầu nguyện của vở diễn cũng vậy. Trong truyền
thống
văn hoá châu Âu, khúc tưởng niệm-Requiem- là hoài niệm của chúng ta về
những
người đã khuất, là khúc độc thoại tinh thần khi chúng ta chìm sâu vào
trong
tâm hồn và những kỷ niệm cũ-requiem là trạng thái tĩnh. Ea Sola muốn
đưa
cái động trong "gọi hồn", "lên đồng" của văn hoá Việt nam-khi con người
đối
thoại với những người đã khuất- vào để tạo tính tương phản cho vở diễn,
nhưng giữa chúng không có khoảng mờ chung của tư tưởng, nên sự chắp nối
của nó thật khập khiễng.
Không có tư tưởng mới, khán giả khó tính sẽ dễ dàng nhận thấy sự lặp
lại trong các vở diễn của Ea Sola. Các vật liệu khác nhau mà chị sử
dụng ở từng vở, bộ gõ, tuồng, ca trù, chèo, có thể khiến chúng ta tưởng
chúng khác biệt, nhưng chúng chỉ giống như những module được ghép lại
khéo léo trong trò chơi Trí Uẩn để biến thành những dạng khác nhau,
thuần tuý một cách kỹ thuật, chứ không có tư tưởng. Tính "thuần tuý kỹ
thuật" này giải thích cái lạnh lẽo vô hồn trong Khúc cầu nguyện. Những
nghệ sĩ lúng túng khi không có tư tưởng mới thường quay đầu tìm kiếm
những chất liệu mới cho sáng tác của mình. Những chất liệu mới này tạo
cho họ ảo giác những tìm kiếm của họ chứa đựng những ý tưởng mới. Hãy
thử tưởng tượng nếu như tiếng hò Huế
trong Khúc cầu nguyện được thay thế bằng tiếng hát cao của các cô gái
vùng
Nội Mông, với trường độ và cao độ giống hệt như vậy, thì liệu hiệu quả
có
thay đổi hay không? Hay thay thế câu thoại "tôi yêu người" bằng một câu
thoại
bất kỳ với âm điệu tương tự như vậy, ý nghĩa của vở diễn có thay đổi
hay
không? Hoàn toàn không! Dỡ những module "thuần Việt" của bộ gõ, của
tiếng nhị, của hò Huế và thay bằng những module "thuần Hán", "thuần
Mỹ", "thuần Pháp" với âm thanh tương đồng không làm thay đổi nội dung
của vở diễn, vậy thì ý nghĩa của những module "thuần Việt" đó ở đâu?
Có lẽ sẽ hơi khe khắt với Ea Sola, nhưng có lý do để tin rằng, lý
do khiến chị cố gắng sử dụng tối đa các chất liệu Việt nam là nỗi sợ
hãi thầm kín sâu xa mình không có đủ chất Việt trong các tác phẩm của
mình, chưa có cái "hồn Việt" trong con người nghệ sĩ. Nghịch lý là,
chính nỗi sợ
hãi mình không đủ chất Việt lại cản trở chị trở thành một người có tâm
hồn
Việt- một cách ngây thơ, trong trẻo, không thiên kiến. Đòi hỏi nhà biên
đạo
múa gốc Pháp có một tâm hồn Việt nam có thể không công bằng, nhưng các
tác
phẩm của chị, những tác phẩm dàn dựng ở Việt nam, viết về con người
Việt
nam, do những diễn viên Việt nam biểu diễn mà thiếu đi cái tâm hồn của
người
Việt đó thì thật là đáng tiếc. Mà một tâm hồn Việt, bao giờ cũng đòi
hỏi
một tình yêu sâu đậm với Việt nam, một tình yêu không cần thốt lên
thành lời.
Nguyễn Thanh Sơn
Chú thích hình:
Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Việt Hà, Phạm Ngọc Tiến (tại nhà Bảo Ninh, Hà
Nội, tháng Sáu, 2002)