Như những thế cờ
Ông
lão hay bị con cháu cười cười với nhau bảo là lẩm cẩm. Bằng chứng: Nhà
thì
hẹp, nhưng lại có ban công rộng, vốn là một góc cái mái nhà dưới, bà cụ
đã
nhắm gọi thợ tới cơi nới che chắn để dịch cái giường của hai vợ chồng
già
ra cùng với những nồi niêu xoong chậu chai lọ, cho thằng út có cái chỗ
quang
quẻ mà tiếp bạn bè với khách ăn làm. Nhưng ông lão không bằng lòng: 'Em
phải
để cho anh một khoảng trời cho nhẹ đầu chứ!' Nghĩa là để cho ông trồng
cây
trồng que. Ông không kỳ cây thế hay lan hay cúc. Một cây Mãn đình hồng,
một
cây ngâu tốt um, cây chanh, cây ớt. Vợ chồng thằng cả bê về một chậu
hoa
đúc bằng xi măng to vật, trong đã có sẵn cây hoa giấy nở toe toét, ông
chê.
'Hoa với hoét. Nhìn nhức cả mắt.' Rồi giảng giải: 'Không phải hễ hiếm
là
quý. Nhưng hoa không thể lúc nào cũng sẵn như... như... nước mắm mẹ mày
bán
được.' Con cháu cười ầm: 'Cụ quên nhanh quá. Cũng chỉ sẵn mấy năm nay
thôi
chứ. Hồi nào bố toàn dùng thẻ gia đình liệt sĩ đi chen ngang mua xì dầu
loại
hai đấy thôi!'
*.
Có
cái thẻ chen ngang là bởi vì cụ thân sinh ông lão hy sinh trong kháng
chiến
chống Pháp. Chiến dịch thu đông 1947. Hai cha con người trước người sau
đi
kháng chiến. Chưa một lần ông lão tìm thăm được bố ở cơ quan thì đã
được
tin bố hy sinh. Buổi chiều ấy, cơ quan ông lão tan hoang sau trận bom,
ông
lão vừa được anh em móc từ đống rui kèo đổ ra thì có giao thông tới báo
tin
cơ quan bên kia người chết vãn cả. Đến bây giờ ông lão cũng chưa một
lần
kể cho con cháu nghe cái lúc ông để mặc anh em thu dọn đống hoang tàn,
lẻn
ra bờ suối Lê, một mình ngồi khóc. Nước mắt chan hòa gương mặt thằng
con
trai mười sáu tuổi. Chỉ một người nhìn thấy: Anh Cảo bí thư chi bộ cơ
quan.
Anh Cảo cũng là người cậy cục nhờ dân buôn lậu ở Tuyên Quang chuyển thư
ông
lão nhắn tin bố chết về cho mẹ. Lá thư đi vòng vo Tam quốc hết cả năm
giời.
Sau này bà nội bọn trẻ thường kể lại, giọng như người ngạt mũi: 'Nhận
thư
con, nếp giấy gấp đã sờn hết cả. Làng lúc đó là vùng trắng. Đi suốt
buổi
chiều mới nhờ được người đọc hộ thư... thì lại là tin ông chết.'
Biết
vậy, nhưng cũng không thể nào bắn được tin cho con là mẹ với em vẫn còn
sống
chờ ngày yên hàn con về. Nên ông lão lại một lần khóc nữa. Lần này giữa
chợ.
Đi một mạch từ Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô trong đoàn cán bộ khóa đầu
tiên
của trường công an, công việc yên yên rồi, ông lão lại cuốc bộ một mạch
từ
Hà Nội về làng. Bao nhiêu là hăm hở. Qua Ba La Bông Đỏ... Qua Chuông...
Qua
Miêng... Qua Vác...Qua mấy làng Vân.... Cái run rẩy từ đâu cứ len vào
trong
tâm trí. Tới làng. Làng trắng. Xóm cũ không một nóc nhà. Vườn hoang
tiếp
vườn hoang. Lồng cồng những cụm dây thép gai còn chưa được cắt dỡ. Thù
lù
cái lô cốt trấn ở mom sông. Và mây, mây thì sao trắng. Ông lão ra bến
sông,
nhìn nước chảy xuôi, nghiến răng mà hàm cứ run bần bật. Rồi lại lủi
thủi
qua cầu tính quay trở về Hà Nội. Thì bà mẹ nghe ai báo hớt hải quảy
gánh
dây khoai bươn bả quay về. Mẹ con nhìn nhau, ứa nước mắt. Người quen kẻ
lạ
quây xung quanh, mặt ai cũng gầy guộc hỷ hả. 'Con bà nhiêu Thản đấy.
Anh
ấy ở Hà Nội về đấy.' 'Ai bảo bà thế. Anh ấy tận trên chiến khu về.' ...
Xôn
xao xôn xao một nỗi riêng trong cái xao xác của phiên chợ hòa bình vừa
họp
lại.
*.
Sau
đấy không bao giờ ông lão khóc. Ngay cả trong những ngày đắng cay nhất.
Đắng
cay chẳng gửi được vào đâu, thì rồi cũng như bơ gạo kế hoạch ba cơ quan
chia
thêm cho ngày tết nhất, hay miếng vải căng tin bán thêm, hay như cái
săm
xe đạp dành dụm mua ngoài tiêu chuẩn... Tất cả, là tài sản, của một
thời.
Mấy chục năm rồi.
Thì
vừa hôm qua, thằng con út, cái thằng đã khuyên ông một cách rất láo:
'Bố
vẽ chuyện. Hoa gì thì cũng là hoa. Nở quanh năm suốt tháng thì càng đỡ
công
bố chầu chực những mầm những nụ. Lại còn chả tốn công chăm bẵm tưới tắm
gì.
Càng thiếu nước càng rực rỡ', chính cái thằng này đem chuyện về. Sau
bữa
cơm mà bây giờ nó rất hiếm khi về được đúng giờ để ăn chung với bố mẹ,
thằng
con rót nước trịnh trọng mời ông.
-
Bố
này! Nhà nước cải tiến chế độ tiền lương mà lương lậu vẫn chả đâu vào
với
đâu. Bố về hưu, thời gian công tác lại còn bị gián đoạn... chả được mấy
đồng. Con tính... Bố đi kháng chiến ngay từ những ngày đầu, lại ở an
toàn
khu, quen bao nhiêu bác làm khá... Ngày xưa bố oán các bác ấy quay
lưng.
Nhưng chuyện cũng mòn rồi. Các bác ấy nay già rồi về nằm nhà cũng khối
thời
gian nghĩ lại. Mà bố cũng mở đường cho các bác ấy nghĩ lại, làm những
điều
ngày xưa đã không thể làm... Hay là bố đến nhờ bác nào chứng thực cho
bố
thời gian còn bên bộ...
Thằng
càng ngày càng láo. Nó hỏi mà như trói. Chắc là hai mẹ con nó đã bàn
với
nhau. Nên thằng út nhìn mẹ chẳng có vẻ gì là thăm dò trong khi bà lão
thì
làm như mù tịt:
-
Nếu
bố cộng thêm được cả thời gian làm việc bên ấy vào thì lương hưu của bố
cũng
đường được đấy. Đỡ cho mẹ đồng nào hay đồng ấy bố ạ... Dĩ nhiên là còn
chúng
con đỡ vào nữa...
Thằng
út, từ ngày nhà nước cho bung ra, là thằng trên tiền ở cái nhà này,
giỏi
tính đếm nhất nhà. Nên ông lão không thể đánh bài lờ những lời nó bàn
được.
Ông ngồi uống nước, nghĩ bực dọc trong lòng, định cáu, nhưng rồi thở
dài:
'Ừ thì để bố xem xem thế nào hẵng.'
Đêm.
Ông lão không ngủ được. Bà lão thuộc đến cả cách giở mình của chồng,
khẽ
khàng ngồi dậy rót nước uống. Lúc quay về giường, bà nắn nắn cái đầu
gối
ông lão: 'Con nó bàn thế là nó nghĩ hộ bố mẹ. Nhưng nếu bố nó không
muốn
gặp lại ai thì cũng chả phải ép mình làm gì.'
Bà
đã nói vậy thì ông sẽ đi. Buổi sáng, xong tuần nước chè, ông dắt xe ra
cửa,
dắng tiếng: 'Tôi đi đến anh chị Lư. Xem xem thế nào. Mẹ nó ở nhà đừng
chờ
cơm nhỡ tôi về muộn quá.'
Bà
lão vẫn chờ cơm chồng. Quen rồi. Một mình mâm lệch, nhạt miệng cũng
không
ăn nổi. Cầm vực cơm vợ xới, ông lão thủng thẳng:
-
Anh
chị ấy vẫn ở cái nhà ấy. Phố ấy ngày xưa yên tĩnh thế mà giờ người xe
đi
lại đùng đùng như chạy loạn. Tôi nhận không ra. Mấy đứa con anh chị ấy
xây
nhà cho thuê. Chẳng còn bốt gác, chẳng còn hàng rào dây leo, chẳng còn
vườn
tược sân sướng gì. Cửa mở tuột ra phố. Thằng út nhà mình mà tậu được
một
chỗ ở đấy mở văn phòng thì dễ chừng sướng phát sốt phát rét lên...
Bà
lão khẽ khàng:
-
Thế...
Rồi sao hả ông?
-
Chị
ấy còn nhanh nhảu lắm. Nhận ngay ra mình. Anh Lư thì có vẻ lẫn rồi. Về
hưu
lâu rồi mà gặp khách chưa nhận ra ai vào với ai đã hỏi 'cậu đến chắc có
việc
gì đề đạt hẳn'. Về già, bị suyễn, nói năng thều thào mà câu chữ vẫn
gang
thép lắm. Tôi nói chuyện thằng út... Chị ấy im lặng. Rồi gọi con dắt xe
ra,
bảo: 'Chú nhận ra thằng này không? Ngày xưa hồi ở cơ quan chú vẫn lôi
nó
đi tắm suối với nhặt trám đấy. Chú ngồi chơi với anh chờ cháu đưa tôi
đi...'
Ông
gắp một miếng đậu phụ nhồi thịt, ngắm nghía:
-
Mẹ
nó làm khéo nhỉ. Ăn ở mấy nhà thấy chẳng ai làm được như mẹ mày, thịt
cứ
phè ra, nhìn mất đẹp... Thế rồi hai mẹ con chị Lư chở nhau đi. Ngồi lại
với
anh ấy, chẳng biết chuyện gì... Nói thì mình phải quát lên ông ấy mới
nghe
được. Mà nghe ông ấy nói thì tội. Thở như kéo bễ. Dễ đến hai tiếng đồng
hồ, chị ấy về bảo thế này: 'Mấy chục năm chú không lại nhà, chúng tôi
hiểu
tính chú. Mà cũng hiểu vì sao. Ngày ấy chú không nhờ, cũng không oán
trách.
Ngày ấy chúng tôi không giúp gì được chú, thế là có lỗi với chú, với
cái
tình xưa ở rừng kháng chiến với nhau. Nay chú tới đây, là chú còn tin
vào
cái lòng anh chị, là chúng tôi phải cảm ơn chú. Tôi vừa đến Vụ Tổ Chức.
Chuyện
mấy chục năm qua rồi. Người cũ về hưu hay chuyển công tác hết rồi. Chỉ
còn
mấy cậu trước dưới quyền tôi. Tôi bảo thế này: 'Tôi chưa bao giờ nhờ
các
anh điều gì. Nay cũng không nhờ. Tôi chỉ làm theo trách nhiệm và lương
tâm.
Tôi đến chứng thực cho một người, ở cơ quan ta từ những ngày đầu thành
lập,
rằng anh ấy không có tội...' Chị ấy dặn mai mình cứ đến thẳng đó. Họ đã
ghi
rõ trường hợp của mình. Sẽ bổ sung hồ sơ. Mẹ nó ạ, giọng chị ấy... mẹ
nó
gặp chị ấy ngày xưa rồi đấy... nhớ không? Chị ấy có tiếng là người
nguyên
tắc.'
*.
Buổi
sáng, bà lão trước khi ra ngồi giữa những hũ những vại những can cà dưa
mắm
muối lại khẽ khàng hỏi chồng:
-
Mình
hôm nay có đến cơ quan chỗ chị Lư dặn không? Tiện đường mình chở cái
can
nước mắm đến cho chị Thoa. Chị ấy dặn mấy hôm rồi mà không thấy đến
lấy.
Khéo nhà hết cái ăn...
Bà
lão lẩm bẩm, vuốt vuốt lại mấy tờ bạc năm ngàn vừa moi từ rổ đựng tiền
ra,
đưa cho ông lão:
-
Xong
việc bố nó tạt vào chỗ cửa chợ Hôm mua lấy hộp sữa cân đường vào thăm
bác
Bằng một chốc. Nghe bảo bác ấy phải cảm nằm suốt ngày hôm qua. Mà đừng
có
ép nhau cờ quạt gì đấy nhé.
Ông
lão cười, ràng chặt can nước mắm vào cái đèo hàng rồi lóc cóc đạp xe
đi.
Gió thốc cái mùi nước mắm từ sau lưng ông về phía trước. 'Chà chà!
Khuân
theo cái mùi này vào phòng làm việc của người ta thì cơ chừng nhỡ việc.
Phí
cả lời nói trước của bà chị...'
Nên
đi đâu bây giờ trước nhỉ? Qua nhà cái cô Thoa đưa can nước mắm này! Lên
bộ
này! Tạt vào bác Bằng này! Ông lão loay hoay nghĩ, không để ý mình vừa
ngoặt
xe đánh vèo một cái về phía nhà ông bạn già. Cú ngoặt bất ngờ làm một
cậu
choai đi xe máy loạng choạng phanh vội. Chàng ta văng một câu chửi cực
bậy.
'Thằng ranh con. Cho bố xin lỗi. Nhưng mày ăn nói thế là hỗn. Bố mày
tuy
già nhưng đã ra đòn thì...'
-----------------------
Dĩ
nhiên là ông lão không thốt thành lời. Hơn nửa đời qua ông đã học được
phép
im lặng. Ông nghĩ, và tiếp tục đạp xe đi. Đến lúc chống chân xuống đất
dừng
xe trước ngõ nhà ông bạn thì ông biết rõ mình muốn gì. 'Vào làm với bác
ấy
ván cờ đã. Ở chỗ này thì chẳng phải băn khoăn mùi nước mắm hay mùi cóc
chết.
Bạn nghèo với nhau.'
12.
1999/
3. 2000