4.4.2006
Đặng Tiến
Thanh
Tâm Tuyền
Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua
đời trưa ngày 22 tháng
3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính
yếu đã làm mới nền văn
học miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn
học Việt
Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ,
ý thơ
và quan niệm thi ca Việt Nam.
Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp
lửa.
Ông du nhập nghệ
thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp,
không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn nhà thơ lúc trước.
Ảnh hưởng
phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại,
ông có
khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học
và nghệ
thuật: Thơ, Văn, Nhạc, Hoạ, như ở các nước phương Tây.
Về nội dung chính
yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm
Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói
chung, cụ
thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam
trước thời
cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua
sự thất
bại đó, biến nó thành nghệ thuật.
Thanh Tâm Tuyền là
người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm
túc, tư cách và tiết tháo.
*
Thanh Tâm Tuyền tên
thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có
nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài «Thơ mừng
năm tuổi»,
làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử [1] . Từ 1952, ông đã
đi dạy
học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, hoạt động
trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với
những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ
Tế, Trần
Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt, rồi vào Nam.
Tại Sài Gòn, 1955,
ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người
Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi không còn cô
độc,
1956, và truyện Bếp lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia
biên tập
báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp
vào
«nhóm» Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học miền Nam suốt một thập
niên.
1962, bị động viên
vào Trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải
ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà, phụ trách chủ yếu
việc huấn
luyện văn hoá, «tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch»
(1972), cấp
bực cuối cùng là đại uý. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong hơn mười
năm, tại
nhiều trại cải tạo miền Bắc. Cuổi cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ đầu
thập niên
1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền là
tác giả khoảng mười đầu sách; ba tập thơ:
Tôi không còn cô độc (1956), Liên - Đêm - Mặt trời tìm thấy (1964, Sài
Gòn),
Thơ ở đâu xa (1990, Mỹ). Ba truyện: Bếp lửa (1957), Khuôn mặt (1964),
Dọc đường
(1967). Ba tiểu thuyết: Cát lầy (1966), Mù khơi (1970), Tiếng động
(1970). Một
vở kịch ngắn: Ba chị em (1965). Một phiếm luận Tạp ghi (1970). Ông còn
nhiều
tác phẩm chưa xuất bản, ví dụ như tiểu thuyết Ung thư đăng nhiều kỳ
trên báo
Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan trọng.
Miền Nam Việt Nam
những năm 1955 -1960 bừng lên
một sinh khí văn hoá. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những
người từ
nông thôn bước vào, hay trở về thành thị sau chiến tranh, tình hình an
ninh và
giá cả ổn định, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã
nhạc,
nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất
hiện trong
bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi không còn cô
độc, nhưng
nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng
Tạo, bên
cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thuỳ Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần
Thanh
Hiệp, Người Sông Thương.
Người đọc theo dõi,
tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì
không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí
hiểm, hũ
nút.
Mười lăm năm sau,
1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm
Tuyền đã an vị, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay
là tư
liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ,
có hai
bài: một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét
bỏ đến
yêu thích; một bài giải thích «lối thơ Thanh Tâm Tuyền» qua bài «Phục
sinh» nổi
tiếng trong sự khen chê, với những câu: «Tôi buồn khóc như buồn nôn…
Tôi buồn
chết như buồn ngủ…»
Tôi không còn cô độc
có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà
thơ nói «tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ», hay «có người cầm súng bắn vào
đầu / đạn
nổ nhịp ba / không chết». Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như
thế thì
ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách:
«Ở đây tôi là hoàng
đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào
trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những
luật lệ
tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người
hoàn toàn
tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ.»
Lê Huy Oanh kể lại
rằng: «Trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua
cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ
từ, rất từ
từ ấp nó vào ngực» (báo Văn đã dẫn, tr. 8). Dĩ nhiên đây là cách nói
tượng
trưng.
Trưởng thành trong
kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền
nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như «Nhớ máu» của Trần
Mai Ninh,
«Đèo cả» của Hữu Loan, «Sáng mát trong như sáng năm xưa» của Nguyễn
Đình Thi.
Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá
vỡ cái
vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ: loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn
ngữ, xáo
trộn thanh điệu bằng trắc; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng,
hình
ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra «diễn ca», còn Thanh
Tâm
Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành
những
chức năng mới, trong văn bản mới.
Dựa trên lời
Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật
Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, «nghệ thuật phá vỡ những hình
thức sẵn
có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một
vẻ đẹp
hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm».
Câu này trong bài
«Nỗi buồn trong thơ hôm nay», Thanh Tâm
Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong
lý luận
về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài «Mấy ý nghĩ về thơ» của
Nguyễn
Đình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực
tiễn
sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.
Chất hiện đại trong
thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế
giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire,
nhất là thơ
siêu thực của nhóm Bréton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không
kinh qua
nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học
đúng bài
bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về
già, vẫn
mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên
tiếp xúc
được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov, Marx, Trosky
đến những
tác giả mới hơn như Laurence Durrell hay Solzhenitsyn qua tiếng Pháp.
Từ đó,
thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng hoà Thế giới:
Các anh Cộng hoà đã
chiến đấu cho Tây Ban Nha
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca
Một Bréton tình điên còn nức nở
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức
Và mãi Ernest còn tiếc thương
Andalousie đói quên khiêu vũ
Việt Nam
ốm yếu quên ca dao
Câu «quốc tế ca» của
Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất
có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng
Tạo, số 4
tháng Giêng 1957:
Hãy cho anh khóc bằng
mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Bài này làm vào tháng 12-1956, một tháng sau khi Hồng quân
Liên Xô, nhân danh khối liên minh quân sự Warszawa tràn ngập Hungary và
thủ đô
Budapest. Sau đó ông còn làm tiếp «Bản anh hùng ca Budapest» cũng đăng trên Sáng Tạo.
Thanh Tâm Tuyền chưa
bao giờ ra khỏi Việt Nam
cho đến
ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố:
Warszawa, Berlin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moskva, Praha, Paris, Madrid,
Brussel,
Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh
Tâm Tuyền
là thơ thành phố: thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hoá; thơ
Việt Nam,
đến Thanh
Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường chèo
làng
Đặng; gần hơn, Đinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm; đến
Thanh Tâm
Tuyền «Tôi không còn cô độc» là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng
hiện đại,
với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ:
Tôi đã chết nghẹn
ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ
(…)
Hôm nay tôi dự hội
hôm nay dùng mắt nhìn
hôm nay dùng lời dịu
cô độc phút tan tành
tôi không còn cô độc
Ông già: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: tôi không còn cô độc
Em gái: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: không ai còn cô độc
không ai còn cô độc
Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng
kèn đồng:
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt:
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tuỷ của hờn bắt
đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống
không
(…)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(«Đen», Sáng Tạo, số
8, tháng 5-1957)
Thơ Thanh Tâm
Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời
một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm
Tuyền, ở
những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét.
Ví dụ
trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt
chủ yếu
phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào
nhiều
tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade,
vẫn là
cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé,
xoáy vào
thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có
ngụ ý
rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với
nhân loại
là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam
và trong Việt Nam
có thế giới. Trong «Guernica» của
Picasso có Bến
Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ
Thanh
Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ
thuật và tâm
thức Việt Nam
là vậy.
Tuy nhiên cũng phải
ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ
Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về
sau, trong
tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây
là những
bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho
phép chúng
ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và
cách tân
quan niệm thi ca.
*
Câu thơ, bài thơ mới,
đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn
truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với
cái gì,
và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có
nhận ra
nét mới ấy không?
Thưa rằng có. Nhà văn
Nguyễn Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn,
số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày
giá trị,
nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp lửa, 1957. Ông trích
dẫn cặn kẽ
nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác [2] .
Tôi còn một chứng từ
riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều
người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài
Gòn,
quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô
sống vất
vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để
mưu sinh. Một tối về khuya,
dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những
trích đoạn
dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm
Tuyền đã
là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người
mách là Mô
đã qua đời, đã tự tử bên Canada.
Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại
những đoạn
Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc
đời của
chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn
bốn bể
năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô:
Mô ơi,
thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi
lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới
lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.
*
Tiềm năng độc giả
thời đó là học sinh trung học: sinh viên
đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ
thời
đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng
Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở
lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các
truyện ngắn
của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những «Chiếu
hoa cạp
điều», với «Hương gió lướt đi». Thậm chí, chúng tôi còn bất công với
cái cũ:
tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi.
Đoán già
đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc
Bếp lửa
trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp lửa là một truyện
vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm
Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956,
đưa đi
kiểm duyệt và xuất bản ngay [3] . Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này,
khi tái
bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người
ta
không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn «Đại lộ»,
nội dung
na ná, in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964.
Truyện được viết từ
ngôi thứ nhất «tôi». Người kể, «tôi» tên
Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại Bắc
Ninh,
còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp lửa
không phải là tự truyện, đại khái như tác
phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng:
«Hôm nay
mẹ tôi mất», nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong
Bếp lửa,
Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là
Thạch Thị
Kim thọ rất lâu, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn
dụ, như ở Kẻ
dưng hay Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự
truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng
tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định
Genève,
1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu
là những
nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con
người lúc
đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt
động; Bảo
có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ
nghĩa
mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư
vô và
chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như
chị em
Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm?
Anh xê
dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân
vật Kẻ
dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không
muốn. Khi
Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, «ngạc nhiên một chút rồi rửng
rưng ngay.
Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên
không nói
cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ
một
giấc rất say» (tr. 90).
Trong thế giới ấy,
quan hệ tình cảm
cũng mong manh, sắc sắc
không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ.
«Đôi khi
tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích
giữa cúng
tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả»
(tr. 12).
Quan hệ tính dục cũng
nhẹ nhàng thôi.
Tâm gặp lại Hạnh, một
cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội.
«Đến Hà
nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ
với Hạnh
ở khách sạn» (tr. 72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5: «Tôi có
cùng về
Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay
chỉ cần
sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi
vào máu
Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế,
khi lấy
lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh
nắm tay
tôi để lên ngực nàng nói: Anh có khinh em không?» (tr. 76).
Dĩ nhiên là các vị
Nam Tào văn truyện
kiêm Bắc Đẩu lịch sử
sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai
cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao?
Bếp lửa
là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người
nghệ sĩ đưa
sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm», thì ắt không
buồn quan
tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh
đạm của
Tâm đã thổi dạt Bếp lửa trôi xa, không những với Dòng sông Thanh Thuỷ
của Nhất
Linh mà còn xa với Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của
Vũ Khắc
Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ
thôi: không khí Hà
Nội khoảng 1950-1952
nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản,
tâm lý
thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không?
Ngày nay, ngọn lửa
chiến tranh vẫn còn
tàn phá nhiều nơi
trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời
vinh
danh Thượng Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết «theo tôi có
những lúc
người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có
mặt ở lúc
ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài
người và chỉ
có thể thoát ra với sự thất bại» (tr. 67).
Tại Việt Nam, một dải
đất còm cõi đau
thương, năm 1956, một
thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể
cũng là
lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?
*
Về phong cách, Bếp
lửa là một tác phẩm
làm mới văn chương
chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới,
là so
với cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết
tưởng mộ Nguyễn Đức
Quỳnh, tác giả Thằng
Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của
Nguyên
Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là
quyển sách
đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển
sách. Trước
và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu
thuyết
Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả
khác
nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi
lòng
ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao
giờ quên ơn
người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi». [4]
Một lời tình tự như vậy, ở một người
ít tự sự như Thanh Tâm
Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối
hạnh
phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát
lầy, Ung
thư, Mù khơi, Tiếng động…
Đối với Thằng Kình
(1942, Hàn Thuyên,
Hà Nội), niềm ngưỡng
mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng
với tác
giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với nhân
vật truyện
Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối
viết
trần trụi trong Bếp lửa.
Gần nhau hơn là Những
ngày thơ ấu,
Nguyên Hồng viết năm
1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi
thứ nhất.
Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách
thành
thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà
đứa con
một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những ngày
thơ ấu là
tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp lửa là truyện
một thế
hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị.
Nguyên
Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví
dụ ngay
ở chương I (Tiếng kèn): «Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào
cũng
vậy…», không hề có trong Bếp lửa. Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về
hội hoạ»,
1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể đặt tên là văn
chương của
bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem
Bếp lửa ra
giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn
tiêu biểu
gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc
toàn bộ
tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví
dụ lối
kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay
lại quá
khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối
dùng từ
bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối
đặt câu
ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu,
như là
lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh»
(tr.
47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr.
87). Câu
được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ»
(tr. 11).
«Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).
Nhưng nét mới quan
trọng là không khí chung của toàn truyện
Bếp lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và
ngữ pháp.
Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm
vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.
Bài hát «chỉ được
nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm,
những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc
lại. Riêng
tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn» [5] .
Có ai đó đã viết đâu
đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ
Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa
các bộ
môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời
hợt, dù
rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên
trường Mỹ
thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ
hoằn
lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam,
không có nhà
thơ sành hội hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các
nhà thơ
như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm
Tuyền thật
sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội
hoạ, và
thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài «Nhân
nghĩ về
hội hoạ» viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.
Hoạ sĩ Thái Tuấn kể
lại rằng trong một cuộc triển lãm năm
1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên
vai,
chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông không biết đặt tên là
gì. Thanh
Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân», Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ:
anh vẽ
cái gì thì cũng là hoá thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân
dung hoạ
sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu
thuyết
của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào
một
chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hoá thân của Apollon – les
Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài
«Nhân nghĩ về Hội hoạ»:
«Tôi công nhận nghệ
thuật như một nghề như mọi nghề khác khi
tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện
tập như
tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính,
để bảo
đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách
đố, thì
lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt
của nhân
loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn,
tr.
78).
Đoạn trích văn này có
thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp
văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm
vào đó niềm kính trọng và thương tiếc
khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về
cõi
thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê
Hương
trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm
người
trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp lửa,
sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm
Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong
tâm thức
thế hệ chúng tôi:
«Anh yêu quê hương vô
cùng và anh yêu em vô cùng ».
Đời người, vô cùng
rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm
Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Ngày giỗ Trịnh Công
Sơn
Orléans, 01-4-2006
-------------------------------------------------------------------------------
[1]Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng
4-1972, Sài Gòn.
[2]Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền,
tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để
tặng bạn
đọc, liên lạc qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3]Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb
Nguyễn Đình Vượng, 1957,
Sài Gòn, Chúng tôi trích đoạn từ bản này.
[4]Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm,
tháng 6-1974, tr. 21-22,
Sài Gòn.
[5]Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài
bãi biển», trong Khuôn
mặt, tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
Nguồn: Bài sắp đăng trên tạp chí Văn, số đặc biệt về Thanh
Tâm Tuyền, tháng 5 & 6. 2006. Bản đăng trước trên talawas với sự
đồng ý của
tác giả và tạp chí Văn.
Nguồn
[Trích talawas]
Về chi tiết bà cụ TTT: Cụ vẫn ở Sài
Gòn. [Xóm Gà, Gia Định]. NQT