Six Years
Later
Autumn in
Norenskaya
Ban đồng ca thần kỳ tan
rã. Ngay cả Rein và Naiman sau cùng cũng gấu
ó lẫn nhau. Trong 1, trong rất nhiều hồi ký, Naiman buộc tội Rein, một
lần tham
dự 1 bữa tiệc cùng bạn bè, mang theo lon trái cây [trái mơ], và chơi
một mình,
cả lon.
Cuối tháng Giêng 1996, Brodsky lên chuyến tầu suốt, vì bịnh
tim, sau 1
đời đếch thèm để ý đến chuyện gìn giữ sức khoẻ của mình. “Sáng ngủ dậy,
uống cà
phê, mà thiếu điếu thuốc, là kể như mất toi một ngày, ấy là chưa nói
đến chuyện,
làm sao dậy nổi”, ông có lần nói. David Remnick, ký giả Mẽo của tờ The
New Yorker viết về ông và
về cái lần tới phỏng vấn:
Có
nhiều nhà
thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh
ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay
lập tức
anh hiểu trách nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người
riêng tư,
nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu
tượng quốc
gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà
thơ, năm
1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ.
Nhưng
ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Brodsky không được may mắn với sức khỏe của
ông. Tim ông bị mổ hai lần. Ông hút thuốc còn nhiều hơn Bogart, uống cà
phê hơn
cả Balzac. Khi tôi (David Remnick) tới gặp ông thực hiện cuộc phỏng vấn
cho tờ
Washington Post, một nhiếp ảnh viên tới. "Ông có thuốc lá không?",
Brodsky hỏi thay cho câu chào. "Tôi đang chết vì thèm thuốc."
Ông từ chối vai trò kẻ tuẫn nạn nổi tiếng và chỉ
làm công việc của ông: làm thơ, nhưng khi bị đòi hỏi, ông tiến lên, ở
tòa án, ở
lưu đầy xứ người, ông làm việc này một cách tuyệt hảo. Y. Rein, là bạn
của
Brodsky và cũng là một nhà thơ lớn, đã từng tuyên bố tại Moscow: Nước
Mỹ hãy nhớ
lấy lời này. Brodsky là một tiếng nói Nga lớn lao nhất của thời đại anh
ta. Anh
ta đến từ một thời đại tiếp theo những trại tù, những cấm ngăn, một
thời đại tự
nuôi nó bằng văn chương trong khi chẳng còn chi, nếu có chăng, chỉ là
trống rỗng.
Và anh luôn luôn là số một của chúng tôi.
Bobyshev sau
cùng qua Mẽo, định cư ở Illinois, ở đó, ông dậy văn chương. Sau khi
Brodsky mất,
ông có viết về những năm tháng đầu tiên của đời ông, và về cuộc tình
tay ba.
Trong có 1 xen thật bảnh, là cái lần ông tới thăm bà cô ở Moscow. Lúc
đó,
Akhmatova cũng đang ghé thành phố, và bà gọi cho ông, nhằm lúc ông
không có nhà.
Khi ông về, bà cô ngỡ ngàng đến nghẹt thở:
-“Akhmatova ư, gọi điện thooại cho
mi ư? Ối giời ơi là giời, sướng đến thế cơ hả? Bảnh đến thế ư, thiệt
sao?”
-“Thì thiệt
chứ sao, thưa cô”.
-“Bà nói gì
vậy?”
Cuốn
sách chấm
dứt với xen Bobyshev, ở Mẽo, gọi cho Brodsky ở New York. Cả hai cả
chục năm
đếch thèm nói chuyện với nhau, nhưng Bobyshev có chuyện quan trọng cần
nói, và
chuyện này liên quan tới Akhmatova, cả hai đành để lòng ghen
tuông thù
hận qua 1 bên.
Câu
chuyện
quan trọng xong, Brodsky bèn hỏi bạn/kẻ thù:
-“Sao,
thấy
Mẽo thế nào?”
-“Cũng
hơi bị
căng, những đúng là 1 nơi chốn thú vị”
-“Thú
vị là..
sao?”
-“Thì
thú vị
chứ, rất thú vị, mầu sắc, mặt mũi, không gian, con người, tất cả những
thứ đó”.
-“Hừm,”
Bodsky trả lời bạn, và cúp máy.
Mặc dù sức khoẻ tồi tệ (bị tim
quật lần đầu vào năm 1976), ông
tránh được cái chuyện phải quan tâm đến vật chất, như nhiều người sau
ông.
Nhưng ông không làm sao tránh được sự ghẻ lạnh, xa lánh, ngộ nhận. Ông
thất
bại, không nhận ra 1 điều là, những thay đổi xã hội làm cho thơ của ông
rộn
ràng ở Nga, đã ngăn chặn cũng thứ thơ đó, tại Mẽo. Viết về thế hệ của
ông,
những người Nga lý tưởng, ông đẩy đến đỉnh cao tuyệt hảo, bằng lời như
sau đây:
May mắn bị cắt hẳn ra khỏi thế giới còn lại, họ nghĩ, ít lắm, thì thế
giới cũng
“cẩm” như họ; bây giờ họ biết, thế giới có khác họ, chỉ ở điều này: họ
ăn mặc
bảnh hơn nhiều!
Trong thập niên sau cùng, Brodsky vươn tới đỉnh cao tuyệt hảo: Ông
được trao Nobel văn chương vào năm 1987. Sau đó ông trải qua phần lớn
đời của
ông ở Ý, lấy 1 em gốc Nga và Ý, trở thành nhà thơ nhà nước Mẽo,
dời về
Brooklyn. Năm 1993, bà xã sinh cho ông một bé gái, họ đặt tên là Anna.
Như thường xuyên xẩy ra, vào những năm sau cùng của đời mình, Brodsky
được nhìn
rõ hơn, ở những khía cạnh: một tiểu luận gia, một nhà quảng bá, tuyên
truyền
hơn là một nhà thơ. Những tư tưởng của ông, về sự quan trọng đạo đức
của thơ -
được thừa hưởng từ những nhà thơ Thời kỳ Bạc, bao gồm Mandelstam. người
chết vì
thơ của mình – sau cùng trở thành cứng ngắc, biến thành giáo điều. Bài
diễn văn
Nobel của ông rao giảng, “mĩ là mẹ của đạo hạnh”, vân vân, và vân vân.
Thơ thì
bất tử, ông phán: “Rằng những gì được sáng tạo ra hôm nay, ở trong
tiếng Nga,
hay tiếng Anh, thí dụ, bảo đảm sự hiện hữu của những ngôn ngữ này trên
dòng
thời gian, tới thiên niên kỷ kế tiếp”. Nhưng điều này không đúng, như Brodsky sau cùng thừa nhận,
trong một
bài thơ muộn màng, lớn lao, và giận dữ, “Về Ngày Độc Lập Ukraina”,
trong đó, ông
chê bai những người Ukrainians được độc lập đã từ bỏ tiếng Nga, “Vậy
thì hãy đi
với Chúa, những tên Cô Dắc mau lẹ, những viên sĩ quan, những tên cai
tù,” bài
thơ viết, và kết luận:
Hãy
nhớ, cũng thế, khi thời gian của mi tới
Để
chết, những tên có trái tim can đảm
Như
khi mi cào cào tấm nệm giường, và rõ ràng là mi đang đau đớn,
Mi sẽ quên tiếng
rắm của Taras và tiếng thì thầm những vần thơ Alexander
Alexander
Pushkin, nhà thơ muốn nói.
Mặc dù tự nó, bài thơ là 1 sự thừa nhận nhức
nhối rằng
nước Nga, và những con người nói tiếng Nga thì vẫn là 1 đề tài sống
động của thơ
Brodsky.
Brodsky
chẳng bao giờ trở lại Nga. Ông cũng chẳng gặp lại Marina Basmanova, mặc
dù ông
con trai của họ, Andrei có tới thăm ông ở New York một lần, nhưng hai
cha con
coi bộ không hợp. Một ông bạn cho biết, ông có gọi người cũ 1 lần, hỏi
coi ông
có thể mua cho đấng con trai của cả hai 1 cái VCR, ngay cả thế, thì
Brodsky đã
từng cằn nhằn, ông con bỏ học ngang, đếch chịu kiếm việc làm.
Vào năm
1989,
Brodsky viết bài thơ cuối cùng cho Thánh Nữ Thơ ngày nào của ông, to “M.B.”, miêu
tả cảnh ông lang thang tản bộ, ngửi trời mát lạnh, và nhớ
Leningrad.
“Đừng lộn xộn, Don’t get me wrong”, bài thơ tiếp tục:
Tiếng
nói của em, thân thể của em, tên của em
Chẳng
là gì đối với anh bây giờ.
Chẳng
ai huỷ diệt chúng.
Chỉ
là chuyện, để quên một đời,
người
ta cần một đời khác để sống
Ít
ra một đời khác.
Và
anh đã thử phép màu đó rồi.
Tiếng Anh của
ông có thể đảm bảo cho bố mẹ một chừng mức tự do, nhưng có 1 điều nó
không làm
được: chuyển thơ tiếng Nga của ông thành thơ tiếng Anh. Tất nhiên, ông
cố gắng,
và không hổ thẹn về cái chuyện thử, mà không được. Ngay khi mà tiếng
Anh trở nên
khơ khớ, đủ xài, là ông bèn “cộng tác” với những dịch giả của ông, sau
cùng, ông
lắp ghép, thay thế, supplant, họ. Kết quả thì không quá tệ, như, rất ư
là thất
thường. Với mọi đoạn thơ, thì thường là từ ba cho đến bốn lỗi – văn
phạm, thành
ngữ, hay, nghe chối tai. Tệ hơn hết, với những độc giả quen với thơ
Anglo-Saxon
hậu chiến, những bài thơ dịch của Brodsky biến thành vè, ăn vần với
nhau, rhymed, bất cần trở ngại nào chúng gặp
phải.
Ngay từ thoạt
kỳ thuỷ, số phận tóm lấy ông, để mà bắt phải kinh qua đủ thứ chiến đấu,
của thế
hệ của ông, số phận cứ đè ông ra để mà cạo da, như thành ngữ của Nga
nói. Ngay
cả cái chuyện di tản, di dân, lưu vong, bị tống xuất ra khỏi Đất Mẹ thì
cũng không
tránh khỏi, và chẳng phải một ngoại lệ. Ông tránh được cái chuyện mất
địa vị,
tư cách xã hội, nó hành hạ những di dân khác, sau đó (sự thực, những
hồi
ký của đám
di dân sau ông, những người đã từng biết ông ở Leningrad thì đầy những
chuyện,
như thế nào Brodsky đã không giới thiệu họ với những bậc danh giá,
tiếng tăm,
hay vờ họ, làm ra vẻ đếch nhìn thấy họ, trong những lần ông đọc thơ,
đâu đó). Mặc
dù sức khoẻ tồi tệ (bị tim quật lần đầu vào năm 1976), ông tránh được
cái chuyện
phải quan tâm đến vật chất, như nhiều người sau ông.
Nhưng ông không
làm sao tránh
được sự ghẻ lạnh, xa lánh, ngộ nhận.
Ui chao hóa
ra Brodsky cũng gặp khá nhiều chuyện Gấu gặp.
Hà, hà!
Nhưng có tí khác,
ông là
người đầu tiên đau vết thương di tản, còn Gấu, 1 trong những kẻ sau
cùng!
Người ta trách
ông vờ họ. Còn Gấu, thì bị chúng vờ. Bạn quí vờ. Nữ văn sĩ đã từng có
thời quen
biết còn chửi, qua làm chó gì nữa, hết mùa biển động từ đời nào đời nào
rồi,
sao không ở luôn với VC?
May, thật
may, bạn không quí, hay bạn chưa từng quen, không vờ.
V/v những bài
tiểu luận viết bằng tiếng Anh & trình độ tiếng Anh của Brodsky.
Coetzee đã
từng viết 1 bài về chúng, trong Những
Bến Bờ Xa Lạ Hơn, Stranger Shores.
Nabokov
thì chê thấu trời, và điều này dễ hiểu. Tiếng Anh của Brodsky là thứ tự
học.
Bản
thân Gấu đọc
tiểu luận của ông, ngắc ngứ hoài, rất nhiều khi không luận ra được cấu
trúc câu.
Gấu biết
Brodsky, là do đọc ông, qua bài viết của Coetzee trên tờ NYRB, sau được
đưa vô Stranger Shores,
và bài của David Remnick, trên tờ Người Nữu Ước.
Bài của
Remnick, dịch liền, đăng trên Văn Học của NMG.
Bài của Coetzee, chôm 1 vài ý, thí dụ, “thi
sĩ
không bao giờ là nạn nhân” (J. Brodsky), đưa vô bài viết, về VP cũng
đăng trên Văn Học.
"At all
cost try to avoid granting yourself the status of the victim" Bằng
mọi cách, hãy
tránh ban cho mình cái ‘thế giá’ là 1 nạn
nhân.” (on Grief).
Brodsky
trong một lần nói chuyện với sinh viên,
đã khuyên họ như vậy.
Coetzee khen
nức nở thi sĩ, phải như Brodsky, không bao giờ khoe vết thương của
mình:
a refusal to exhibit his wounds was always one of his admirable traits.
А что до слезы из глаза—нет на
нее указа, ждать до дргого раза.
Meaning, roughly: “As for the
tears in my eyes/ I’ve received no
orders to keep them for another time.”
Về những
giọt
nước mắt trong mắt tôi/Tôi không nhận được mệnh lệnh nào để giữ chúng
cho một lần khác.
Tôi ngồi chờ
nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong
trường
tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời
đám bạn,
và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu
nói nhạt
thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi
một ngả
đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và
chạy theo,
chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là
không. Nàng
lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình
yêu là
gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong
tấm kiếng
chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay
trái lòng
khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn
mặt thảm
hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã
sống hết mối
tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của
tôi đối
với nàng đã hết.
Tứ tấu khúc
Mở giùm tôi cánh cửa này,
tôi đập, và khóc
ròng.
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant.
Apollinaire
Vào năm
1976, Brodsky tái ngộ bạn cũ Loseff ở Mẽo. Loseff trở thành người đọc
bảnh nhất,
và người quan sát gần gụi nhất, cuộc sống Mẽo của ông. Khi còn ở
Leningrad,
Loseff, người mê sách, làm biên tập thể thao cho một tạp chí dành cho
con nít.
Qua Mẽo, lúc đầu, như Brodsky ở Ann Arbor làm việc cho nhà xb Ardis của
Proffer, sau dời đi New England, còn với Loseff, là Dartmouth, ở đó,
ông dạy
văn học Nga cho tới mất vào năm 2009.
Như là 1 nhà
viết tiểu sử, Loseff đáng nể trọng, thông minh, và được thông tri, phải
nói là thần
kỳ, siêu tự nhiên. Ông chỉ cho chúng ta thấy, bằng cách nào những kinh
nghiệm
quan trọng trong cuộc đời của Brodsky xuất hiện ở trong thơ của ông -
sự thực,
cuốn sách được viết như là một “đồ án, kế hoạch phụ”, trong khi Loseff
sửa soạn
cho ra lò 1 bộ gồm hai cuốn thơ của Brodsky, với ghi chú, tiểu chú thật
là
bảnh tỏng.
Tác phẩm này sẽ được xb ở Nga, vào mùa hè năm nay. Ông chỉ ngó vào cuộc
đời riêng
tư của Brodsy, khi cảm thấy cực kỳ cần thiết. “Cuốn sách sẽ theo cái
kiểu ‘mọi điều
bạn muốn biết về Brodsky, nhưng ngại hỏi’, nếu cái điều bạn ngại hỏi
đó, thì là
về siêu hình học chứ không phải về vợ của
Brodsky”, một nhà điểm sách đã phán như thế, khi cuốn sách ra lò ở Nga
xô.
Nhưng Loseff
còn để lại 1 cuốn sách gồm những tiểu luận có tính tự thuật, “Meander,”
xb sau
khi ông mất, tại Nga xô, vào năm 2010, biên tập viên là nhà thơ Sergei
Gandlevsky.
Vẫn trung thành, và thân thương với bạn, những tiểu luận ngắn ở trong
đó cho chúng
ta thấy một Brodsky riêng tư hơn, rất người hơn, và trong đó, Brodsky
xuất hiện
có vẻ khác một chút. Loseff tới thăm Brodsky tại New York, ăn đồ ăn
Tầu, và đọc
thơ. Và cũng còn nhận quần áo: Theo Loseff, Brodsky mua rất nhiều quần
áo cũ ở Manhattan,
và sau đó, cho bạn, vì cả hai cùng 1 khổ quần áo. Một bài tiểu
luận
mở ra với
cái cảnh Loseff làm chân giữ nhà cho bạn ở Morton Street, và bất thình
lình điện
thoại reo vào lúc nửa đêm, và một giọng nữ ở bên kia đầu dây, nói tiếng
Anh, lầm
Loseff với Brodsky, hỏi, anh ơi anh đang làm gì đấy. “Thật ngu đần,
tôi nói, ‘Ngủ,’”,
Loseff viết, và “Điều xẩy ra ở phía bên kia đầu dây khiến tôi bối rối,
và thế là
tôi đặt máy vào chỗ cũ.” Bài tiểu luận tiếp tục, trong phong thái bào
chữa cho
Brodsky, về cái chuyện ông bị coi như là 1 tay sát gái.
[Cái chi tiết
Brodsky chuyên đi sắm quần áo cũ rồi cho bạn, thật thú vị, vì nó làm
Gấu đến vợ
chồng Gấu, tới xứ lạnh, đúng vào những ngày bão, một trận bão tuyết 40
độ âm, từ
mấy chục năm mới lại xẩy ra. Khi ở nhà tạm trú, một ông bạn văn đem đến
biếu 1
cái áo lạnh cũ, y chang anh bạn quí biếu cái áo cộc tay cũ, cái hồi còn
ở Sài Gòn,
sau 1975, làm đệ tử Cô Ba.
Ông bạn văn
này sợ Gấu bị lạnh, và cũng có thể nghĩ Gấu cần 1 cái áo vét, lỡ đi đâu
trình
diện với đời!
Nhưng, thú
nhất là cái nhà thờ ở gần ngay trung tâm tạm trú mở ngay ra 1 cửa hàng
cho quần
áo lạnh cũ. Gấu Cái mò tới, dinh về một đống, Gấu ngạc nhiên quá, làm
sao mà lấy
nhiều như thế, làm sao mặc cho hết. Bà thở phào, sau khi thở được,
phán, bỏ cái
nào cũng tiếc. Lấy, để gửi về cho mấy đứa nhỏ, hoặc gửi về Việt
Nam!]
Trong những
tiểu luận, Loseff có thể nói một số điều mà Brodsky không thể. Ngay cả
khi dời
Nga đi New York, Brodsky vẫn không nghĩ đây là 1 cuộc đổi đời,
vẫn có chút dửng dưng, khi nói về nó.
Cũng thường thôi, chẳng
ghê gớm chi đâu, khi trả lời bất cứ
1 phỏng
vấn viên, America is
merely “a continuation of space”, Mẽo chỉ
là tiếp nối không gian.
Hay là, như
trong “Khúc Ru Mỏm Cá Thu”, “Lullaby of Cape Cod” (1) qua bản dịch của
Anthony
Hecht:
Viết từ một
Đế Quốc mà những sườn vách khổng lồ của nó lấn dưới biển
Đã nếm trải
hai đại dương cũng như hai lục địa
Tôi cảm thấy
rằng, tôi biết được, chính trái đất này phải cảm nhận như thế nào:
Không có nơi
nào để mà thoát cả.
Bất kỳ đâu
đâu, có khác gì một chùm sao xa xăm tắt lịm dần
(1)
Trong bài
thơ, Khúc Ru Mỏm Cá Thu, “Lullaby of
Cape Cod" (1975) Brodsky miêu tả cuộc “dời” [his “move”] đi Mẽo
của
ông, như là “thay đổi Đế quốc”. Cho dù ra đi, rời đổi, là mất mát, là
gì gì đi
chăng nữa, với ông, về bản chất, chẳng có gì là đổi thay, nghĩa là ông
vẫn vậy.
Nếu không chi ly từng chi tiết - nghĩa là, lẽ đương nhiên, một đế quốc
này có
thể tởm hơn đế quốc kia - đế quốc luôn luôn hiện hữu, và ‘mắm sốt’
[même chose]
như nhau [empires have always existed and resemble one another], mặc dù
thi sĩ
bị đế quốc Xô Viết làm tình làm tội, nhưng ông không tin rằng, có một
hệ chính
trị đem đến cho con người một xã hội hoàn toàn. Kẻ Thù Lớn không phải
là Không
Gian, nhưng mà là Thời Gian.
Source
[Cách nhìn của
Bengt Jangfeldt về thái độ đối với quê hương thứ nhì, Mẽo, của Brodsky,
bảnh hơn,
và thống nhất hơn, [trên cái nền, “đi là đi một lèo, không nhìn lại”,
của Brodsky], so với tác giả bài
viết trên Người Nữu Ước. Nhưng
bài mới này lại cho chúng ta nhiều chi
tiết mới mẻ về Brodsky, thí dụ cái vụ
ông bị bắt, giai thoại của Akhmatova về ông em, đã mướn nhà nước VC
Liên
Xô viết tiểu sử của mình…]
Ở mức độ cá nhân, cách nhìn đời của nhà thơ là: “đường
một chiều”. Một sự trở lại với cái gì đã qua, - một đời sớm sủa trước
đó, một
người đàn bà – là chuyện không thể. Trong Tháng Chạp ở "December in
Florence" (1976), viết về thi sĩ Dante và thành phố quê hương, về nhà
thơ
và số phận lưu vong của ông, Florence nhập vào với Leningrad, thành phố
quê
hương của Brodsky [nguyên văn: thành phố Florence bung đôi ra,
double-exposed,
với một thành phố khác – Leningrad]:
There are,
writes Brodsky,
… cities one won't see again. The sun
throws its gold
at their frozen windows.
But all the same
there is no
entry, no proper sum.
There are always
six bridges spanning the
sluggish river.
There are places
where lips touched lips
for the first time ever,
or pen pressed
paper with real fervor.
There are
arcades, colonnades, iron idols
that blur your lens.
There the
streetcar's multitudes, jostling,
dense,
speak in the
tongue of a man who's departed
thence.
[Có những
thành phố mà ta sẽ chẳng nhìn thấy nữa. Mặt trời dát vàng lên những
khung cửa sổ
gía lạnh. Nhưng cũng vậy thôi,
không lối
vào, không có một tổng kết nào thỏa đáng.
Luôn luôn vẫn
là sáu cây cầu bắc qua con sông lững lờ.
Có những chốn,
nơi môi chạm môi lần đầu trong đời,
hay bút hằn lên giấy.
Có những vòm cung, những hàng cột, những tượng sắt làm
mờ kiếng bạn.
Nhộn nhịp, chen chúc, dầy đặc là những chuyến xe điện,
Nói tiếng nói của người sẽ ra đi, từ đấy.
[Từ đấy trong tôi bừng
nắng hạ], nhưng thôi, kệ mẹ mọi
cái thứ rác rưởi, kệ mẹ cả lò chủ nghĩa Cộng Sản, [In spite of all
Communism],
St. Petersburg của nhà thơ vẫn luôn luôn là “thành phố đẹp nhất trên
thế giới”.
Sự trở về, là không thể, trước tiên là vì chế độ chính trị khốn kiếp
đó, lẽ tất
nhiên, nhưng sâu thẳm hơn, là yếu tố tâm lý này: “Con người chỉ dời đổi
theo một
chiều. Và chỉ từ. And only from. Từ một nơi chốn, từ một ý nghĩ đã đóng
rễ ở
trong đầu, từ chính hắn ta hay là y thị… nghĩa là, hoài hoài dời xa cái
điều mà
con người đã kinh nghiệm, đã từng trải.
Cuộc lữ của con người, như là một cá thể, trong thời
gian và không gian, chỉ là để biệt tích, lọt vào cõi không, the
non-existence,
trong chuyến bay lịch sử. Không hẳn là bởi vì loài người rồi sẽ bị tiêu
diệt bởi
chiến tranh, bởi bom nguyên tử, nhưng những xã hội, những nền văn minh,
như từng
cá thể, đều bị chi phối bởi cuộc chiến thời gian, the time war. Với
Brodsky, đe
dọa lớn do những thay đổi về dân số sẽ là hiểm họa cho văn minh Tây
Phương vốn
dựa trên cá nhân [individual-based civilization]. Một đề tài cứ trở đi
trở lại
đối với cả hai nhà thơ Nga, Brodsky và
Osip Mandelstam, là vai trò của một thế giới Ky Tô ngày một giảm dần,
nhuờng chỗ
cho cảm tính bài-cá nhân của một thế giới ngày một thêm đông người. Bởi
vì đối
với cả hai, Ky Tô giáo trước tiên, và trên hết, là vấn đề của văn minh,
do đó,
tương lai của cá nhân nhập với tương lai của thế giới: Cái chết của cá
nhân là
cái chết của chủ nghĩa cá thể.
Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian
Chống lại con đỉa đói Thời
gian, ngấu nghiến tất cả, dẫn
tới sự thiếu vắng của cả hai, cá nhân và thế giới, Brodsky động viên
tới Từ
(the word). Ít nhà thơ hiện đại nào như ông, nhấn mạnh đến như thế, vào
khả
năng của từ, nhằm dứt nó ra khỏi con đỉa đói thời gian sẽ ngấu nghiến
tất cả
(all-devouring Time). Niềm tin tưởng này luôn luôn trở đi trở lại trong
thơ
ông, nhất là ở những dòng thơ chót:
I don't know anymore what
earth will
nurse my carcass.
Scratch
on, my pen: let's mark the white the way it
marks us.
("The Fifth
Anniversary", 1977)
[Tôi không
còn biết nữa, mảnh đất nào sẽ bú mớm cho cái thân xác này.
Cây viết của
tôi ơi: Hãy tiếp tục vạch lên nền trắng, cách mà nó vạch nên chúng ta]
[“Kỷ niệm
năm thứ năm xa quê hương”, 1977]
That's the birth of an eclogue. Instead of
the shepherd's signal,
A lamp's flaring
up. Cyrillic, while
running witless
on the pad as
though to escape the captor,
knows more of the
future than the famous
sibyl:
of how to darken
against the whiteness,
as long as the
whiteness lasts. And after
("Eclogue IV:
Winter")
[Đó là sự ra
đời của một khúc đồng dao. Thay vì tên chăn cừu dơ tay, hay phất cờ
[ Hãy tiến
lên vì sự nghiệp cách mạng của chúng ta, thì],
Một ngọn đèn
sáng lên. Văn tự Nga, chạy mù, trốn tên bắt giữ nó,
Biết về
tương lai, nhiều hơn là tên tiên tri nổi tiếng kia,
Về cách bôi
đen lên nền trắng,
Chừng nào nền
trắng còn. Và sau đó.
Niềm tin của
Brodsky vào quyền năng của từ phải được hiểu theo quan điểm chống thời
gian và
không gian của ông. Văn chương hơn [superior) xã hội – và hơn nhà văn,
chính hắn. Ý tưởng không phải ngôn ngữ,
nhưng chính nhà
văn, là dụng cụ, ý tưởng này là cốt lõi thơ Brodsky. Ngôn ngữ già hơn
xã hội,
và lẽ dĩ nhiên, già hơn nhà thơ, và chính ngôn ngữ sẽ nối kết những
quốc gia, một
khi mà trung tâm không còn giữ nổi, “the centre cannot hold” (chữ của
Yeats).
Con người chết,
nhà văn, không. Cùng phát biểu như vậy, là nhà thơ Anh, W.H. Auden,
trong bài
thơ tưởng niệm nhà thơ W.B. Yeats, “In Memory of W.B. Yeats (1939).
Chính đoạn
thứ ba và cũng là đoạn chót của bài tưởng niệm đã gây ấn tượng mạnh ở
nơi
Brodsky, như ông kể lại trong Less Than One, khi ông đọc bài thơ lần
đầu, trong
khi lưu đầy nơi mạn bắc nước Nga:
Time that is intolerant
Of the brave and
innocent,
And indifferent
in a week
To a beautiful
physique,
Worships language
and forgives
Everyone by whom
it lives …
[Thời gian
không khoan dung
những kẻ can
đảm và ngây thơ
Và dửng dưng
trong một tuần lễ
Trước cõi trần
xinh đẹp
Thờ phượng
ngôn ngữ và tha thứ
Tất cả ai
kia, nhờ họ mà nó sống]
Nói
một cách khác, ngôn ngữ hơn, không chỉ xã
hội và nhà thơ, mà còn hơn cả thời gian, chính nó. Thời gian “thờ phụng
ngôn ngữ”,
và như thế “không bằng, kém, thua” ngôn ngữ. Có một nét bi thương, lãng
mạn,
như là định mệnh của ngôn ngữ, qua một khẳng định như thế, nhưng ở Nga
xô, nơi
con người, như Puskhin diễn tả, thường “câm” [mute],
và nhà văn có một vị thế độc nhất. Sự nhấn mạnh
vào tính trấn ngự của ngôn ngữ do đó, không phải là một biểu hiện của
chủ nghĩa
mỹ học; trong một xã hội, nơi ngôn ngữ được quốc gia hóa, nơi ngôn ngữ
mang mùi
chính trị ngay cả khi không nói chính trị, trong một xã hội như thế, từ
ngữ có
một sức mạnh bộc phá lớn lao, khủng khiếp.
Khác hẳn
Brodsky, Loseff nhìn đế quốc Mẽo: “Bây giờ, đã sống ở đó 30 năm, tôi
đôi khi vẫn
cảm thấy một sự phấn kích lạ kỳ, mình đó ư, nhìn đất lạ này, với cặp
mắt của chính
mìmh, ngửi cái mùi lạ như là mùi của mình, nói tiếng lạ như là tiếng
của mình”.
Ui chao,
trong khi đó, đây là cảm tưởng của một nhà văn Mít, khi phải nhìn cái
đất nước đã
nhận ông và gia đình ông, và khi phải nhìn lại Đất Mẹ của ông:
LTT:
Cũng qua các
bài phỏng vấn vừa nhắc, được biết anh đã viết Phiếm luận từ trước 1975
ở Sài
Gòn, lúc bấy giờ anh thường viết về những đề tài nào?
Chẳng hạn như “Tuổi trẻ và chiến tranh”, “Chiến
tranh và đời sống nơi thành thị”, “Chiến tranh và hòa bình” hoặc “Nông
thôn và
chiến tranh” vân…vân..Sau này, anh có còn lưu giữ lại được vài ba bài
nào để
làm kỷ niệm không? Ngoài ra, so với những bài phiếm luận trước năm 1975
và những
bài phiếm hiện nay, thì thời nào anh viết hứng thú nhất? Vì sao?
ST:
Trước 1975,
tôi có viết những bài gọi là “phim” cho các báo hàng ngày, hàng tuần và
mỗi nửa
tháng như Dân Ý, Tìm Hiểu, Thời Nay, Thời Việt…Đó là những tờ mà tôi
viết thường
xuyên mỗi kỳ báo ra. Thực ra những bài viết của tôi thời đó không hẳn
là phiếm
như những bài tôi viết tại hải ngoại bây giờ. Bây giờ viết tương đối
thoải mái
hơn. Mình sống kiểu sống nhờ tại một quốc gia mà mình bắt buộc phải
nhận mình
là công dân của quốc gia đó. Nó không là máu mủ của mình nên mình cũng
không nợ
nhiều như mình nợ đất nước mình. Ngày xưa những bài viết của tôi nặng
về phần
chỉ trích, chế giễu, đòi hỏi và có ý hướng cải thiện xã hội hơn. Chúng
có cái vẻ…trâu
đánh hơn. Ngày nay viết là viết lấy vui, cười với nhau, ngẫm nghĩ với
nhau một
cách chung chung, ba lơn ba cợt. Như vậy anh thấy cái tinh thần và mục
đích của
bài viết ngày trước và bây giờ đã khác nhau, khác xa lắm. Ngày xưa tôi
viết khi
còn đang đi làm, bận tíu tít. Có nhiều lần ông tùy phái của tòa báo
phải tới sở
làm của tôi đợi bài để mang về cho thợ sắp chữ gấp kẻo báo ra trễ. Ngày
nay,
hưu rồi, tiền sinh sống đã có chính phủ lo, tâm trí mình thảnh thơi hơn
nhiều.
Viết như một cái thú, thích thì viết, hứng thì viết, chẳng ai bắt,
chẳng vội
vàng chi. Cứ như rong chơi vậy anh ạ.
[Ngưng trích]
Thú thực,
trước 1975, Gấu Cà Chớn chưa từng đọc ST. Thành thử không có ý kiến về
những gì
ông viết cho những tờ báo được ông liệt kê. Sau 1975, ra hải ngoại, đọc
ông trên
tờ Nắng Mới, của nhóm của ông, mà Gấu cũng có bài đóng góp. Khi đó, ông
viết ba
cái tạp nhạp, theo kiểu tạp ghi, ghi nhận 1 số tin văn học, thời sự địa
phương…
Cũng chưa ngửi ra mùi văn của ông.
Chỉ đến khi báo NM chết, ông bắt đầu viết
truyện ngắn, và được ông HNH từ trong nước lăng xê, trong 1 bài viết mà
chính Gấu
là người về trong nước, được ông trao tặng, và nể tình “tri ngộ” Gấu
bèn mất công
ngồi gõ, đưa lên net. Ông ST mừng quá, khoe um lên, nhưng chưa từng cám
ơn cái
thằng gõ bài [cũng là thổi ông, vậy]. Ông nhắc tới bài viết của HNH,
khi Gấu
cho đăng trên Việt Báo online, nhưng không hề nhắc đến NQT, là thằng gõ
bài.
Có 1 cái gì đó,
thật khó hiểu ở những ông nhà văn Mít như ST. Thí dụ.
Cũng 1 trường
hợp như thế, đối với Sến Cô Nương. Em post bài của Gấu viết về nhà thơ
Joseph
Huỳnh Văn, từ trang Việt Báo online, chứ không thèm post, cũng bài đó,
đăng trên
Tin Văn.
Như thể TV, tức cái gốc của bài viết, không hề có, không hề hiện hữu.
Bởi vì thường
ra, là người ta tìm đến cái gốc của bài viết.
GCC đâu có
muốn họ nhắc tới Gấu, tuy cả hai ông bà ST/SCN, đều đã từng quen biết
thằng cha
Gấu, và Gấu cũng đã từng cộng tác với báo/diễn đàn của họ.
*
Tiếng Anh của riêng
Brodsky tiến bộ rất
nhanh. Gần như ngay lập tức khi tới Mẽo, ông bắt đầu cho in những bài
tiểu luận,
dịch từ tiếng Nga, bởi những bạn bè của ông, trong giới báo chí Mẽo.
Vào năm
1977, ông mua 1 cái máy đánh chữ cũ ở Manhattan, và bắt đầu viết tiểu
luận bằng
1 thứ tiếng Anh của riêng ông, 1 thứ tiếng Anh mềm mỏng, dễ uốn, giọng
điệu chơi
chơi, tếu tếu, qua đó, bạn đôi khi nhận ra giọng thơ gốc Nga của ông.
Trong những
tiểu luận đó, rất nhiều bài xuất hiện trên NYRB, Brodsky viết với tất
cả sự chân
thành, thân ái của ông về những nhà thơ mà ông ngưỡng mộ nhất: Marina
Tsvetaeva, Osip Mandelstam, Anna Akhmatova, và ở bờ bên kia, Robert
Frost, và
nhất là, Auden. Bằng cách này, ông trả những món nợ của ông. Ông còn có
thể,
trong vài bài tiểu luận có tính tự thuật, nhớ lại những kinh nghiệm đau
thương
của mình trong 1 một hình thức mới [tiếng Anh]. Như ông viết về ông cụ bà cụ của
mình, mất vào giữa thập niên 1980, không thể nhìn thấy mặt con, kể
từ khi ông bị
tống xuất khỏi Liên Xô:
Tôi viết thư nhà này bằng
tiếng Anh,
bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự do
này, rộng
hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc thích
đọc thư
nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có được
thực tại
dưới “qui tắc ngoại về lương tâm” [a
“foreign code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự
chuyển
động, diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai
cụ sống
lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là
con đường
giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so
với văn
phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự
giam cầm
của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách
máy móc
kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính
là xuất
phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan
này tới cơ
quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy
phép đi
ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết,
và liên
tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một
tờ giấy
phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”].
Chỉ nội
chuyện đó không thôi, sự lập đi lập lại
một “lời phán” khốn nạn như thế, nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó,
của nhà
nước, với tiếng Nga. Ngoài ra, ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả,
bằng tiếng
Nga, những từ này cũng chẳng mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn
thấy
ánh sáng mặt trời, dưới bầu trời Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân
Nga mà
cha mẹ của họ, đã chết, hoặc sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự?
Họ, chính
họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế
nào,
khi không được phép nhìn mẹ cha của họ, khi ông hay bà nằm trên giường
chờ chết;
sự im lặng tiếp theo yêu cầu của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để
dự đám
tang của người thân. Và rồi thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn
ông, hoặc
đàn bà đặt chiếc ống nghe điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa,
bước vào
một buổi chiều ở nước ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có
từ ngữ
để diễn tả, và dù có la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ
phải nói
với những người đó điều gì? Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng
có một xứ
sở nào đã luyện được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn
của dân
mình như nước Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn
linh hồn
đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này.
Chính là
vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian
Của Người.
Xin cho tiếng Anh làm cái nhà cho những người thân quá cố của tôi.
Trong tiếng
Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy
nhiên, với
mẹ cha tôi, bà Maria Volpert và ông Alexander Brodsky, tiếng Anh mới
chính là
thứ ngôn ngữ dâng cho họ một cõi sau xem ra tươm tất hơn và có thể đó
là cõi
duy nhất mà họ có được ngoài cái trí nhớ của bản thân tôi về họ ra. Còn
về bản
thân tôi, khi viết bằng tiếng này, thì cũng chỉ như là rửa chén dĩa mà
thôi, rất
tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa
rửa một mớ
chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!
Bạn đọc TV để
ý, chính là bằng cái từ “không thích hợp,
không có mục
đích” [“unpurposeful”], đám khốn kiếp Sài Gòn sử dụng, theo lệnh Bắc Bộ
Phủ, để cấm sô hát
tái ngộ của anh chàng ca sĩ Miền Nam gốc Chăm, Lính Chê.
Tất cả đoạn viết của
Brodsky, chúng ta có thể áp dụng "sáng tạo, thông minh, và thiên tài"
vào xứ Mít:
Chẳng
có một xứ sở nào đã luyện được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ
diệt linh hồn
của dân mình như nước Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm
lành lặn
linh hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được
điều này.
Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt
Thời Gian
Của Người. Xin cho tiếng Anh làm cái nhà cho những người thân quá cố
của tôi.
Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá
thư. Tuy
nhiên, với mẹ cha tôi, bà Maria Volpert và ông Alexander Brodsky, tiếng
Anh mới
chính là thứ ngôn ngữ dâng cho họ một cõi sau xem ra tươm tất hơn và có
thể đó
là cõi duy nhất mà họ có được ngoài cái trí nhớ của bản thân tôi về họ
ra. Còn
về bản thân tôi, khi viết bằng tiếng này, thì cũng chỉ như là rửa chén
dĩa mà
thôi, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con
của bà vừa
rửa một mớ chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!
Ở Vienna,
Brodsky gặp Carl Proffer, một giáo sư văn chương Nga tại Đại học
Michigan, ông
này vừa mới mở 1 cái nhà xb nhỏ, Ardis. Biết Auden, người hùng của
Brodsky, đang
nghỉ hè cận đó, ông bèn quyết định kéo Brodsky làm 1 cú viếng thăm. Mặc
dù đếch
có báo trước cái con mẹ gì cả, nhưng Auden, tỉnh như Ăng Lê, mở rộng
cửa đón mừng
nhà thơ lưu vong, và vài tháng sau, Brodsky bèn “thư nhà” [chắc giống
ông tiên
chỉ VP], cho ông bạn của mình, Loseff, sử dụng tiếng Anh búa xua, mới
kiếm thấy,
gặp chữ nào chơi chữ đó:
W. H. Auden uống ly đầu
tiên martini dry vào lúc 7.30 sáng. Sau đó, ông
đi 1 đường mở hộp thư ra coi, đọc giấy
tờ và đánh dấu dịp trọng đại này bằng 1 ly hỗn hợp sherry
và scotch.
Sau đó, ông chơi breakfast, điểm tâm, kèm với 1 món địa phương
dry pink
and white. Tôi không nhớ cái nào
trước, cái nào sau. Sau đó, ông bắt đầu làm việc. Có thể là do ông dùng
bút ballpoint,
cho nên bàn làm việc kế ngay bên, và thay vì một lọ mực, thì là 1 chai, hay lon Guinness, một
thứ bia đen Ái nhĩ lan, nó từ từ biến mất theo công việc sáng
tạo. Tùy
theo thực đơn, bữa ăn trưa thì được trang điểm bằng cái đuôi này, hay
cái đuôi
kia, của một con gà trống, hay cocktail. Sau bữa trưa, thì ngủ trưa
1 phát, và tôi nghĩ, đây
là 1 điểm khô độc nhất của ngày.
Và như thế đấy,
cuộc đời quyến rũ, ngạc nhiên, thích thú của Brodsky ở Tây Phương bắt
đầu
Brodsky xuất
hiện như là 1 món đồ trang sức, kế bên em Susan Sontag, trong cuốn hồi
ký về em
của tiểu thuyết gia Sigrid Nunez, “Sempre
Susan”. Đó là năm 1976, và Brodsky mới bắt đầu hẹn hò mí em. Chàng thì
lãng mạn,
ủ ê, hói. “Chẳng có gì chó gì hết”, một bữa chàng tuyên bố. “Không đau
khổ. Không
hạnh phúc. Không đau ốm. Không nhà tù. Không là không.” (Bây giờ, đó là
Âu Châu,
Nunez viết, khi moi móc về phiá Sontag.
[Trong Water Mark, Thuỷ Ấn, Brodsky có
viết về lần hẹn hò ở Venise, không biết có phải là cú này không. GCC])
Một lần
khác, Brodsky đưa mọi người đi ăn đồ Tầu, món khoái khẩu của ông ở
New York.
Ngồi quanh bàn, là Sontag với ông con trai, Nunez trẻ, Brodsky trông
như 1 cha già La mã lang bạt. Anh miêu tả cái cảnh Brodsky bước vào bộ
lạc
nho nhỏ của
mình, “Chúng mình hạnh phúc phải không?”
Đó là hình
ảnh mà người ta có, về Brodsky ở Mẽo: một thành công lạc loài nơi xứ
người. Chỉ
nhìn từ phía Đất Mẹ Niên Xô thì mới nhận ra nó khó khăn cay đắng làm
sao, và nó
có nghĩa như thế nào, tới mức nào. Với những thành viên của thế hệ Xô
Viết thời
đó, Mẽo là mọi thứ, là tất cả. Họ nghe nhạc Mẽo, đọc tiểu thuyết Mẽo.
[Thảo nào
mấy anh Mít trong nước mê Paul Austin, hà hà! GCC], dịch thơ Mẽo. Họ
tóm mẩu vụn
Mẽo, chỗ này, chỗ nọ, bất cứ chỗ nào nếu có thể, mỗi lần có dịp ra khỏi
nhà, kể
cả những chuyến viếng thăm Ba Lan. “Mẽo thì giống như một quê nhà trừ
bị đối với chúng
tôi”, Sergeev (đã từng dịch, trong số những tác giả, Robert Frost) sau
đó viết.
Khi, vào thập niên 1970, cơ hội tự nó bò tới, thế là rất nhiều anh
chuồn. Chỉ
khi tới quê nhà trừ bị, thì mới khám phá ra cái mà họ mất.
Brodsky là “1
của 1” đó, nghĩa là người đầu tiên trong số những người đầu tiên. Những
năm sau
đó, nhiều người mò tới, và những cộng đồng Nga mọc lên ở Boston, New
York, Pittsburgh,
nhưng vào năm 1972, Mẽo thì cô đơn trơ trọi y chang cái làng
Norenskaya, và có
thể còn tệ hơn: Chẳng có lấy 1 mống Nga để mà trò chuyện, Brodsky than
thở
trong những thư nhà, [y chang VP, khi than thở, chạy vội quá, không
mang theo được 1 đấng độc giả], và ông viết về cái đám giáo sư văn học
Nga, “Họ,
với những đề tài của họ, thì cũng như chủ với chó của họ”. Những bài
thơ đầu tiên
nơi xứ Mẽo của Brodsky thì đẫm mùi cô đơn trần trụi. “Một buổi chiều
mùa thu
trong một thành phố nhỏ khiêm tốn/hãnh diện vì cái sự có mặt của nó
trên bản đồ”,
một bài thơ của ông bắt đầu, và chấm dứt bằng hình ảnh một người mà
hình phản
chiếu ở trong gương biến mất, từng tí từng tí, như ngọn đèn đường trong
1 vũng
nước đang cạn kiệt dần, đang chết [NT đã từng soi bóng mình trên 1 vũng
nước đái, để chải đầu, chắc cũng cô đơn cỡ đó, tại xứ Bắc Kít?].
Cơ sở
Proffer thuyết phục Đại học Michigan xin cho Brodsky được là “thi sĩ
thường
trú”; Brodsky làm 1 bài thơ về một thày giáo của trường. “Trong 1 xứ sở
của những
nha sĩ,” bài thơ bắt đầu, “những đứa con gái của họ thì order quần áo,
vải
vóc/từ những cuốn mẫu hàng London,… /Tôi, miệng ăn sông băng núi chảy,
tiêu huỷ/hơn
tất cả ngôi đền Parthenon/một tên điệp viên, một kẻ chuyến dí mũi vào
chuyện của
những người khác/đội quân thứ năm của 1 nền văn chương tàn rữa/” dạy
văn
chương. Người kể chuyện đến đêm trở về nhà lăn ra giường, còn nguyên
quần áo,
và khóc đến thiếp đi. Cũng năm đó, ông viết 1 bài thơ cho biết, do bị
ép rời bỏ
Nga Xô, ông mất đứa con trai. “My dear Telemachus, Thằng cu Tý yêu quí
của ta
ơi,” bài thơ bắt đầu, “Cuộc chiến Mít thì đã xong rồi”, và tiếp tục:
Bố
chẳng biết bố ở đâu, và chỗ này có thể là chỗ nào.
Hình như là 1 hòn đảo dơ bẩn,
với những bụi cây, những tòa nhà, và những con heo bự ủn ỉn
Một khu
vườn
cỏ dại tràn lan, một vị nữ hoàng nào đó, hay 1 vị khác
Cỏ và đá tảng…
Cu Tý, con trai của ta ơi!
Với 1 kẻ
lang thang, những bộ mặt của tất cả các hòn đảo thì thì đều như nhau.
Và những
chuyến đi của cái đầu, đếm những con sóng; ứa nước mắt mải theo dõi
những đường
chân trời cuối biển cả, nước biển đầy tai.
Ta không nhớ
cuộc chiến chấm dứt như thế nào; con bao nhiêu tuổi ta cũng không nhớ.
Cuối cùng, Brodsky chạy
trốn xứ sở của những nha sĩ để đổi lấy
1 căn phòng nhỏ có vườn ở Morton
Street, West Village,
mà ông mướn của 1 vị giáo sư N.Y.U, và có 1 chân dạy học ở Mount
Holyoke,
Westen Massachusetts. Ông thấy địa vị của mình, có tính xã hội, nghĩa
là cũng
không đến nỗi cô đơn, một mình, và giọng điệu thư nhà chuyển qua 1 giai
điệu kỳ
kỳ, “Tuần lễ vừa rồi, tôi có cuộc trò chuyện đầu tiên, trong thời hạn
ba năm, về
Dante,” một lá thư phàn nàn, “và rồi thì với Robert Lowell”
Chẳng có chỗ cho cả hai,
Brodsky và chủ nghĩa CS, trong cái xứ sở
thật rộng lớn đó. Bè lũ VC Nga bực bội với tất cả những gì Brodsky làm,
[cả đến
chuyện đi ị, như nhà thơ NCT đã từng, đúng vào ngày sinh nhật Bác]. Andrei Sergeev, bạn của Brodsky, sau đó
viết: Nhà chức trách không thể làm bất cứ điều chi ngoài chuyện bực,
với tất cả
những gì Brodsky làm, không làm, đi tản bộ loanh quanh, đứng, ngồi ở
bàn, nằm
xuống giường, và ngủ. Brodsky vẫn cố tìm đủ cách xb thơ của ông, vô
ích. Tới
mức, hai ông cớm KGB gật đầu, chúng tao sẽ in thơ của mày, trên loại
giấy đặc
biệt, bản quí, dành cho "bạn quí" của mày, nếu mày đi một đường báo
cáo về những ông giáo sư, bạn của mi, chỉ là báo cáo xuông, những
chuyện làm
xàm ba láp thôi.
Cũng chẳng có chỗ cho Brodsky ở trong cái phong trào ly khai nhân quyền
nhân
kiếc, rân kủ rân kiếc, nhờ vụ án của ông mà trở thành om xòm, nổi đình
nổi đám.
Trường hợp của Brodsky giống của Bob Dylan đối với phong trào sinh viên
ở Mẽo:
rất có cảm tình nhưng, chỉ vậy, kính nhi viễn chi.
Vào đầu thập niên 1970, bánh xe địa lý chính trị lại quay, và tóm
Brodsky cùng
với nó. Trước đòi hỏi của Tây Phương, hãy thả những tù nhân Do Thái,
Brezhnev
bèn “dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa”, nhờ vậy, Brodsky cũng được ăn theo, ông
được nhà
nước cho phép đúng 3 tuần sắp xếp hành lý, và đáp chuyến máy bay đi
Vienna vào
mùa Xuân 1972.
Không giống như đi… Củ Chi [Norenskaya], chuyến này là lưu vong thực
sự, và kéo
dài suốt quãng đời còn lại của ông.
Cuốn
này, nghe nói, xb không có sự đồng ý của Brodsky, và có nhiều chi tiết,
sự kiện
không được chính xác. Tuy nhiên, đọc, thú vô cùng. Cái đoạn KGB bắt
Brodsky
trình diện, năn nỉ ông nạp đơn xin visa xuất ngoại, kiếm bà con dởm cho
ông có
lý do để đoàn tụ, thật… tếu.
Six Years
Later
Autumn in
Norenskaya
The Gift
Your voice,
your body, your name
mean nothing
to me now. No one destroyed them.
It’s just
that, in order to forget one life, a person needs to live
at least one
other life. And I have served that portion.
Tiếng nói của
em, thân thể của em, tên của em
chẳng nghĩa
gì với anh bây giờ.
Chẳng ai
tiêu huỷ nó.
Ðúng ra là
như vầy:
Ðể quên 1 đời
thì ít nhất cần 1 đời khác.
Anh thử cú
đó rồi.
Brodsky
viết về người yêu cũ của chàng.
Thua xa Gấu.
Gấu chỉ 1 đời.
Có nhiều nhà
thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh
ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay
lập tức
anh hiểu trách nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người
riêng tư,
nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu
tượng quốc
gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà
thơ, năm
1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ.
Nhưng
ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Thế đấy.
Theo nghĩa thế đấy, cái vai tuyệt vời
mà Ông Giời dành cho thi sĩ mê gái HC, là, khi bị Tố Hữu bắt viết tự
kiểm, thì
bèn phán, ông đếch viết, được không.
Của ông Nobel Toán, là cầm cái bửu bối dí
vào Lăng Bác, hô, biến!
Cái gì gì, "Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư", Cao
Bá
Quát phán, là cũng theo nghĩa đó: Trời sinh ra hào kiệt không phải để
thối nát
ra, như ông HC, như ông NBC.
Trời sinh ra
GCC là để mê… BHD, nhưng khi
rảnh rang thì lèm bèm về Cái Ác
Bắc Kít!
Việc nào ra việc đó!
Hà, hà!
Trong
cuốn này, GCC chôm hai bài, 1 về Brodsky, đọc khi đăng trên The New
Yorker, và,
về Oe, "Cha và Con".
Cái tít Vấn đề Quỉ, The Devil Problem,
là của bài viết về
Elaine Pagels, một nữ học giả, tác giả cuốn The
Gnostic Gospels, về nguồn gốc Ky Tô giáo. Có thể là do đụng vô đề
tài cấm kỵ
mà bà gặp toàn tai kiếp. TV, khi nào rảnh sẽ đi đường về bài viết
này,
và cái ngụ ý của cái tít của Remnick, đừng nhắc đến quỷ thần, và nhất
là đừng đụng
đến sân sau Nhà của Chúa!
*
Sau cùng, Ông
Tòa bèn ban cho "cái gọi là" thi sĩ, the so-called poet, 5 năm tù lưu
vong nội xứ,
lao động cải
tạo tại Biển Bắc, để phục hồi nhân phẩm, không còn là kẻ ăn bám, ăn hại
xã hội chủ nghĩa.
Về cái chuyện
lưu vong của Brodsky, Loseff, lại một lần
nữa không hài
lòng với quan điểm của đa số độc giả, vốn quen nghĩ về nhà thơ, như 1
người tù
Gulag. Cái vụ ông bị đưa vô nhà thương điên giữa hai lần ra tòa thì
thật là thê
thảm, nhưng 18 tháng ông trải qua tại 1 nông trường cải tạo, đúng ra
làng
Norenskaya, quả đúng là quãng đời đẹp nhất của cuộc đời của ông.
[Ui chao, quả
đúng như thế thật. Lần đầu Gấu đọc cuốn Chuyện trò với Brodsky của
Volkov, chương
viết về thời gian lưu đầy nội xứ của Brodsky, GCC cứ nghĩ đến những
ngày cải tạo
của Gấu, tại nông trường Phạm Văn Cội Củ Chi. Tuyệt vời].
Norenskaya
cách Leningrad 350 dặm, và Brodsky có
thể gặp những
người tới thăm ông. Mẹ của ông, hai ông bạn Rein và Naiman đến thăm;
người yêu Basmanova tới, và, ngay cả tình
địch và bạn, là
Bobyshev, cũng tới! (Ông bạn này đến thăm với hy vọng gặp Basmanova).
Brodsky mướn
1 cái lều nhỏ ở trong làng, và tự biên tự diễn, bằng phương tiện của
chính ông,
biến cái lều thành 1 nhà máy điện, và 1 giếng nước, của riêng ông, khi
trong làng
không có. “Trong bốn thế hệ
thì đây
đúng là 1 sự sang trọng, luxury, không thể nghĩ, không thể tin được”,
một vị khách
thăm đã trầm trồ. Brosdky thì tất nhiên rất ư hãnh diện “khoe hàng”,
mỗi lần có
khách thăm viếng. Ông có 1 cái máy đánh chữ, và đọc, rất nhiều, Auden.
Nói
chung thì là, không phải Gulag.
Và giai
thoại, [a dark joke, một câu chuyện khôi hài u ám] của bà chị
và cũng là
nữ thần thi ca Akhmatova, “Câu chuyện tự thuật mà chúng viết về thằng
em của tôi
mới bảnh làm sao”, thì cũng chỉ có một nửa câu chuyện. Sau án tòa,
Brodsky gặp
cơ hội, “trúng mắn”, như Mít nói, và ông xây dựng tiểu sử của chính ông.
Vụ án của ông,
được 1 ký giả can đảm, Frida Vigrodova ghi lại, và liền lập tức trở
thành hàng
chui, samizdat, và được gửi ra nước ngoài, và được dịch ra nhiều ngôn
ngữ [ở Mẽo,
xuất hiện trên tờ The New Leader.]
Một
chiến dịch hợp xướng, do Akhmatova và Jean-Paul Sartre chủ xị, cuối
cùng đưa đến
sự trả lại tự do cho ông. Vào thời gian trở lại Leningrad, cuối năm
1965,
Brodsky đã là 1 nhân vật nổi tiếng toàn thế giới. Như vậy vẫn chưa đã:
Ông phát
triển sâu đậm thơ, "như là nhà thơ". Ông bạn nhà thơ, chôm bạn tình của
ông, thì
sau đó chìm vào quên lãng.
Vào năm
1967, Basmanova sinh cho Brodsky một đấng con trai, và sau đó, hai
người,
anh đi đường anh, tôi đường tôi. Akmatova mất một năm trước đó, để lại
“ban đồng
ca thần kỳ”, đã rã đám, tự nó lo cho nó. Bobyshev
đổi thành những “đứa trẻ mồ côi
của Akhmatova”.
Brodsky tiếp tục làm thơ, đi lòng vòng Liên Xô. Khi đám hàn lâm Tây
phương tới
Leningrad, họ tới thăm ông. Thơ của ông bước vào giai đoạn trưởng
thành, đúng thứ thơ của 1 bậc thầy, a
total mastery.
Many waves have passed since
then.
Ashore my friend was drowned
in his own shallow but still bitter lies; and I set off
on wanderings.
Bao nhiêu con
sóng đã qua đi kể từ đó.
Tràn vô bờ,
bạn tôi chết đuối ở 1 chỗ cạn,
Thê lương nằm
1 đống; và tôi bỏ đi
Lang thang
Và Brodsky vẫn
tiếp tực mơ tả [describe] và nhớ hoài tình của mình dành cho Basmanova.
So long
had life together been that once
the snow began to fall, it seemed unending;
that, lest the flakes should make her eyelids wince,
I’d shield them with my hand, and they, pretending
not to believe that cherishing of eyes,
would beat against my palm like butterflies.
“Six Years
Later,” Sáu năm sau, [bản dịch của Richard
Wilbur]
Dịch “phóng
bút”, và, “ăn theo”:
Cứ mỗi lần
tuyết rơi, là anh lại nhớ em,
và quãng
đời hai đứa mình bên nhau
Nó có vẻ như chẳng bao giờ chấm dứt.
Hãy để những bông tuyết vương mãi trên mi mắt em
[Những bông nước trên mi mắt BHD,
ở cái vòi nước ở
đường PDP,
ngày nào còn Xề Gòn, hà, hà!]
Anh sẽ ôm quơ lấy chúng
Những con bướm nước
Lung linh trong lòng bàn tay của anh
Chẳng có chỗ
cho cả hai, Brodsky và chủ nghĩa
CS, trong cái xứ sở thật rộng lớn đó. Bè lũ VC Nga bực bội với tất cả
những gì Brodsky
làm, [cả đến chuyện đi ị, như nhà thơ NCT đã từng bực, đúng vào ngày
sinh nhật Bác]. Andrei Sergeev, bạn của
Brodsky, sau đó viết: Nhà chức trách không thể làm bất cứ điều chi
ngoài chuyện
bực, với tất cả những gì Brodsky làm, không làm, đi tản bộ loanh quanh,
đứng,
ngồi ở bàn, nằm xuống giường, và ngủ. Brodsky vẫn cố tìm đủ cách xb thơ
của ông,
vô ích. Tới mức, hai ông cớm KGB gật đầu, chúng tao sẽ in thơ của mày,
trên
loại giấy đặc biệt, bản quí, dành cho "bạn quí" của mày, nếu mày đi một
đường báo
cáo về những ông giáo sư, bạn của mi, chỉ là báo cáo xuông, những
chuyện làm xàm
ba láp thôi.
Cũng chẳng có chỗ cho Brodsky ở trong cái phong trào ly khai nhân quyền
nhân kiếc, rân chủ rân kiếc, nhờ vụ án của ông mà trở thành om xòm, nổi
đình nổi
đám. Trường hợp của Brodsky giống của Bob Dylan đối với phong trào sinh
viên ở
Mẽo: rất có cảm tình nhưng, chỉ vậy, kính nhi viễn chi.
Vào đầu
thập niên 1970, bánh xe địa lý chính trị lại quay, và tóm Brodsky cùng
với nó. Trước
đòi hỏi của Tây Phương, hãy thả những tù nhân Do Thái, Brezhnev
bèn “dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa”, nhờ vậy, Brodsky cũng được ăn theo, ông
được nhà
nước cho phép đúng 3 tuần sắp xếp hành lý, và đáp chuyến máy bay đi
Vienna vào mùa Xuân 1972.
Không
giống như đi… Củ Chi [Norenskaya], chuyến này là lưu vong thực sự, và
kéo dài
suốt quãng đời còn lại của ông.
Cuốn này,
nghe nói, xb không có sự đồng ý của Brodsky, và có nhiều chi tiết, sự
kiện không
được chính xác. Tuy nhiên, đọc, thú vô cùng. Cái đoạn KGB bắt Brodsky
trình diện,
năn nỉ ông nạp đơn xin visa xuất ngoại, kiếm bà con dởm cho ông có lý
do để đoàn tụ, thật…
tếu.
The Gift
Trong một tiểu
sử trung thực, thận trọng, quyền uy, Joseph Brodsky: Một đời văn,
“Joseph
Brodsky: A Literary Life” (Yale; $35; Jane Ann Miller dịch từ tiếng
Nga), tác
giả, Lev Loseff, bạn cũ của Brodsky đã nhấn mạnh tới cái sự bỏ học “đi
hoang” của
nhà thơ, với lập luận là, chính cái sự bỏ học này đã khiến nhà thơ
không lâm
vào tình trạng tẩu hoả nhập ma, khi bị nhồi nhét ba cái thứ, thí dụ,
làm toán
thì hôm nay làm thịt được mấy tên Mỹ Ngụy, làm thơ thì đường ra trận
mùa này đẹp
lắm, nói tóm lại, nhờ bỏ học đi làm, Brodsky đã thoát không bị tiêu ma,
ruined,
bởi sự “bội thực học”.
Brodsky cũng
nghĩ như thế. “Sau đó, tôi lấy làm tiếc cho cái sự bỏ học sớm, nhất là
khi thấy
mấy đấng bạn quí leo cao trên những bậc thang xã hội, lặn sâu vào trong
chính
quyền,” ông viết, “Nhưng, tôi hiểu ra một điều mà họ không hiểu được.
Sự thực,
tôi cũng đi tới, đi lên, nhưng ngược chiều với họ, và có vẻ như, vừa đi
ngược
chiều, tôi vừa đi xa hơn họ”.
Cái chiều
ngược này có thể gọi bằng nhiều tên: dưới hầm, chui, samizdat, hay tự
do, hay
Tây Phương.
Loseff mô tả
lần đầu anh nghe Brodsky đọc thơ. Ðó là vào năm 1961. Trước đó ít lâu,
một người
nào đó đưa cho anh một xấp thơ của Brodsky, nhưng đánh máy thật khó đọc
[bản thảo
thơ dưới hầm, thơ chui thường được đánh máy hai ba tờ cùng 1 lượt], và
Loseff
không khoái những dòng thơ lộn xộn như thế. Tôi tìm cách chuồn, anh nhớ
lại.
Nhưng lần đó, cả đám chọn ngay căn phòng của vợ chồng ở để mà đọc thơ,
thế là
thua. Anh bắt dầu đọc bài ballad dài của anh, “Hills,” và Loseff sững
sờ: “Tôi
nhận ra chúng là những bài thơ mà tôi mơ tưởng mình sẽ viết ra được,
ngay cả
chưa từng bao giờ biết đến chúng…. Như thể 1 cánh cửa được mở bung ra
một không
gian mở rộng, một không gian chúng tôi chưa từng biết, hay nghe nói
đến. Chúng
tôi chẳng hề có 1 ý nghĩ, hay tư tưởng, về thơ Nga, ngôn ngữ Nga, ý
thức Nga lại
có thể chứa đụng những không gian như thế.”
Nhiều người
cũng cảm thấy như vậy, khi đọc thơ Brodsky. Một người bạn bị KGB tóm,
nhớ lại
là khi bị chúng hỏi về Brodsky, đã thành khẩn cung khai, trong số tất
cả những
nhà thơ mà anh ta biết, thì Brosky thể nào cũng có ngày ẵm Nobel văn
chương!
Ðó là 1 thời
mà dân Nga đẫm mình trong hào quang ngày mai tươi sáng, chúng ta thể
nào cũng
xây dựng được cái nhà Nga to bằng năm bằng mười khi đánh chết cha lũ Mỹ
Ngụy,
hà hà, và một người nào đó phải ôm lấy tất cả những nghị lực, những hy
vọng lớn
lao, và một người nào đó, là… Brodsky!
[Ui chao, lại
nghĩ đến cái thời kỳ huy hoàng tương tự của cả Miền Nam ngay sau 30
Tháng Tư
1975. GCC khi đó ở trong tù VC, nghe “Con Kinh Ta Ðào” mà nước mắt dàn
dụa vì hạnh
phúc, “thúi” đến như thế, ”sướng” đến như thế!]
Ðiều quan trọng
là thơ của Brodsky thì đương thời và địa phương [contemporary and
local]. Và
cũng còn quan trọng, là, như món nợ đối với chủ nghĩa hiện đại Anh -
Mỹ, chúng
[những bài thơ của Brodsky] nối kết một nhóm nhỏ của những nhà thơ
Leningrad với
thế giới lớn lao.
Nhưng trên tất
cả, tối quan trọng, cực kỳ quan trọng, là, trong
cái sự trung thành sáng tạo đối với truyền
thống hình thức cổ xưa,
lỗi thời, chúng kết nối thế hệ của ông với
những nhà
thơ lớn của quá khứ Nga. Nadezhda
Mandelstam, bà vợ góa
của thi sĩ, tuyên bố Brodsky là một Mandelstam thứ nhì.
Và
rồi vào Tháng Mười 1962, Khrushchev đối đầu với Tông Tông Mẽo Kennedy
về vụ hoả
tiễn Nga ở Cuba, nhắm vô xứ Cờ Huê, và, đụng tên cao bồi hung hãn
quá, Khrushchev
ôm đầu máu bỏ chạy về Liên Xô cùng với giàn hoả tiễn, Người nhè đám
nghệ sĩ quạt
cho đỡ quê: Trong 1 cuộc trưng bày nghệ thuật của đám nghệ sĩ trẻ ở
Moscow, Người
gọi họ là lũ “pê đê”. Thời kỳ Băng Tan chấm dứt. Một năm sau, Brodsky
bị bắt, bị
buộc tội tên ăn bám, ăn hại xã hội, nhà nước nhân dân Nga.
*
Trong giới
trí thức, sau đó, nhiều người tin rằng, do niềm tin [a point of faith],
nếu
không muốn nói, niềm tự hào, nhà nước Liên Xô phát giát ra thiên tài
Brodsky, “sớm” hơn tất cả, khi bắt ông. Trong
một bài
viết về Brodsky, ký giả Mẽo của tờ The New Yorker, David Remnick
[Gấu biết đến
Brodsky là qua bài viết này, vừa đọc xong là đi 1 đường giới thiệu liền
trên tờ
Văn Học của NMG] viết, ngay cả bây giờ, một vài sử gia vẫn còn tự hỏi
tại sao
chính quyền Cộng-sản bắt đầu cuộc thanh trừng bằng cách bắt giữ một nhà
thơ 23
tuổi chưa được nhiều người biết tới. Nhưng đó chỉ là một bí mật đối với
người
nào còn nghi ngờ bản năng của thú dữ khi nhận ra đâu là nguy cơ lớn lao
nhất đối
với chế độ. Và bắt lầm còn hơn bỏ sót.
Tuy nhiên, trong
cuốn tiểu sử về bạn, Loseff đả phá mọi luận cứ như thế. Thực sự, theo
anh, sự
khui ra và đưa đến bắt giữ Brodsky, là từ tay trưởng khóm, hoặc trưởng
phố, hay công an khu vực [the
head of a community-watch group], tay này biết đến tiếng tăm của
Brodsky ở
trong khu vực hắn, dưới quyền uy của hắn.
Chỉ có vậy!
Chỉ là 1 tai
nạn mà chính quyền Liên Xô đã tóm được 1 trong những thiên
tài thi ca
lớn lao nhất của đất nước Nga, của ngôn ngữ Nga!
Vụ án, ra toà
của Brodsky gồm hai đợt, cách nhau vài tuần lễ, vào Tháng Hai và Tháng
Ba 1964,
và giữa hai lần, Brodsky nằm nhà thương tâm thần, ở đó, ông được giới y
sĩ
nhà nước chứng nhận, chẳng bịnh tật gì hết, dư sức ra tòa, nhận án. Vụ
án là trò
hề, án tòa thì đã có sẵn, trước khi có vụ án, và có cái tên là “Vụ án
tên ăn hại,
ăn bám Brodsky”, như cái biển gắn bên ngoài phòng luận tội.
Bên trong, tất cả đám
nhà nước, ông tòa, những người đại diện nhân dân Nga, chẳng ai quan
tâm, hoặc có
tí hiểu biết, hay đã từng đọc thơ của ông. Brodsky khi đó chưa in thơ,
và sống
bằng việc dịch dọt, đám người buộc tội muốn biết, làm sao ông có tiền,
và liệu ông
có lợi dụng những người cộng sự của ông. Họ muốn biết dịch có phải là 1 nghề không, nếu nó đem đến tí ti, hoặc chẳng
1 tí ti tiền:
Nhân dân buộc
tội số 1:
Chúng tôi đã
kiểm tra, Brodsky nói, hắn ta có được 150 rúp từ 1 công việc làm, nhưng
thực sự
chỉ có 37 rúp.
Brodsky:
Ðó
là tiền a-văng, tiền đưa trước, tiền đặt cọc [hiểu chưa thằng ngu!]
Ông khi đó
chưa được 24 tuổi đầu, hà, hà!
Rein, bạn của
Brodsky nhớ lại, đợt ra tòa lần thứ nhì rơi đúng vào dịp lễ Maslenitsa,
hay Butter Week, lễ truyền thống đợp bánh pancake, và hậu
quả là, vào đúng ngày tòa xử, Rein cùng đám bạn rủ nhau tới khách sạn
làm 1 chầu,
và tới 4 giờ cả bọn kéo tới tòa án. Chẳng đấng bạn nào ngửi ra cái mùi
trầm trọng
của sự kiện.
Nhưng Brodsky
thì lại ngửi ra. Suốt thời gian của vụ án ngắn ngủi, ông tỏ ra nghiêm
trọng,
serious, trầm lặng, kính nể, respectful, và chắc chắn, vững như bàn
thạch, về cái
điều, ông được sinh ra là để “deal” với 1 trường hợp như thế:
Ông Tòa: Hãy
trả lời trước Tòa, tại làm sao giữa những cái jobs, anh không làm việc
mà lại dông
dài sống như 1 tên ăn hại?
Brodsky: Tôi
làm việc giữa những cái jobs chứ. Tôi làm cái điều mà tôi làm: Tôi làm
thơ.
Anh viết “cái
mà” anh gọi là thơ? Thế thì anh có làm cái gì tỏ ra có ích giữa những
lần thay đổi
liên tục những cái jobs của anh?
Brodsky: Tôi
bắt đầu làm việc khi 15 tuổi. Cái gì thì cũng thích thú đối với tôi,
nghĩa là,
tôi quan tâm đến mọi cái gì. Tôi thay đổi việc làm là vì tôi biết, muốn
học nhiều
về cuộc đời, về mọi người.
Anh làm cái
gì cho Ðất Mẹ?
Tôi làm thơ.
Ðó là công việc của tôi. Tôi tin tưởng… Tôi tin rằng cái mà tôi viết
thì có ích
cho mọi người không chỉ bây giờ mà còn cho thế hệ tương lai.
Như vậy là
theo anh, cái mà anh gọi là thơ đó thì có ích cho mọi người?
Tại làm sao
mà ông gọi thơ của tôi là “cái gọi là”?
Tòa gọi như
thế, vì Tòa đếch biết cái mà anh làm đó là cái chó gì!
Cái
đoạn David Remnick, ký giả Mẽo của tờ Người
Nữu Ước viết về
Brodsky ra tòa mới thật là tuyệt vời, và nhìn ra được vai trò của ông,
sinh ra
là để đóng cái vai của mình, dù đếch có muốn.
Nên nhớ, Brodsky rất tởm đóng vai
nhà văn, nhà thơ, tuẫn nạn, tuẫn niếc, [Đối với ông, chỉ là thi ca,
không phải anh hùng
ca. Remnick], nhưng nếu Ông Giời khốn kiếp bắt
ta đóng,
thì ta sẽ đóng, và đóng 1 cách tuyệt hảo.
Bởi thế mà bài viết của Remick mới có cái
tít Ðỉnh Cao Tuyệt Hảo, Perfect Pitch, và khi được in vô
sách, cuốn sách có tiểu tít
là “vấn đề cái ác” của thế kỷ. Ông viết:
Có nhiều nhà
thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh
ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay
lập tức
anh hiểu trách nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người
riêng tư,
nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu
tượng quốc
gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà
thơ, năm
1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ.
Nhưng
ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Thế đấy.
Theo nghĩa thế đấy, cái vai tuyệt vời
mà Ông Giời dành cho thi sĩ mê gái HC, là, khi bị Tố Hữu bắt viết tự
kiểm, thì
bèn phán, ông đếch viết, được không.
Của ông Nobel Toán, là cầm cái bửu bối dí
vào Lăng Bác, hô, biến!
Cái gì gì, "Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư", Cao
Bá
Quát phán, là cũng theo nghĩa đó: Trời sinh ra hào kiệt không phải để
thối nát
ra, như ông HC, như ông NBC.
Trời sinh ra
GCC là để mê… BHD, nhưng khi
rảnh rang thì lèm bèm về Cái Ác
Bắc Kít!
Việc nào ra việc đó!
Hà, hà!
The Gift
Không ngừng
cựa quậy, làm thợ được 6 tháng, nghỉ. Trong vòng 7 năm tiếp theo cho
tới khi bị
nhà nước tóm, ông làm việc ở 1 hải đăng [light-house], một phòng thí
nghiệm
crystallography, 1 nhà xác. Ông cũng đi lêu bêu, hút thuốc, và đọc
sách. Du lịch
lòng vòng Liên Xô, tham dự những cuộc thám hiểm địa chất, đào bới đất
nước tìm
dầu hôi, khoáng sản. Ðêm đêm, giữa những nhà địa chất ngồi quanh
một đống lửa, họ hát hỏng, đọc thơ, gẩy ghi ta. Ðọc 1 tập thơ về đề tài
địa
chất,
Brodsky tự nhủ thầm, nếu mình làm, chắc chắn sẽ khá hơn. Một trong
những bài thơ
đầu đời của ông, “Pilgrims” [những kẻ hành hương], chẳng mấy chốc trở
thành “top
hit” của lửa trại.
Trọn 1 đất nước
trở nên khùng vì thơ; nó trở thành trung tâm của 1 không khí của một
nước Nga, thời Băng Tan dưới sự trị vì của Khrushchev. Vào năm 1959,
như một nhắc
nhở quá khứ oai hùng, một bức tượng của Vladimir Mayakovsky được dựng
lên ở
trung tâm Moscow, và chẳng mấy chốc, đám trẻ tuổi quây quần quanh bức
tượng, đọc
thơ của chính họ. Vào đầu thập niên 1960 một nhóm nhà thơ khởi xướng
cái trò đọc
thơ, và có nhiều thính giả tham dự, tại Viện Bảo Tàng Polytechnic ở
Moscow,
tọa lạc chéo góc với Tổng Hành Dinh của KGB. Có 1 cuốn phim về 1 trong
những buổi
tụ tập như thế, và, chỉ là đọc thơ thôi, và toàn thứ thơ tự phát, bán
chính thức,
tất nhiên dở òm, nhưng không khí như bị điện giật!
Một đám đông tụ tập, và trước
đám đông, là 1 ông tướng cà chớn nào đó, đang lèm bèm về mình: đó là
cái mới [đúng
ý Thầy Cuốc nhe!]
Ðường phố
Leningrad cà mèng, nhưng Brodsky và mấy đấng bạn thân - Bobyshev, Anatoly Naiman, và Evgeny Rein, “dàn
đồng ca thần kỳ” – tóm lấy
chúng mỗi khi dịp. Bobyshev, trong hồi ký của mình nhớ lại,
Brodsky kéo anh
tới mép bờ của thành phố để anh ta có thể đọc thơ cho vài nhóm sinh
viên. Bobyshev bỏ cuộc vui sớm nhất.
Nếu nói về
thơ ca “mà thôi”, thì, như Loseff phán, 1 cách tin tưởng, những bài thơ
hồi đầu
- trước khi Brodsky bị bắt – không đều, thất thường, đôi khi đi trật
đường rầy,
chạy hoang, theo cái kiểu, thơ “phát sinh ra” từ thơ, chứ không phải
đích thị là
thơ [derivative]. Nhưng ngay từ khởi đầu, Brodsky là 1 trong số họ,
viết một cách tâm sự, vậy mà đọc thì lại có cảm tưởng, nhà thơ đang
miêu tả một hiện tượng toàn xã hội. Những bài thơ thì lãng mạn, mỉa
mai, đương
thời [nhưng không cố tình miêu tả]. Có sự kéo dài dòng thơ Eliot, và có
cảm giác
ngạc nhiên khi nhịp thơ, thể thơ được gìn giữ, rõ ràng có ảnh hưởng của
những
nhà thơ siêu hình Anh, khi họ lồng tình yêu thơ ca với những băn khoăn
siêu hình,
triết học – trong trường hợp Brodsky, luôn lèm bèm về thời gian và
không gian.
Tìm những kẻ tương đương, đồng hạng trong tiếng Anh,
Robert Hass viết, thơ Brodsky nghe “như Robert
Lowell khi mà Lowell thì
nghe như Byron.” Như là 1 hình tượng
văn hóa Nga, thì Brodsky có thể so sánh với Allen Ginsberg (với ông
này, sau này
Brodsky đã từng kéo nhau đi shopping, mua sắm quần áo cũ, ở New
York. “Allen mua 1 cái tuxedo jacket 5 đô", Brodky kể cho Loseff, và
ông này ngạc
nhiên tại sao 1 tay beatnik mà lại cần 1 bộ đồ vía]. Với Ginsberg và
bạn
bè của ông, tự do có nghĩa phá vỡ biên cương, lề luật của dòng thơ
truyền thống;
với Brodsky và bạn bè thì lại là tái lập truyền thống bị Xì Ta Lỉn cố
gắng huỷ
diệt, biến thành hư vô. Brodsdy có thể
kiếm ra những cách gây ngạc nhiên để làm điều trên, mà chẳng có tí cố
gắng cực
nhọc nào cả, và luôn luôn giữ được vẻ dửng dưng, nhẹ nhàng. Những bài
thơ đầu đời của ông miêu tả một tay
kể chuyện đi bộ về nhà từ ga xe lửa, đi lòng vòng những nơi chốn của
một thành
phố Leningrad cổ vẫn ám ảnh anh ta, hay là
kẻ thứ ba
của 1 cặp đang cãi lộn, gầm gừ lẫn nhau, và nghĩ về mình, chắc là
đừng dính vào em nào, độc thân là hay nhất; bài thơ này nhan đề “Dear D. B.,” Dmitry
Bobyshev, khi đó đang lục đục với bà vợ.
Loseff mô
tả
lần đầu anh nghe Brodsky đọc thơ. Ðó là vào năm 1961. Trước đó ít lâu,
một người
nào đó đưa cho anh một xấp thơ của Brodsky, nhưng đánh máy thật khó đọc
[bản thảo
thơ dưới hầm, thơ chui thường được đánh máy hai ba tờ cùng 1 lượt], và
Loseff
không khoái những dòng thơ lộn xộn như thế. Tôi tìm cách chuồn, anh nhớ
lại. Nhưng
lần đó, cả đám chọn ngay căn phòng của vợ chồng ở để mà đọc thơ, thế là
thua.
Anh bắt dầu đọc bài ballad dài của anh, “Hills,” và Loseff sững sờ:
“Tôi nhận
ra chúng là những bài thơ mà tôi mơ tưởng mình sẽ viết ra được, ngay cả
chưa từng
bao giờ biết đến chúng…. Như thể 1 cánh cửa được mở bung ra một không
gian mở rộng,
một không gian chúng tôi chưa từng biết, hay nghe nói đến. Chúng tôi
chẳng hề có
1 ý nghĩ, hay tư tưởng, về thơ Nga, ngôn ngữ Nga,
ý thức Nga lại có thể chứa đụng những không
gian như thế.”
Nhiều người
cũng cảm thấy như vậy, khi đọc thơ Brodsky. Một người bạn bị KGB tóm,
nhớ lại
là khi bị chúng hỏi về Brodsky, đã thành khẩn cung khai, trong số tất
cả những
nhà thơ mà anh ta biết, thì Brosky thể nào cũng có ngày ẵm Nobel văn
chương!
Ðó
là 1 thời mà dân Nga đẫm mình trong hào quang ngày mai tươi sáng, chúng
ta thể
nào cũng xây dựng được cái nhà Nga to bằng năm bằng mười khi đánh chết
cha
lũ Mỹ Ngụy, hà hà, và một người nào đó phải ôm lấy tất cả những nghị
lực, những
hy vọng lớn lao, và một người nào đó, là… Brodsky!
[Ui chao, lại
nghĩ đến cái thời kỳ huy hoàng tương tự của cả Miền Nam ngay sau 30
Tháng Tư
1975. GCC khi đó ở trong tù VC, nghe “Con Kinh Ta Ðào” mà nước mắt dàn
dụa vì hạnh
phúc, “thúi” đến như thế, ”sướng” đến như thế!]
Ðiều quan
trọng
là thơ của Brodsky thì đương thời và địa phương [contemporary and
local]. Và cũng
còn quan trọng, là, như món nợ đối với chủ nghĩa hiện đại Anh - Mỹ,
chúng [những
bài thơ của Brodsky] nối kết một nhóm nhỏ của những nhà thơ Leningrad
với thế
giới lớn lao.
Brodsky sinh
Tháng Năm 1940, một năm trước khi Nazi xâm lăng Nga. Bà mẹ làm kế toán,
cha,
nhiếp ảnh viên cho Viện Bảo Tàng Hải Quân ở Leningrad khi Brodsky còn
nhỏ, và là
đứa con độc nhất của hai vợ chồng thực yêu thương nhau, và được đứa
con thực thương
yêu.
Leningrad chịu
đựng đau thương tổn thất nặng nề trong thời kỳ chiến tranh, không thực
phẩm, không
khí đốt, hơi nóng. Một bà cô, hay bà thím gì đó, an aunt, của họ, chết
đói.
Những năm liền
sau khi chiến tranh chấm dứt, ngay cả khi Stalin tổng động viên cả nước
cho Cuộc
Chiến Lạnh, vết thương chiến tranh thì vẫn sờ sờ trước mắt. “Chúng tôi
vô lớp,
và mặc dù ba cái thứ rác rưởi, Hà Nội ta ngửng đầu cao tới Giời, thì
những đau
thương, nghèo khổ, tang tóc vẫn dày đặc chung quanh chúng tôi,” Brodsky
viết. “Bạn
không thể che chắn đổ nát, điêu tàn bằng 1 tờ báo Quân Ðội Nhân Dân” [Pravda: Sự Thật].
Ông là 1 học trò không
hứng khởi, bị ở lại, năm học lớp 7. Khi ông bô bà bô bắt đầu cuộc khủng
khoảng
tài chính, nghĩa là đếch cho tiền mua gạo – ông bô mất việc tại Viện
Bảo Tàng khi xẩy ra chiến dịch của Stalin, chiến dịch sau cùng trước
khi
đi tầu suốt,
nhắm vào người Do Thái – Iosif, 15 tuổi, bèn bye bye lớp học, kiếm 1
chân thợ,
tại một nhà máy.
Trong một tiểu
sử trung thực, thận trọng, quyền uy, Joseph Brodsky: Một đời văn, “Joseph
Brodsky: A Literary Life” (Yale; $35; Jane Ann Miller dịch từ
tiếng Nga), tác
giả, Lev Loseff, bạn cũ của Brodsky đã nhấn mạnh tới cái sự bỏ học “đi
hoang” của
nhà thơ, với lập luận là, chính cái sự bỏ học này đã khiến nhà thơ
không lâm vào
tình trạng tẩu hoả nhập ma, khi bị nhồi nhét ba cái thứ, thí dụ, làm
toán thì hôm nay làm
thịt được mấy tên Mỹ Ngụy, làm thơ thì đường ra trận mùa này đẹp lắm,
nói tóm lại,
nhờ bỏ học đi làm, Brodsky đã thoát không bị tiêu ma, ruined, bởi sự
“bội thực
học”.
Brodsky cũng
nghĩ như thế. “Sau đó, tôi lấy làm tiếc cho cái sự bỏ học sớm, nhất là
khi thấy
mấy đấng bạn quí leo cao trên những bậc thang xã hội, lặn sâu vào trong
chính
quyền,” ông viết, “Nhưng, tôi hiểu ra một điều mà họ không hiểu được.
Sự thực,
tôi cũng đi tới, đi lên, nhưng ngược chiều với họ, và có vẻ như, vừa đi
ngược
chiều, tôi vừa đi xa hơn họ”.
Cái chiều ngược
này có thể gọi bằng nhiều tên: dưới hầm, chui, samizdat, hay tự do, hay
Tây Phương.
[Thiếu từ “di tản” của NN & NMG & NXH!]
Your voice,
your body, your name
mean nothing to me now. No one destroyed them.
It’s just that, in order to forget one life, a person needs to live
at least one other life. And I have served that portion.
Tiếng nói
của em, thân thể của em, tên của em
chẳng nghĩa gì với anh bây giờ.
Chẳng ai tiêu huỷ nó.
Ðúng ra là như vầy:
Ðể quên 1 đời thì ít nhất cần 1 đời khác.
Anh thử cú đó rồi.
Brodsky sinh tháng Năm 1940,
trước
khi Nazi xâm lăng Nga. Bà mẹ làm kế toán viên, cha nhiếp ảnh viên làm
cho Bảo Tàng
Viện Hải Quân Leningrad khi Brodsky còn nhỏ. Bố mẹ rất thương yêu nhau và được ông con trai
độc nhất, Iosif
Brodsky, rất thương.
Leningrad chịu
mất mát, thương đau khủng khiếp trong thời gian chiến
tranh - bị vây hãm hơn hai năm trời bởi quân dội Nazi, thiếu hụt thực
phẩm, hơi đốt. Một bà cô của họ chết đói. Liền những năm sau chiến
tranh, và,
ngay cả khi Stalin động viên
toàn đất nước cho Cuộc Chiến Lạnh, vết thương chiến tranh thì vẫn bày
ra trước
mắt. "Bạn không thể lấy trang báo Sự
Thực che lên được”, Brodsky viết. Ông là
1 học sinh “không hứng khởi”, bị giữ lại ở lớp bẩy. Và khi cha mẹ gặp
khó khăn
về tiền bạc – ông bố mất job ở Bảo Tàng Viện Hải Quân trong chiến dịch
bài Do
Thái của Stalin vào lúc chót đời - Iosif, lúc đó 15, bèn bye bye trường
lớp, và
kiếm 1 chân làm ở 1 xưởng thợ.
Note: The
Gift: Món quà tặng, Thiên bẩm, Thiên phú...
Vào
mùa đông năm 1963, ở Leningrad, ở cái xứ còn có tên là Liên Bang Xô
Viết, nhà
thơ trẻ Dmitry Bobyshev chôm cô bạn gái của bạn mình, cũng nhà thơ trẻ,
Joseph
Brodsky.
Đếch ra cái chó gì cả, nhỉ.
Hai đấng thi sĩ trẻ lại rất thân.
Họ thường xuất hiện theo vần abc, ở những buổi đọc thơ công cộng lòng
vòng
trong thành phố. Bobyshev khi đó, hăm bảy, mới tan tác với bà vợ;
Brodsky hăm
ba, lúc có việc làm, lúc không. Cùng với hai nhà thơ trẻ khác, cũng
tràn trề hứa
hẹn, họ tạo thành ban “đồng ca huyền ảo”, như cái nick bè bạn và bà
chị, nhà
thơ đỡ đầu Akhmatova ban cho. Nữ thần thi ca Nga, hiện đang còn sống
vào lúc
đó, tin tưởng, họ đại diện cho cái sự trẻ măng, và làm mới truyền thống
thi ca
Nga, sau những năm tháng đen tối dưới thời Stalin. Khi được hỏi, ai
trong số những
nhà thơ đó được ái mộ nhất, bà nêu tên đúng hai mạng: Bobyshev và
Brodsky.
Ðám trẻ Xô Viết cảm nhận thập niên 1960 nặng nề hơn, sâu thẳm hơn, so
với đám
trẻ cùng tuổi với họ, ở Mẽo, hay ở Tây, bởi vì, trong khi Suy Thoái và
Ðô Hộ
thì tệ hại, nhưng làm sao tệ hại bằng chủ nghĩa Stalin. Sau khi Stalin
chết,
Liên Xô lại ngáp ngáp về phía thế giới. Lệnh cấm nhạc Jazz được bãi bỏ.
Ernest
Hemingway được xb, Bảo tàng viện Pushkin ở Moscow chủ trì cuộc trưng
bày tranh
Picasso. Vào năm 1959, Moscow cho mở hội chợ trưng bày thực phẩm, hàng
hoá Mẽo,
và, cha tôi, cũng 1 thành viên của thế hệ đó, lần đầu tiên được biết
mùi Pepsi
thơm như thế nào.
Mùi bướm được giải phóng, nhưng kiếm ở đâu ra bi giờ?
Giả như kiếm ra thì biết đưa đi đâu để mà hú hí?
Y chang xứ Bắc Kít, nhân dân Nga sống với bố mẹ, và bố mẹ, đến lượt họ,
sống với
những đấng bố mẹ khác ở trong những căn phòng chung. “Chúng tôi chẳng
bao giờ
có 1 căn phòng riêng để mà lùa gái, dụ gái, và ghệ, thì cũng thế, cũng
chẳng có
phòng riêng,” Brodsky viết, khi đã may mắn lưu vong xứ người, tức là ở
Mẽo. Ông
có 1 nửa căn phòng, ngăn cách với căn phòng của bố mẹ bằng những kệ
sách, [độc
giả TV biết điều này rồi, qua bài viết, căn phòng rưỡi].
“Những cuộc
tình của chúng tôi thì hầu hết là đi bộ, tán bộ, nếu tính ra, thì có
thể đi bộ
tới mặt trăng, rồi lại trở về, ai về nhà người đó.”
Người đàn bà mà Brodsky đi bộ cùng em tới mặt trăng, rồi ai về nhà
người đó,
trong hai năm trời, người đàn bà làm tan tác ban đồng ca thần kỳ, là
Marina
Basmanova, một nữ họa sĩ trẻ. Người cùng thời với em, miêu tả em, im
lặng “thần
kỳ”, và đẹp. Brodsky dâng tặng em những vần thơ Nga, mãnh liệt nhất,
của mình.
“Anh chỉ là anh khi lòng bàn tay của em đụng vô, trên cái thân thể trần
tục của
anh đó, em đặt đầu của em lên, trong đêm đen, điếc, anh thực sự mù lòa,
Em, hiện
ra, rồi lấp ló đâu đó, dạy anh nhìn.”
Liền lập tức, tập thể, nghĩa là toàn băng nhóm, lên án Bobyshev. Không
phải vì
vụ chôm này – ai mà không chôm, ngu sao mà không chôm? – nhưng bởi là
vì khi
Bobyshe săn đuổi bồ của bạn thì nhà nước VC Nga, cùng lúc, săn đưổi
Brodsky.
Tháng 11, 1963, một bài viết xuất hiện trên 1 tờ báo địa phương nhục mạ
Brodsky, bộ đồ anh mặc, mái tóc đỏ anh mang, ý tưởng văn học, những bài
thơ của
anh, mặc dù 7 trích dẫn thơ của Brodsky, thì 3 là của Bobyshev. Ai thì
cũng ngửi
ra, bài viết là khúc dạo đầu cho cú bắt sau đó, và bạn bè năn nỉ
Brodsky chuồn
đi Moscow, đợi cho tình hình lắng dịu hãy mò về. Họ còn đề xuất, hay là
lặn vô
1 nhà thương tâm thần, như là 1 bệnh nhân, cái này coi bộ được đấy, hà,
hà!
Thế là Brodsky trải qua Tân Niên trong nhà thương, và sau đó, năn nỉ
xin được
trả về đời. Vừa mới về đời, thì Brodsky nghe được tin khủng, cô bạn
thân thương
của mình mừng Tân Niên với bạn thân cũng của mình, tại túp lều tranh
của một
người bạn. Brodsky mượn được 12 rúp, mua vé xe lửa tới Leningrad. Chàng
đối mặt
tình địch. Chàng đối mặt người yêu, và chưa kịp thoi cho một cú thì đã
bị VC
Nga tóm, tống vô tù. Vụ án sau đó biến chàng thành khuôn mặt nổi cộm
thế giới,
và án tòa, lưu đầy nội xứ tại Bắc Hải.
In his
autobiographical journeying Brodsky never reached the 1960s, the time
of his
notorious trial on charges of social parasitism and his sentencing to
corrective labor in the Russian far north. This silence was, in all
likelihood,
deliberate: a refusal to exhibit his wounds was always one of his more
admirable traits ("At all costs try to avoid granting yourself the
status
of the victim," he advises an audience of students; On Grief, p. 144).
Coetzee: Joseph
Brodsky
Như Coetzee
viết, một trong những nét đẹp nhất của Brodsky “mình ên”, là không bao
giờ khoe
khoang những vết thương của mình. Ông gần như chẳng bao giờ nhắc tới
thời gian
đi tù. Nhưng đây là quãng đời đẹp nhất của chàng, qua bài viết cho thấy.
Y chang GCC, và những ngày ở tù VC ở nông trường Ðỗ Hòa!
Your voice,
your body, your name
mean nothing to me now. No one destroyed them.
It’s just that, in order to forget one life, a person needs to live
at least one other life. And I have served that portion.
Tiếng nói
của em, thân thể của em, tên của em
chẳng nghĩa gì với anh bây giờ.
Chẳng ai tiêu huỷ nó.
Ðúng ra là như vầy:
Ðể quên 1 đời thì ít nhất phải cần 1 đời khác.
Anh thử cú đó rồi.
Brodsky viết
về người yêu cũ của chàng.
Thua xa Gấu.
Gấu chỉ 1 đời.
In his
autobiographical journeying Brodsky never reached the 1960s, the time
of his
notorious trial on charges of social parasitism and his sentencing to
corrective labor in the Russian far north. This silence was, in all
likelihood,
deliberate: a refusal to exhibit his wounds was always one of his more
admirable traits ("At all costs try to avoid granting yourself the
status
of the victim," he advises an audience of students; On Grief, p. 144).
Coetzee: Joseph
Brodsky
Vào
mùa đông năm 1963, ở Leningrad, ở cái xứ còn có tên là Liên Bang Xô
Viết, nhà
thơ trẻ Dmitry Bobyshev chôm cô bạn gái của bạn mình, cũng nhà thơ trẻ,
Joseph
Brodsky.
Đếch ra cái chó gì cả, nhỉ.
Hai đấng thi sĩ trẻ lại rất thân.
Họ
thường xuất hiện theo vần abc, ở những buổi đọc thơ công cộng lòng
vòng trong
thành phố. Bobyshev khi đó, hăm bảy, mới tan tác với bà vợ; Brodsky hăm
ba, lúc có việc làm, lúc không. Cùng với hai nhà thơ trẻ khác, cũng
tràn trề
hứa hẹn, họ tạo thành ban “đồng ca huyền ảo”, như cái nick bè
bạn và bà
chị, nhà thơ đỡ đầu Akhmatova ban cho. Nữ thần thi ca Nga, hiện đang
còn sống
vào lúc đó, tin tưởng, họ đại diện cho cái sự trẻ măng, và làm mới
truyền thống
thi ca Nga, sau những năm tháng đen tối dưới thời Stalin. Khi
được hỏi,
ai trong số những nhà thơ đó được ái mộ nhất, bà nêu tên đúng hai
mạng:
Bobyshev và Brodsky.
Ðám
trẻ Xô Viết cảm nhận thập niên 1960 nặng nề hơn, sâu thẳm hơn, so với
đám trẻ cùng
tuổi với họ, ở Mẽo, hay ở Tây, bởi vì, trong khi Suy Thoái và Ðô Hộ thì
tệ hại,
nhưng làm sao tệ hại bằng chủ nghĩa Stalin. Sau khi Stalin chết, Liên
Xô lại ngáp
ngáp về phía thế giới. Lệnh cấm nhạc Jazz được bãi bỏ. Ernest Hemingway
được
xb, Bảo tàng viện Pushkin ở Moscow chủ trì cuộc trưng bày tranh
Picasso. Vào năm
1959, Moscow cho mở hội chợ trưng bày thực phẩm, hàng hoá Mẽo, và, cha
tôi, cũng
1 thành viên của thế hệ đó, lần đầu tiên được biết mùi Pepsi thơm
như thế nào.
Mùi
bướm được giải phóng, nhưng kiếm ở đâu ra bi giờ?
Giả
như kiếm ra thì biết đưa đi đâu để mà hú hí?
Y chang xứ Bắc
Kít, nhân dân Nga sống với bố mẹ, và bố mẹ, đến lượt họ, sống với những
đấng bố
mẹ khác ở trong những căn phòng chung. “Chúng tôi chẳng bao giờ có 1
căn phòng
riêng để mà lùa gái, dụ gái, và ghệ, thì cũng thế, cũng chẳng có phòng
riêng,”
Brodsky viết, khi đã may mắn lưu vong xứ người, tức là ở Mẽo. Ông có 1
nửa căn
phòng, ngăn cách với căn phòng của bố mẹ bằng những kệ sách, [độc giả
TV biết điều
này rồi, qua bài viết, căn phòng rưỡi]. “Những cuộc tình của
chúng tôi
thì hầu
hết là đi bộ, tán bộ, nếu tính ra, thì có thể đi bộ tới mặt
trăng, rồi lại trở
về, ai
về nhà người đó.”
Người đàn bà
mà Brodsky đi bộ cùng em tới mặt trăng, rồi ai về nhà người đó, trong
hai năm
trời, người đàn bà làm tan tác ban đồng ca thần kỳ, là Marina
Basmanova, một nữ
họa sĩ trẻ. Người cùng thời với em, miêu tả em, im lặng “thần kỳ”, và
đẹp. Brodsky
dâng tặng em những vần thơ Nga, mãnh liệt nhất, của mình. “Anh chỉ là
anh khi lòng
bàn tay của em đụng vô, trên cái thân thể trần tục của anh đó, em đặt
đầu của
em lên, trong đêm đen, điếc, anh thực sự mù lòa, Em, hiện ra, rồi lấp
ló đâu đó,
dạy anh nhìn.”
Liền lập tức,
tập thể, nghĩa là toàn băng nhóm, lên án Bobyshev. Không phải vì vụ
chôm này –
ai mà không chôm, ngu sao mà không chôm? – nhưng bởi là vì khi Bobyshe săn đuổi bồ của
bạn thì nhà nước VC Nga, cùng lúc, săn đưổi Brodsky.
A Note on
Brodsky and Ukraine
The Gift
Joseph
Brodsky and the fortunes of
misfortune.
by
Keith Gessen
May 23, 2011
.
Note: Bài
này, cái tít ở trang bìa, báo giấy, thú hơn nhiều: Bạn và người yêu của Joseph
Brodsky.
Câu mở ra bài viết cũng thú:
Vào mùa
đông
năm 1963, ở Leningrad, ở cái xứ còn có tên là Liên Bang Xô Viết, nhà
thơ trẻ Dmitry
Bobyshev chôm cô bạn gái của bạn mình, cũng nhà thơ trẻ, Joseph
Brodsky.
Đếch ra cái chó gì cả,
nhỉ.
Hai đấng thi sĩ trẻ lại rất thân.
Brodsky
experienced all the struggles of his generation on his own hide, as the
Russians say. His exile was no exception. Photographed, in 1980, by
Irving
Penn.
In
the fall of 1963, in
Leningrad, in what was then the Union of Soviet Socialist Republics,
the young
poet Dmitry Bobyshev stole the young poet Joseph Brodsky’s girlfriend.
This was
not cool. Bobyshev and Brodsky were close friends. They often appeared,
in
alphabetical order, at public readings around Leningrad. Bobyshev was
twenty-seven and recently separated from his wife; Brodsky was
twenty-three and
intermittently employed. Along with two other promising young poets,
they’d
been dubbed “the magical chorus” by their friend and mentor Anna
Akhmatova, who
believed that they represented a rejuvenation of the Russian poetic
tradition
after the years of darkness under Stalin. When Akhmatova was asked
which of the
young poets she most admired, she named just two: Bobyshev and Brodsky.
The young
Soviets felt the sixties even more deeply than their American and
French
counterparts, for, while the Depression and the Occupation were bad,
Stalinism
was worse. After Stalin died, the Soviet Union began inching toward the
world
again. The ban on jazz was lifted. Ernest Hemingway was published; the
Pushkin
Museum in Moscow hosted an exhibit of the works of Picasso. In 1959,
Moscow
gave space to an exhibition of American consumer goods, and my father,
also a
member of this generation, tasted Pepsi for the first time.
The libido
had been liberated, but where was it supposed to go? People lived with
their
parents. Their parents, in turn, lived with other parents, in what were
known
as communal apartments. “We never had a room of our own to lure our
girls into,
nor did our girls have rooms,” Brodsky later wrote from his American
exile. He
had half a room, separated from his parents’ room by bookshelves and
some
curtains. “Our love affairs were mostly walking and talking affairs; it
would
make an astronomical sum if we were charged for mileage.” The woman
with whom
Brodsky had been walking and talking for two years, the woman who broke
up the
magical chorus, was Marina Basmanova, a young painter. Contemporaries
describe
her as enchantingly silent and beautiful. Brodsky dedicated some of the
Russian
language’s most powerful love poetry to her. “I was only that which /
you
touched with your palm,” he wrote, “over which, in the deaf,
raven-black /
night, you bent your head. . . . / I was practically blind. / You,
appearing,
then hiding, / taught me to see.”
Almost
unanimously, people in their circle condemned Bobyshev. Not because of
the
affair—who didn’t have affairs?—but because, as soon as Bobyshev began
to
pursue Basmanova, Brodsky began to be pursued by the authorities. In
November,
1963, an article appeared in the local paper insulting Brodsky, his
trousers,
his red hair, his literary pretensions, and his poems, although of the
seven
quotations offered as examples of Brodsky’s poetry, three were by
Bobyshev. Everyone
recognized this sort of article as a prelude to an arrest, and
Brodsky’s
friends insisted that he go to Moscow to wait things out. They further
insisted
that he check himself into a mental hospital, in case a determination
of some
form of psychosis could help him plead his case. Brodsky met the New
Year in
the hospital, then begged to be released. Upon getting out, he learned
that
Bobyshev and Basmanova had been together on New Year’s at a friend’s
dacha.
Brodsky borrowed twelve rubles for train fare and raced up to
Leningrad. He
confronted Bobyshev. He confronted Basmanova. Before he could get much
further,
he was thrown in jail. The subsequent trial launched the Soviet
human-rights
movement, turned Brodsky into a world-famous figure, and resulted in
his
eventual exile from the U.S.S.R.
Brodsky was born in
May,
1940, a year before the German invasion. His mother worked as an
accountant;
his father was a photographer and worked for the Navy Museum in
Leningrad when
Brodsky was young. They were doting parents and much beloved by Iosif
Brodsky,
who was their only child.
Leningrad suffered
terribly
during the war—it was blockaded for more than two years by the Germans,
deprived of food and heat. An aunt starved to death. In the immediate
postwar
years, even as Stalin mobilized the country for the Cold War, the
damage was
plain to see. “We entered schools, and whatever elevated rubbish we
were taught
there, the suffering and poverty were visible all around,” Brodsky
wrote. “You
cannot cover a ruin with a page of Pravda.” He was an
uninspired
student, held back in the seventh grade. When his parents started
having
financial trouble—his father lost his Navy job during Stalin’s
late-life
campaign against the Jews—Iosif, fifteen, dropped out and went to work
in a
factory.
In a loyal,
scrupulous, and
authoritative biography, “Joseph Brodsky: A Literary Life” (Yale; $35;
translated from the Russian by Jane Ann Miller), Brodsky’s old friend
Lev
Loseff puts a great deal of emphasis on his subject’s decision to drop
out of
school, arguing that it prevented Brodsky from being ruined by over
schooling.
Brodsky thought so, too. “Afterward I often regretted that move,
especially
when I saw my former classmates getting on so well inside the system,”
he
wrote. “And yet I knew something that they didn’t. In fact, I was
getting on
too, but in the opposite direction, going somewhat further.” The
direction he
was going could be called, variously, underground, or samizdat, or
freedom, or
the West.
He was restless. He
left
the factory job after six months. Over the next seven years, until his
arrest,
he worked at a lighthouse, a crystallography lab, and a morgue; he also
hung
about, smoking cigarettes and reading books. He travelled around the
Soviet
Union, taking part in “geological” expeditions, helping the rapidly
industrializing Soviet government comb the vast country for mineral
wealth and
oil. At night, the geologists would gather around the campfire and play
songs
on their guitars—often poetry set to music—and read their own poems.
Upon
reading a book of poems on the “geological” theme, in 1958, Brodsky
decided
that he could do better himself. One of his earliest poems, “Pilgrims,”
was
soon a campfire hit.
The whole country was
going
crazy for poetry; it had become central to the atmosphere of
Khrushchev’s Thaw.
In 1959, as part of a return of sorts to the Bolshevik past, a statue
of
Vladimir Mayakovsky was unveiled in central Moscow, and soon young
people began
to gather around it to read their own poetry. In the early sixties, a
group of
poets started a series of well-attended readings at the Polytechnical
Museum in
Moscow, catercorner from the headquarters of the K.G.B. There is a film
of one
of these evenings, and, though it’s just a poetry reading (rather than
a
Beatles concert, say), and though the poems of these semi-official
poets
weren’t especially good, the atmosphere is electric. A crowd had
gathered and
before it stood a young man talking about his feelings: this was new.
The venues in
Leningrad
were more humble, but Brodsky and his closest poet-friends—Bobyshev,
Anatoly
Naiman, and Evgeny Rein, the “magical chorus”—took advantage of them
whenever
they could. Bobyshev in his memoir recalls Brodsky dragging him to the
edge of
town so Brodsky could read some poems to a group of students. Bobyshev
left
early.
As for the poetry
itself,
Loseff argues convincingly that the early work—before Brodsky’s
arrest—is
uneven, sometimes derivative. But from the start Brodsky was one of
those poets
who can write confessionally and make it sound as if they were
describing an
entire social phenomenon. The poems are romantic, sarcastic, and
effortlessly
contemporary. There is an Eliot-like elongation of the poetic line, and
a sense
of surprise when the rhyme and meter are maintained; there is also the
clear
influence of the English Metaphysical poets, who laced their love
poetry with
philosophical speculations—in Brodsky’s case, always relating to time
and
space. Searching for English-language equivalents, Robert Hass wrote
that
Brodsky sounded “like Robert Lowell when Lowell is sounding like
Byron.” As a
cultural figure in Russia, though, Brodsky was more akin to Allen
Ginsberg
(with whom he later went shopping for used clothes in New York—“Allen
bought a
tuxedo jacket for five dollars!” he told Loseff, who wondered why a
beatnik
needed formal wear). For Ginsberg and his friends, freedom lay in
breaking the
bounds of traditional prosody; for Brodsky and his friends, freedom
came from
reëstablishing a tradition that Stalin had tried to annihilate. Brodsky
was
able to find surprising ways of doing this, seemingly with no effort,
and always
remaining cool and nonchalant. His early poems describe the narrator
walking
home from the train station; the narrator touring his old Leningrad
haunts; the
narrator watching a married couple argue, wondering whether he himself
will
always be alone. That last one, incidentally, is called “Dear D. B.,”
that is
to say, Dmitry Bobyshev, who was in an unhappy marriage at the time.
Loseff describes the
first
time he heard Brodsky read. It was 1961. Some time before, a friend had
given
him a sheaf of Brodsky’s poems, but the type was faint (samizdat
manuscripts
were often typed three or four sheets at a time), and Loseff didn’t
like the
look of the lines, which, especially in Brodsky’s early poetry,
stretched on
and on. “I managed to get out of reading them somehow,” Loseff recalls.
But now
a group of friends had gathered in the communal apartment where Loseff
and his
wife lived, and there was no getting away from Brodsky. He started
reading his
long ballad “Hills,” and Loseff was amazed: “I realized that here at
last were
the poems I had always dreamed of, without even knowing it. . . . It
was as if
a door had opened into a wide-open space that we hadn’t known about or
heard
of. We simply had no idea that Russian poetry, that the Russian
language, that
Russian consciousness, could contain these spaces.”
Many people felt this
way
when they first encountered Brodsky’s poems. One friend who got hauled
in for a
talk with the K.G.B. around this time recalls telling his interrogator
that, of
all the people he knew, Brodsky was the likeliest to win the Nobel
Prize. It
was a period of tremendous generational energy and hope; someone had to
embody
it. It was important that Brodsky’s poems were contemporary and local.
It was
also important that, in their debt to Anglo-American modernism, they
connected
the small group of Leningrad poets and readers to the great world. And
most
important of all was that, in their creative fealty to an old-fashioned
formal
tradition, they connected this generation to the great poets of the
Russian
past; Nadezhda Mandelstam, the poet’s widow, declared Brodsky a second
Mandelstam.
Then, in October,
1962,
Khrushchev was confronted by President Kennedy over a shipment of
missiles sent
by the Soviets to Cuba. After a tense standoff, the Soviets withdrew in
humiliation, and Khrushchev lashed out at home. Just a few weeks after
the
Cuban missile crisis, he lambasted a group of young artists at an
exhibit in
Moscow, calling them “faggots.” The Thaw was finished. A year later,
Brodsky
was charged with “freeloading” on the back of the great Soviet people.
Among the
intelligentsia,
it later be came a point of faith, if not exactly of pride, that the
Soviet
regime had intuited Brodsky’s greatness earlier than just about anyone.
Loseff
deflates this notion; in fact, he explains, the initiative for the
arrest came
from the head of a community-watch group; he had heard of Brodsky’s
local fame
and Brodsky happened to live within his jurisdiction in Leningrad. That
was
all. The Soviet regime stumbled onto one of the great prodigies in the
history
of the Russian language pretty much by accident.
Brodsky’s trial took
place
in two sessions, several weeks apart, in February and March of 1964; in
between, Brodsky was confined to a mental hospital, where it was
determined
that he was psychologically fit to work. The trial was a farce, its
outcome
predetermined. “Trial of the freeloader Brodsky,” a sign outside the
courtroom
read, a little prejudicially. Inside, neither the judge nor the people
testifying against Brodsky had any interest in his poetry. Brodsky, who
remained unpublished, made what money he could doing translations,
sometimes
working from literal translations when he didn’t know the source
language; his
accusers wanted to know, among other things, how this was possible, and
whether
Brodsky wasn’t exploiting his collaborators on such projects. Much of
the case
turned on whether writing was a real job if it brought little or no
income:
CITIZEN ACCUSER: We checked. Brodsky says he got 150 rubles from a job,
but
actually it was 37.
BRODSKY: That’s the advance! That’s just the advance! It’s only part of
what
I’ll get later.
Brodsky at the time
was not
yet twenty-four. His friend Rein recalls how the second session of the
trial
fell on Maslenitsa, or Butter Week, the traditional
pancake-eating
holiday in advance of Lent. Consequently, on the day of the trial, Rein
and
some other friends went to the restaurant at the Hotel European to eat
pancakes. Then, at four o’clock, they went to the courthouse. Not
everyone, in
other words, had a sense of the gravity of the occasion.
Brodsky did.
Throughout the
short trial, he appears to have been serious, quiet, respectful, and
firm in
his conviction about what he was put on earth to do:
JUDGE: Tell the court why in between jobs you didn’t work and led a
parasitic
life style?
BRODSKY: I worked in between jobs. I did what I do now: I wrote poems.
JUDGE: You wrote your so-called poems? And what was useful about your
frequent
job changes?
BRODSKY: I began working when I was 15 years old. Everything was
interesting to
me. I changed jobs because I wanted to learn more about life, about
people.
JUDGE: What did you do for your motherland?
BRODSKY: I wrote poems. That is my work. I am convinced. . . . I
believe that what
I wrote will be useful to people not only now but in future generations.
JUDGE: So you think your so-called poems are good for people?
BRODSKY: Why do you say of the poems that they are “so-called”?
JUDGE: We say that because we don’t have any other idea about them.
In the end, the judge
sentenced the so-called poet to five years of exile and labor up north,
to
straighten him out.
On the subject of
Brodsky’s
exile, Loseff is once again forced to disappoint readers who have grown
accustomed to thinking of the poet as someone who spent time in the
Gulag. His
confinement to a mental hospital in between sessions of the trial was
miserable. His eighteen months in the village of Norenskaya were among
the best
times of his life.
Norenskaya was three
hundred and fifty miles from Leningrad, and Brodsky could receive
visitors. His
mother visited him; his friends Rein and Naiman visited; his lover
Basmanova
visited. Even Bobyshev came to visit! (He was looking for Basmanova.)
Brodsky
rented a little cottage in the village and, while it didn’t have
central
heating or plumbing, it was, as one visitor marvelled, his very own.
“For our
generation this was an unthinkable luxury,” the visitor recalled.
“Iosif
proudly showed off his domain.” Brodsky had a typewriter and was
reading a lot
of W. H. Auden. On the whole, this was more Yaddo than Gulag.
But there is nothing
to be
done about a legend once it’s created. Akhmatova’s famous dark joke at
the time
of his arrest—“What a biography they’re writing for our redhead”—told
only half
the story. After his arrest, Brodsky met the occasion; he built his own
biography. The transcript of the trial, made by a brave journalist
named Frida
Vigrodova, quickly appeared in samizdat and was sent abroad, where it
was
published in many languages (in the United States it appeared in The
New
Leader). A concerted campaign led by Akhmatova and joined by
Jean-Paul
Sartre resulted in Brodsky’s early release. By the time he returned to
Leningrad, in late 1965, Brodsky was world famous, and had developed
profoundly
as a poet. Bobyshev no longer stood a chance.
In 1967, Basmanova
gave
birth to Brodsky’s son, and then broke things off with him again.
Akhmatova had
died the year before, leaving the already splintering magical chorus to
fend
for themselves. (Bobyshev rechristened them “Akhmatova’s orphans.”)
Brodsky
kept writing poetry and travelling around the Soviet Union. When
Western
academics came to Leningrad, they visited him. His poetry entered a
phase of
maturity and total mastery.
Brodsky continued to
describe his life. One poem recalls a seaside meeting between two
friends, and
then goes on:
Many waves have passed since then.
Ashore my friend was drowned
in his own shallow but still bitter lies; and I set off
on wanderings.
And he also continued
to
describe and memorialize his love for Basmanova. From “Six Years
Later,” in
Richard Wilbur’s translation:
So long had life together been that once
the snow began to fall, it seemed unending;
that, lest the flakes should make her eyelids wince,
I’d shield them with my hand, and they, pretending
not to believe that cherishing of eyes,
would beat against my palm like butterflies.
There was not room
enough
in the U.S.S.R. for both Brodsky and the Communists. “The authorities
couldn’t
help but be offended by everything he did,” his friend Andrei Sergeev
later
wrote. “By his working, by his not working, by his walking around,
standing,
sitting at a table, or lying down and sleeping.” Brodsky kept trying to
get his
poems published, to no avail. At one point, two K.G.B. agents promised
to
publish a book of his poems on high-quality Finnish paper if he would
only
write the occasional report about his foreign-professor friends. Nor
was there
a place for Brodsky in the growing dissident human-rights movement that
his own
trial had helped catalyze. His relation to the dissidents somewhat
resembled
Bob Dylan’s to the American student movements of that era: sympathetic
but
aloof.
In the early
nineteen-seventies, the geopolitical wheel turned again, and took
Brodsky with
it. Brezhnev’s desire to clear house dovetailed nicely with pressure
from the
West to release Soviet Jews, and in the spring of 1972 Brodsky was
given three
weeks to pack his bags and board a plane to Vienna. Unlike Norenskaya,
this
would be true exile, and it lasted the rest of his life.
In Vienna, Brodsky
was met
by Carl Proffer, a Russian-literature professor at the University of
Michigan,
who was just starting Ardis, a small publishing house. Proffer happened
to know
that Brodsky’s hero, Auden, was vacationing nearby, and they decided to
pay him
a visit. Despite receiving no advance warning, Auden welcomed the
exiled poet,
and a few months later Brodsky wrote home to Loseff, using newfound
English
words wherever possible:
W. H. Auden drinks his first martini dry at 7:30 in the
morning, after
which he sorts his mail and reads the paper, marking the occasion with
a mix of sherry and scotch. After this he has breakfast,
which can
consist of anything so long as it’s accompanied by the local dry pink
and
white, I don’t remember in which order. At this point he sets to
work.
Probably because he uses a ballpoint pen, he keeps on the desk next to
him,
instead of an inkwell, a bottle or can of Guinness,
which
is a black Irish beer that disappears in the course of the
creative
process. At around 1 o’clock he has lunch. Depending on the menu, this
lunch is
decorated by this or that rooster’s tail, or cocktail. After
lunch, a
nap, which is, I think, the only dry point of the day.
And thus Brodsky’s
charmed
life in the West began.
Brodsky makes a cameo
appearance in the novelist Sigrid Nunez’s new memoir about Susan
Sontag, “Sempre
Susan.” It is 1976 and Brodsky has recently started dating Sontag. He
is
romantic, brooding, mostly bald. “None of it matters,” he announces one
day.
“Not suffering. Not happiness or unhappiness. Not illness. Not prison.
Nothing.” (“Now, that’s European,” Nunez writes, a dig at Sontag.)
Another
time, he takes everyone out for Chinese, his favorite New York meal.
Sitting
around the table with Sontag, her son, and the young Nunez, Brodsky is
the
bohemian paterfamilias. Nunez describes him purring to this small,
unlikely
clan, “Aren’t we happy?”
This is the image one
has
of Brodsky in America: a runaway success. Only from the Russian side
can one
see how difficult it was, and also just how much it meant. For members
of that
Soviet generation, America was everything. They listened to its music,
read its
novels, translated its poetry. They caught bits and pieces of America
wherever
they could (including on trips to Poland). America “was like a homeland
in
reserve for us,” Sergeev (who translated, among others, Robert Frost)
later
wrote. When, in the nineteen-seventies, the opportunity presented
itself, many
went. It was only upon arriving here that they discovered what they’d
lost.
Brodsky was one of
the
first. In later years, enough people came over so that Russian
communities
formed in Boston, New York, Pittsburgh, but in 1972 America was as
lonely as
the village of Norenskaya. There weren’t any Russians to talk to,
Brodsky
complained in letters home, and, as for the local Russian-literature
professors, “They had come to resemble their subjects like masters
their dogs.”
So that was out.
Brodsky’s poems
during his
first years in the States are filled with the most naked loneliness.
“An autumn
evening in a humble little town / proud of its appearance on the map,”
one
begins, and concludes with an image of a person whose reflection in the
mirror
disappears, bit by bit, like that of a street lamp in a drying puddle.
The
enterprising Proffer had persuaded the University of Michigan to make
Brodsky a
poet in residence; Brodsky wrote a poem about a college teacher. “In
the
country of dentists,” it begins, “whose daughters order clothes / from
London
catalogues, . . . / I, whose mouth houses ruins / more total than the
Parthenon’s, / a spy, an interloper, / the fifth column of a rotten
civilization,” teach literature. The narrator comes home at night,
falls into
bed with his clothes still on, and cries himself to sleep. That year,
Brodsky
wrote a poem indicating that, in being forced to leave Russia, he lost
a son.
“My dear Telemachus,” it begins, “The Trojan war is over,” and
continues (in
George L. Kline’s rendering):
I don’t know where I am or what this place
can be. It would appear some filthy island,
with bushes, buildings, and great grunting pigs.
A garden choked with weeds; some queen or other.
Grass and huge stones . . . Telemachus, my son!
To a wanderer the faces of all islands
resemble one another. And the mind
trips, numbering waves; eyes, sore from sea horizons,
run; and the flesh of water stuffs the ears.
I can’t remember how the war came out;
even how old you are—I can’t remember.
Eventually, Brodsky
escaped
the country of dentists for a small garden apartment on Morton Street,
in the
West Village, which he rented from a professor at N.Y.U., and took a
teaching
post at Mount Holyoke, in western Massachusetts. He found his level,
socially,
and his complaining letters home took a curious turn. “Last week, I had
the
first conversation in three years about Dante,” one went, “and it was
with
Robert Lowell.”
In 1976, Brodsky was
joined
in the U.S. by his old friend Loseff, who became his best reader and a
close
observer of his American life. In Leningrad, the bookish Loseff had
worked as
the sports editor of a magazine for kids. In the U.S., he initially
settled,
like Brodsky, in Ann Arbor, working for Proffer’s Ardis, before moving
to New England,
in Loseff’s case Dartmouth, where he taught Russian literature until
his death,
in 2009.
As a biographer,
Loseff is
honorable, supremely intelligent, and almost supernaturally well
informed. He
shows how the important experiences in Brodsky’s life appear in his
poems—in
fact, the book was written as a side project while Loseff was preparing
a
two-volume annotated edition of Brodsky’s poetry, which will appear in
Russia
later this summer. He never strays more than is absolutely necessary
into
Brodsky’s personal life. “The book is in the style of ‘everything you
always
wanted to know about Brodsky but were afraid to ask,’ if the thing you
were
afraid to ask about was his metaphysics rather than his wife,” a
reviewer wrote
of the book when it came out in Russia.
But Loseff has also
left a
book of autobiographical essays, “Meander,” published posthumously, in
Russian,
in 2010, under the editorship of the poet Sergei Gandlevsky. No less
loyal and
affectionate toward Brodsky, the short essays in this book are much
more
personal and personable, and Brodsky appears in them in a slightly
different
light. Loseff comes to visit him in New York to eat Chinese food and
read
poetry. Also to receive clothes: according to Loseff, Brodsky was
always buying
huge amounts of clothing at the secondhand clothing shops of Manhattan,
then
giving them to Loseff, who was about the same size. One essay opens
with Loseff
house-sitting for Brodsky on Morton Street; suddenly the phone rings in
the
middle of the night, and a female voice on the other end of the line,
speaking
English and mistaking Loseff for Brodsky, demands to know what he is
doing.
“Stupidly I said, ‘Sleeping,’ ” Loseff writes. “What then began to
happen on
the other end of the line caused me some embarrassment, so I replaced
the
receiver, with unnecessary tact.” The essay goes on to defend Brodsky
from
accusations of womanizing.
In these essays,
Loseff is
able to say some of the things that Brodsky could not. Even after
moving to New
York, Brodsky continued to play it cool. To any interviewer who asked,
he would
say that America is merely “a continuation of space.” Or in “Lullaby of
Cape
Cod” (in Anthony Hecht’s translation):
I write from an Empire whose enormous flanks
extend beneath the sea. Having sampled two
oceans as well as continents, I feel that I know
what the globe itself must feel: there’s nowhere to go.
Loseff could never be
so
cool. He was taken with America. “Even now, having lived here thirty
years,” he
writes, “I sometimes feel a strange elation: is this really me, seeing
this
foreign land with my own eyes, taking in these other smells, speaking
to the
local people in their language?”
Brodsky’s own English
improved rapidly. Almost immediately upon his arrival in the U.S., he
began
publishing essays, translated from the Russian by his friends, in the
American
intellectual press. In 1977, he bought a secondhand typewriter in
Manhattan and
soon was writing the essays directly in a supple, playful, ironic
English,
through which you could sometimes hear the poetic voice of his Russian.
In
these essays, many of which appeared in The New York Review of Books,
Brodsky wrote with great sympathy of the poets he most admired: Marina
Tsvetaeva, Osip Mandelstam, Anna Akhmatova, and, on the other shore,
Robert
Frost and, especially, Auden. In this way he was able to repay his
debts. He
was also able, in several autobiographical essays, to recast his
painful
experiences in a new form. As he wrote in one essay about his parents,
who died
in the mid-eighties, unable to see their son after his expulsion from
the
U.S.S.R.:
To write about them in Russian would only further their captivity,
their
reduction to insignificance, resulting in mechanical annihilation. I
know that
one shouldn’t equate the state with language but it was in Russian that
two old
people, shuffling through numerous state chancelleries and ministries
in the
hope of obtaining a permit to go abroad for a visit to see their only
son
before they died, were told repeatedly, for twelve years in a row, that
the
state considers such a visit “unpurposeful.” To say the least, the
repetition
of this utterance proves some familiarity of the state with the Russian
language. Besides, even if I had written all this in Russian, these
words
wouldn’t see the light of day under the Russian sky. Who would read
them then?
A handful of émigrés whose parents either have died or will die under
similar
circumstances? They know this story only too well.
His English was able
to
grant his parents a measure of freedom. But there was one thing it
could not
do: transform his Russian poetry into English poetry. Inevitably,
Brodsky
tried, and he wasn’t shy about it. Almost as soon as his English was up
to
snuff he began to “collaborate” with his translators; eventually he
supplanted
them. The results were not so much bad as badly uneven. For every
successful
stanza, there were three or four gaffes—grammatical, or idiomatic, or
just
generally tin-eared. Worst of all, to readers accustomed to postwar
Anglo-American poetry, Brodsky’s translations rhymed, no matter
what
obstacles stood in their way.
From the very first,
it had
fallen to Brodsky to experience all the struggles of his generation on
his own
hide, as the Russians say. His immigration was no exception. He was
spared the
loss of social status that tormented other immigrants (indeed, the
memoirs of
later immigrants who had known him in Leningrad are filled with tales
of how
Brodsky didn’t introduce them to another luminary, or pretended not to
see them
while doing a reading somewhere). Although his health was poor (he had
his
first heart attack in 1976), he was spared the material concerns many
immigrants had. But he was not spared the dislocation, the
misunderstanding. He
failed to see that the social changes that made his poetry resonant in
Russian
had obviated just this kind of poetry in the States. Writing about his
generation of idealistic Russians, he put it best: “Hopelessly cut off
from the
rest of the world, they thought that at least that world was like
themselves;
now they know that it is like the others, only better dressed.”
In his last decade,
Brodsky
achieved an unprecedented level of success. He was awarded the 1987
Nobel Prize
for Literature. Afterward, he spent a lot of time in Italy, got married
to a
young student of Russian and Italian descent, became the Poet Laureate
of the
United States, moved to Brooklyn. In 1993, his wife gave birth to a
daughter,
whom they named Anna.
As often happens,
Brodsky
was more visible in his last years as an essayist and a propagandist
for poetry
than as an actual poet. His ideas about the moral importance of
poetry—inherited from the poets of the Silver Age, including
Mandelstam, who
had died for his poetry—eventually hardened into dogma; his Nobel Prize
address
stressed that “aesthetics is the mother of ethics,” and so on. Poetry
was
immortal, he argued: “That which is being created today in Russian or
English,
for example, secures the existence of these languages over the course
of the
next millennium.” But this wasn’t true, as Brodsky eventually
acknowledged in a
great and furious late poem, “On Ukrainian Independence,” in which he
berated
the independence-minded Ukrainians for casting aside the Russian
tongue. “So go
with God, you swift cossacks, you hetmans, you prison guards,” it says,
and
concludes:
Just remember, when it’s time for you, too, to die, you bravehearts,
as you scratch at your mattress and visibly suffer, you’ll forget
the flatus of Taras, and whisper the verses of Alexander.
Alexander Pushkin,
that is.
Despite itself, the poem is an anguished admission that a Russian state
and
Russian-speaking subjects are still vital to the project of Russian
poetry.
Brodsky never
returned to
Russia. Nor did he see Marina Basmanova again, though their son,
Andrei, came
to visit New York once, and the two did not get along. A friend recalls
Brodsky
calling her in Boston to ask if he should buy the young man a VCR, even
though,
Brodsky complained, he’d dropped out of college and refused to work. In
1989,
Brodsky wrote his last poem to “M.B.,” his old muse, describing himself
out for
a walk and breathing the fresh air and remembering Leningrad. “Don’t
get me
wrong,” it goes on:
Your voice, your body, your name
mean nothing to me now. No one destroyed them.
It’s just that, in order to forget one life, a person needs to live
at least one other life. And I have served that portion.
The magical chorus
had
fallen apart. Even Rein and Naiman eventually quarrelled, with Naiman,
in one
of his many memoirs, accusing Rein of bringing a can of apricot compote
to a
dinner party and then eating all of it himself. In late January, 1996,
Brodsky
died, of his third heart attack, after a life of not taking very good
care of
himself. “If you can’t have a cigarette with your morning coffee,” he
once said,
“there’s no point getting up.”
Bobyshev eventually
emigrated to the States. He settled in Illinois, where he, too, taught
literature. After Brodsky’s death, he published his account of his
early years,
including the Basmanova affair. There is a great scene in which he
visits his
aunt in Moscow. Akhmatova is in town at the same time and gives him a
call
while he’s out. When he gets back, his aunt is flabbergasted. “Is it
possible
that Anna Akhmatova called for you?” she asks. “Yes, of course,” young
Bobyshev
replies airily. “What did she say?”
The book ends with
Bobyshev, now in America, calling Brodsky in New York. They haven’t
spoken in
two decades, but Bobyshev has an important matter relating to Akhmatova
to
discuss with him, and they briefly put their differences aside. They
settle the
matter, and then Brodsky asks, “So how do you like America?” It’s not
easy,
Bobyshev says, but still it’s an interesting place. “What about it is
interesting?” Brodsky asks. Bobyshev says it’s all very
interesting, the colors, the faces,
all
of it. “Hmm,” Brodsky says. And they hang up. ♦
The
Gift
A Note on
Brodsky and Ukraine
Posted by
Keith Gessen
A few months
ago, I published an essay in the magazine about the poet Joseph
Brodsky; the
essay was partly a review of a new biography of Brodsky by his great
friend and
fellow émigré Lev Loseff. In Loseff’s book, I learned about a poem
Brodsky had
written in the early nineteen-nineties lamenting the splitting-off of
Ukraine
from Russia. Part of the reason I’d never heard of the poem is that it
had
never been published; Brodsky read it aloud once, at Queens College in
New York
in 1994, but never again circulated the poem. Loseff describes it as
“the lone
act in his life of self-censorship.”
I’ve since
received a note from Brodsky’s literary executor, Ann Kjellberg, mildly
rebuking me for not pointing out the complex circumstances of the poem,
both
political and bibliographic. “A poem known only from private
manuscripts and
other unauthorized sources should perhaps not be taken as representing
an
author’s settled views,” she writes. “Dating and historical
circumstances might
also be borne in mind when considering an archival source. In the
summer of
1992, for example, newly independent Ukraine declared administrative
control
over former Soviet nuclear capability on its territory, including 176
ICBMs.
Perhaps somewhat inflaming circumstances, later reconsidered.”
This is
entirely fair and true. Kjellberg also points out that the poem first
received
wide circulation, after Brodsky’s death, when it was republished by
Ukrainian
nationalists and cited as an instance of Brodsky’s extreme pro-Russian
views.
The imputation
to Brodsky of Russian nationalist views is of course paradoxical, and
worth
considering. Brodsky was Jewish, a fact of which his countrymen
occasionally,
aggressively reminded him (and still do, as a matter of fact, in the
comment
threads on Russian Web sites); Russia had imprisoned him and then sent
him
packing; and the government had refused his parents’ requests to visit
their
only child. A close and dear friend of Brodsky’s was Tomas Venclova,
considered
the greatest of Lithuanian poets, and no doubt Brodsky thrilled to see
Lithuania stand up to the Soviet behemoth in 1990 and 1991 and fight
for its
independence (and achieve it).
But, like so
many of the developments in the post-Soviet space, it was complicated.
Brodsky
was a strongly anti-Soviet Soviet poet, but a Soviet poet nonetheless.
His
poems required a complex understanding of Russian. Soviet schools—the
ones
Brodsky hated so viscerally that he dropped out of them at an early
age—taught
people Russian. They taught them Russian in Almaty, and Tashkent, and
Samarkand; in Tallinn, Riga, Vilnius; in Sevastopol, Lvov, and Kiev.
Most of
these places had been part of the Russian Empire, which the Soviets
inherited;
but the Soviets defended it (as the inheritors of the Austro-Hungarian
and
Ottoman Empires were unable to do), and they even expanded it. More
people were
learning Russian when Brodsky was writing his poems than had ever
learned
Russian before. How, as a Russian poet whose poems would famously
resist
translation, could one not be happy about that?
In the past
few years, I’ve travelled to some of the places where Russian language
and
Russian culture were made part of the fabric of life long before Lenin
arrived
at Finland Station, and where Russian is now being rolled back,
post-1991. Even
though there is a strong argument to be made for federation; even
though the
local élites who are the most fervid proponents of independence do not
always
have most people’s best interests at heart; and even though there are
many
places whose quality of life has demonstrably worsened since the fall
of the
Soviet Union, it’s hard not to root for nations, and cultures, and
languages
that have long been subordinate to Moscow and Russian. At the same
time, for a
speaker of Russian and admirer of Russian culture, it is also hard not
to be a
little sad about it, too. These processes will take time, but in thirty
years
it’s possible that very few people will speak Russian on the streets of
Almaty;
the same may be true in fifty or a hundred years in Kiev, birthplace of
Mikhail
Bulgakov, and Odessa, hometown of Isaac Babel. Well, too bad for the
Russians,
you say, and I agree. People who can’t speak Russian will be less
susceptible
to Russian propaganda. But they will also be less susceptible to the
poetry of
Joseph Brodsky. “On Ukrainian Independence” was, in a serious sense,
politically incorrect, and this is why Brodsky never published it. But
it
expressed a real and legitimate anguish, and it happens to be a great
poem. As
Brodsky writes toward the end:
А что до слезы
из глаза—нет на нее указа, ждать до дргого раза.
Meaning,
roughly: “As for the tears in my eyes/ I’ve received no orders to keep
them for
another time.”