Akhmatova,
và...
Khi chẳng cần chi,
Tôi
bước đi như một đứa trẻ,
Dựa
vào bóng, như một người bạn,
mà
tôi khao khát.
Gió
thổi từ lùm cây, mỗi lúc một mạnh,
Và
bàn chân tôi mấp mé mộ phần...
When
nothing is needed, I walk like a child,
My
shadow serves as a friend I crave.
The
wind breezes out of a grove gone wild,
And
my foot is on the edge of the grave.
1964
Anna
Akhmatova, Poems.
[Lyn
Coffin tuyển và dịch qua tiếng Anh.
Joseph
Brodsky giới thiệu,
nhà
xb W.W. NORTON, NY]
Ở đâu có bi kịch, ở đó có thi sĩ....
Tin tôi đi, không
phải rắn cắn,
Nhưng
mà là hồn vọng này,
Đã
hút máu trong tôi.
Trong
cánh đồng trắng kia, tôi trở thành cô gái trầm lặng,
Với
giọng của một con chim, tôi than khóc tình
tôi.
[Believe
me, not the serpent's sharp sting,
But
longing has drunk my blood.
In
the white fields I became a quiet girl,
With
the voice of a bird I cry out for love]
Akhmatova
...
But in the world there is no power more threatening and
terrible
Than
the prophetic word of the poet.
[...
Nhưng trên đời, tiếng thơ tiên tri của nhà thơ mới đáng
sợ, mới khủng khiếp làm sao.]
Akhmatova
- Mình dòng dõi Thành Cát Tư Hãn, còn cậu?
-
Mình dân Kẻ Nủa.
Khi
biết cô gái rượu của mình tính in thơ trên một tờ báo ở
St. Petersburg [ở Hà Nội], ông bố bèn bảo, rằng bố cũng không cấm cản
một việc
làm như vậy - làm thơ, và rồi in thơ - nhưng theo bố, đừng đem xấu xa
đến cho
dòng họ nhà mình, con nên tìm một bút hiệu.
Và
thế là “Anna Akhamatova” đi vào văn học Nga, thay vì
“Anna Gorenko”.
Chuyện
chọn một bút hiệu như thế, thì cũng chẳng có chi là
chắc chắn, nếu nói về chọn cho mình một nghề - nghề làm thơ - hay về
chuyện cái
thông minh, thiên phú, thiên tài trời cho bây giờ mới nở ra; nó cũng
chẳng xác
nhận, rằng, chỉ du di một tí, về căn cước, tên gọi của mình, là có ngay
một nhà
văn, nhà thơ. Đây chỉ là giữ sao cho được cái vẻ bên ngoài – Gorenko là
một
trong những cái tên như thế đó: một thế gia vọng tộc. Và cái nghề viết
văn làm
thơ vốn chỉ được thiên hạ nhìn, với chút dè bỉu: ôi dào, cái cô Anna
Gorenko
ấy, tưởng làm vương làm tướng gì, tại làm sao đổ đốn ra như vậy: viết
văn, làm
thơ? Chẳng lẽ không có cách nào tốt hơn để chọn cho mình một cái tên?
Kẹt quá
thì kiếm một thằng bác sĩ, kỹ sư, đàn bà làm quan tắt là chuyện thường,
mà!
Tuy
nhiên, đòi hỏi của ông bố như vẫn có một cái gì hơi bị
quá đáng. Nói cho cùng, Gorenko đâu thuộc dòng dõi những ông hoàng.
Nhưng, gia
đình Gorenko sống ở Tzarskoe Selo - Tzar's Village - nơi nghỉ mát của
hoàng
tộc, và một địa linh như thế làm sao mà không nẩy ra nhân kiệt, làm sao
mà
không ảnh hưởng tới những đấng con trai trong gia đình? Tuy nhiên, với
cô gái
mười bẩy tuổi của ông, trong một khu vuờn tại nơi chốn phải nói là
tuyệt vời vô
cùng này, một thế kỷ trước đây, đóa hoa thiên tài Puskin đã "nở ra một
cách thật là cẩu thả" (carelessly blossomed). [Điều này quả là có một ý
nghĩa đáng kể, đối với riêng cô, nếu không, cô đâu dám liều mình... làm
thơ, và
bây giờ... in thơ, mà lại đặt tên tập thơ của mình là.... Nằm Nghiêng?]
Nhưng,
[từ Khắc Hiếu đến Tản Đà, từ Đứa Bé Lưu Lạc (Lạc Nhi)
tới Cuốn Sách Huyền, có những nhà văn nhà thơ không chỉ bịa đặt những
bút hiệu,
những nhân vật có những cái tên mà chỉ mình mới biết hết những bí mật,
những âm
hưởng khi nghe đọc lên... mà còn bịa đặt luôn cả những ông tổ ông cố
chẳng hề
có, cho dòng họ nhà mình...], chỉ nội bút hiệu, Akhmatova, tự nó đã có
vẻ, nếu
không nói huyền thư, huyền hoặc, huyền thoại, thì cũng liên quan, về
phía bên
ngoại, tới những ông hoàng Đông Phương, những "tất liệt:" (khan), và
người ta phải mò tới "the last khan of Golden Horde": tới
Achmat-khan, một hậu duệ của Chengiz-khan. (1)
"Mình
là một Chengizite", Akhmatova nói, chẳng
thèm giấu diếm, ít nhiều kiêu ngạo, ở trong đó...
["Mình
là dòng Núi Tản Sông Đà", nhà thơ nữ của
chúng ta nói, chẳng thèm
giấu...
Liệu có phải nhắc tới nàng công chúa, con vua Hùng thứ mười
tám, để làm
rõ ra cái nét kiêu ngạo, nhưng đâu phải riêng nữ sĩ, mà cả nước đã từng
hãnh
diện vì nguồn gốc Con Rồng Cháu Tiên của "chúng mình" rồi...]
Và
với một cái tai Nga -xô [một cái tai Xứ Đoài Mây Trắng],
"Akhamatova" rõ ràng là nghe ra cái giọng Đông Phương Huyền Hoặc -
Tartar to be precise, Brodsky - [với nữ thi sĩ của chúng ta, thì lại là
Tây
Phương huyền hoặc, Tây Phương ở đây là tên một ngôi chùa ở Xứ Đoài]....
[Với
một người cùng quê hương xứ Đoài, cô khiêm tốn, thành
thực hơn, và cũng cởi mở hơn, nói: Mình dân Kẻ Nủa]....
Tác giả Nằm Nghiêng đã
từng thở than, tôi chẳng hề muốn lưu
vong trên đất mẹ...
Còn
với Akhamota, việc chọn cho mình một cái tên như thế,
hóa ra là có tính tiên tri, Brodsky viết như vậy. Chưa kể điều này: Bàn tay em "năm" ngón, Ru mãi ngàn
"năm": "năm" chữ "a" mở ra tên thi sĩ [Anna
Akhmatova] hớp hồn người nghe [Brodsky viết: có một hiệu quả thôi
miên], và đẩy
cái tên này lên trên đầu của cái bảng mẫu tự thi ca Nga. Theo một nghĩa
nào đó,
đây là một khởi đầu thành công, cho một nghiệp thơ, của một thi sĩ.
Làm sao bạn có thể quên nổi một cái tên như thế, hay một
cuốn sách huyền hoặc, một ngọn đỉnh trời, một ngọn sông Đà, với câu
thơ, bài
hát:
Chiều
nay sương khói lên khơi,
Thùy
dương rũ bến tơi bời
Làn
mây hồng pha dáng trời
Sóng
Đà Giang thuyền qua xứ người
...
Chiều
nay trên bến muôn phương,
Có
thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường...
Anna
Akhmatova thuộc về những nhà thơ không cần phả hệ, mà
cũng không cần một sự "phát triển" rõ rệt. Bà là một thứ thi sĩ giản
dị có đó [She is the kind of poet that simply 'happens']. Được trang bị
chẳng
thiếu một thứ chi, bà mang thơ tới giữa đời: Đây này, thơ mình như thế
này
này:... [with an already established diction and his/her own unique
sensibility. Brodsky].
Và
bà chẳng hề giống ai.
Còn
điều này nữa: Trong bao nhiêu kẻ bắt chước bà, chẳng hề
có kẻ nào có một tí Akhamatova ở trong những dòng thơ 'mô phỏng' của họ
đó, và
tiếu lâm thay, họ lại cứ hao hao giống nhau, nghĩa là hao hao dở ẹch
như nhau!
[Hình
như trước đây, chưa hề có ai dám đặt tên cho tập thơ
của mình, lúc đầu là "Giấc Mơ Của Lưỡi", sau đổi là "Nằm Nghiêng"].
(1):
Golden Horde: Từ tiếng Nga Zolotaya Orda, dùng để chỉ
Ulus Juchi, phần đất phía tây của Đế Quốc Mông Cổ, nổi lên từ giữa thế
kỷ 13
tới 14. Đã từng chinh phục Nga xô. Vào thế kỷ 14, đế quốc Golden Horde đã coi
Hồi giáo như là tông giáo chính thức của nó, vì vậy mà Nga xô đã chịu
ảnh hưởng
của cả hai, Hồi giáo và văn hóa Á Châu. [Theo bách khoa Britannica và
Columbia]
Lưu
vong trên đất mẹ... Bà [Akhmatova] không ruồng bỏ Cách
Mạng. Một dáng đứng thách đố, khinh khi cũng không. "Tôi không hiểu
những từ
đao to búa lớn", bà nói. Một thi sĩ, sinh ra là dân chủ, không phải chỉ
nhờ tính may rủi do vị trí của nhà thơ mà có được, nhưng bởi vì 'đâu cần nhà thơ có' [he
caters to the intire nation], và nhà thơ
sử dụng ngôn ngữ của cái xứ sở cần tới nhà thơ [its nation]. Ở đâu có
bi kịch,
ở đó có thi sĩ. Brodsky viết: Akhamotova, thơ của bà luôn luôn quyện
vào với
tiếng bản địa, thổ ngữ, với tục ngữ, ca dao, chính vì vậy mà bà có thể
đồng
nhất với mọi người, dễ dàng hơn, so với những thi sĩ khác chỉ "lo làm
thơ",
hoặc nhắm những yêu cầu khác: Bà nhận ra nỗi đau [của cái quốc gia mà
bà sử
dụng ngôn ngữ của nó]:
CINQUE
Đúng
như vậy, tôi luôn luôn thù ghét nó
Khi
mọi người thương hại tôi.
Nhưng
nếu bạn cảm thấy thương hại, mủi lòng: Hãy
nói ra đi -
Mặt
trời mới, trong thân thể tôi.
Chính
vì vậy mà bình minh ở khắp nơi.
Tôi
có
thể tạo phép lạ, ở đây hoặc ở đó,
Đó
là
lý do tại sao!
1945-1946
Akhmatova
[Cinque:
Năm, như trong lá bài số năm, hoặc năm điểm của con
xúc xắc].
*****
Volkov:
Thật mong manh, cái gọi là ký ức của con người....
Tôi muốn, nhân dịp này, khêu gợi chút mong manh, trước khi chìm vào
quên lãng:
Chút ký ức của ông về Akhmatova...
Brodsky:
Rất hân hạnh. Và thích thú. Đó là một phần đời của
tôi, và nói về đời mình, thì đúng là chơi cái trò của một con mèo, muốn
tóm
được, chính cái đuôi của nó. Khó vô cùng, khó không thể chịu nổi. Nhưng
cứ nói,
như thế này: Mỗi lần gặp Akhmatova là một kinh nghiệm đặc biệt đối với
tôi: Một
khi mà bạn cảm thấy, về mặt thể chất, mình kém xa, so với người đó.
Người đó hơn
hẳn bạn. Chỉ nội giọng nói của người đó, là đã thay đổi, chuyển hóa bạn.
Và
Akhmatova chuyển hóa bạn thành Homo sapiens, chỉ bằng
giọng nói, hoặc lúc lắc cái đầu của bà... Có lẽ bởi vì tôi còn trẻ, khi
đó...
[Có lẽ bởi vì tôi đã già, khi đó. Khi trở lại Hà Nội]
Jennifer Tran
Thuyền
Viễn Xứ
Chiều
nay sương khói lên khơi
Thùy
dương rũ bến tơi bời
Làn
mây hồng pha dáng trời
Sóng
Đà giang thuyền qua xứ người
Thuyền
ơi viễn xứ xa xưa
Một
lần qua rạt bến lau thưa
Hò
ơi, giọng hát thiên thu
Suối
nguồn xa vắng chiều mưa ngàn về
Nhìn
đường về cố lý, cố lý xa xôi
Đời
nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi
Quay
lại hướng làng, Đà giang, lệ ướt nồng
Mẹ
già ngồi im bóng mái tuyết suơng
Mong
con bạc lòng
Chiều
nay gửi tới quê xưa
Biết
là bao thương nhớ cho vừa
Trời
cao chìm rơi xuống đời
Biết
là bao sầu trên xứ người
Mịt
mờ sương khói lên hương
Lũ
thùy dương rũ bóng ven sông
Chiều
nay trên bến muôn phương
Có
thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường
Thơ
Huyền Chi
Phạm
Duy phổ nhạc
*****
Rekviem
(1935-40)
Requiem
Kinh
Cầu
Anna
Akhmatova
(Anna
Andreevna Gorenko)
(1889-1966)
Ở
đỉnh cao của thời Khủng Bố Stalin, nhà thơ Nga Anna
Akhmatova - đã là một tiếng nói mãnh liệt của thế hệ của bà - bắt đầu
trước tác
một vòng thơ tang mà bà gọi là Kinh Cầu. Tuy luôn sống trong nguy hiểm,
và bị
cấm in thơ, nhưng bà từ chối rời nước Nga. Kinh Cầu được đọc thầm, từ
tai người
này qua tai người khác, cho tới khi được xb tại Munich vào năm 1963,
nhà thơ
không biết điều này. Tuy chỉ là kể lại những nỗi đau đớn cá nhân, tiếp
theo sau
cái chết của chồng, và con trai bị cầm tù, nhưng đây là một trong những
bài
thơ chứng tích vĩ đại nhất của thế kỷ.
Nhà
thơ Joseph Brodsky đã viết về Kinh Cầu: "Ở vào một
vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với
thực tại,
bằng cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu,
hoặc giấu
diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt
được.
Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
[Kinh
Cầu được "Thư Viện Công Cộng New York" coi
là một trong 100 tác phẩm của thế kỷ, bản in 1996, nhân dịp kỷ niệm 100
năm của
thư viện này. Trên đây là bản dịch lời giới thiệu của Thư Viện nói trên]
Ngựa
đêm
Như
ngựa non tập phi nước đại
em
hí lên hân hoan trong vũ điệu
thảo
nguyên
gió
liếm vào gáy đêm một mùi cỏ thơm
của
sương âm thầm làm giọt
Em
là con ngựa đau
chẳng
khiến tàu thèm bỏ cỏ
bờm
rối tung và ức
căng đầy trong màu đêm
côn
trùng rên rỉ ngất ngây
ngựa
non em cứ liếm mãi
vết
thù trên lưng nhỏ giọt
Thảo
nguyên mênh mông những cây thông ghen tuông
nước
mắt ứa ra mùi hăng hắc
một
con ngựa điên vì không
biết
khóc
đang
nín thở nghe tiếng anh tới mênh mang
trong
nhịp vó đằng lưng.
1996
Phan
Huyền Thư