Đăng ngày: 18:05
21-05-2011
Tôi nhìn thấy Pleiku lần
đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở
trong dãy nhà gỗ trải dài trên đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng
không
ngăn được gió lùa vì hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà
này có chừng
ba hay bốn dãy, lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi.
Đứng
trước nhà tôi nhìn thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một
chút, bên
phải, tôi nhìn thấy biển mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái
nghĩa địa
nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ
chỉ cao
đến bụng, nhìn thấy dãy nhà phía dưới.
Phố núi cao
phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . . Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một
người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi ướt
nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như
sương. Em
Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em
ướt. Nên
mắt em ướt. . . Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài thơ
của Vũ Hữu
Định, Phạm Duy phổ nhạc. Thật ra tôi nghe bài hát này đã nhiều lần
nhưng không
để ý đến Pleiku chỉ để ý đến một mối tình và hai câu thơ còn một chút
gì, để nhớ
để quên. Đầu óc thơ dại của tôi vào cái tuổi chỉ biết yêu thôi chả hiểu
gì nghĩ
thầm ông này nói gì kỳ quá, đáng lẽ đi đôi với để nhớ phải là để thương
chứ sao
lại để quên. Chỉ sau khi lớn lên thêm chút nữa, rời VN tôi mới nghiệm
ra, Sài
Gòn là nơi tôi có nhiều điều muốn quên. Buổi chiều hôm ấy ở trên đảo
Bidong tôi
lần đầu hình dung Pleiku, một vùng cao nguyên, núi non, có sương mù, có
những
cô gái má đỏ môi hồng, tiềng khèn Tây nguyên, đường phố lưa thưa vắng
vẻ.
Pulau
Bidong, chùm núi mọc giữa biển, có nét của Pleiku trong óc tưởng tượng
của tôi.
Rừng cây cao với những chiều mù sương. Những buổi chiểu mưa trên biển
mây là đà
ngay trên ngọn cây, trời như chùng xuống. Chưa lần nào được đến thăm
Pleiku
nhưng tôi mang hình ảnh Pleiku qua bài thơ Vũ Hữu Định trong lòng từ
đó.
Từ San
Francisco, tôi đến Mariposa vào một buổi chiều tháng Tám. San Francisco
ban
ngày chỉ có 68 độ F, trong khi ở Mariposa chỉ cách đấy vài giờ lái xe,
buổi
trưa lên đến 94 độ F, trời nóng như thiêu. Mariposa là một thị trấn rất
nhỏ nằm
trên đường CA 140, cách khu rừng Yosemite, địa điểm du lịch nổi tiếng
trên thế
giới, chừng non 50 kí lô mét. Thị trấn này nhỏ đến độ lái xe với tốc độ
bình
thường 65 dặm một giờ người ta sẽ chạy qua khỏi Mariposa trong vòng một
hai
phút, không kịp nhận ra là mình đã chạy lố. Nằm ngay chân rặng Sierra
Nevada,
Mariposa là một phố núi tĩnh lặng. Tôi
muốn dành trọn ngày cho Yosemite nên nghỉ đêm ở Mariposa sáng sớm hôm
sau sẽ
lên đường đến Yosemite. Cửa phòng trọ của tôi mở ra một lan can đầy dây
leo có
tua loắn xoắn. Trước mắt tôi là rặng núi Sierra Nevada với những ngọn
thông với
tay lên đến trời. Chúng tôi ăn trưa ở tiệm pizza trên đường Bullion,
con đường
chính của Mariposa. Cô gái phục vụ là một người da trắng. Hơi nóng làm
má cô đỏ
rực như hai quả táo chín. Cô có vẻ phốp pháp mũm mĩm của cô nàng rót
sữa trong
bức tranh của họa sĩ Johannes Vermeer.
Mariposa,
tiếng
Tây Ban Nha có nghĩa là bướm. Thành phố mang tên Bướm vì ngày xưa, khi
người ta
bắt đầu đến đây để khai mỏ, theo cơn sốt vàng chinh phục miền Viễn Tây,
loại bướm
chúa Monarch, ở đầy tràn thung lũng. Hằng năm chúng quay trở về thung
lũng như
những người lưu vong, luôn quay về (hay tìm cách quay về) nơi chôn nhau
cắt rốn.
Dùng bản đồ do khách sạn cung cấp tôi đi tham quan thị trấn. Dọc theo
CA 140, một
bên đường là núi, còn bên kia là thị trấn. Ở cực Nam của thị trấn là
nghĩa địa
thánh Joseph. Cực Bắc là viện bảo tàng về thợ mỏ và dụng cụ khai thác
mỏ vàng
và bạc. Vào năm 1849 người ta đổ xô về Mariposa để săn vàng. Di tích
còn lại là
một số tòa nhà cổ ngày xưa là tòa soạn báo, nhà in, lữ quán, và một vài
ngôi
nhà thờ rất đẹp. Ở góc đường thứ 5 có một nhà tù bằng đá xây từ năm
1850 vẫn
còn được dùng cho đến năm 1963. Gần cuối con đường Bullion là Tòa án
của
Mariposa.
Mariposa
có
những vùng đất khô cằn. Liên tiếp mấy năm Mariposa bị hạn hán. Mặt đất
có màu
vàng của cỏ cháy thoạt nhìn khó phân biệt đây có phải là vùng đất đỏ
hay không.
Tôi đi
đến
bưu điện gửi một bưu thiếp rồi quay về. Trên đường về tôi thấy có bến
xe buýt,
không thấy xe cũng không thấy người. Chỉ thấy vỏn vẹn một tấm bảng hiệu
nhỏ xíu
cho biết đây là bến xe buýt. Không khí đậm đặc mùi lá thông hòa với mùi
trái
đào chín vây quanh tôi. Tưởng chừng mỗi bước đi làm dấy động mùi hương
là đà
trên mặt đất. Hơi nóng bốc lên như một tấm gương trong suốt làm cảnh
vật phía
sau tấm gương trở nên méo mó lung linh. Tuy tôi đến đây lần đầu, thành
phố có vẻ
gì quen thuộc nhưng tôi nghĩ mãi mà không biết nó quen thuộc ở chỗ nào.
Tôi có
cảm tưởng như tôi đã đi qua đây một lần, cái cảm giác quen thuộc cứ lẩn
quẩn
theo tôi suốt buổi trưa hừng hực nóng.
Chập
choạng,
tôi đi xuống con dốc để đi ăn tối ở một nhà hàng Trung hoa, đi ngang
vài ngôi
nhà thờ cổ kính. Con dốc thật cao phải vừa đi vừa chạy mới giữ được
thăng bằng.
Ở đây nhà hàng Mễ Tây Cơ nhiều hơn nhà hàng Trung hoa. Ăn xong tôi lại
đi bộ từ
Nam lên Bắc, đến viện bảo tàng khai thác mỏ rồi quay về. Buổi tối,
Mariposa rất
vắng lặng. Tôi cố tìm một hiệu kem, hay một quán cà phê để ngồi thưởng
thức
không gian thị trấn núi này tìm không ra. Mới chừng bảy giờ tối mà thị
trấn này
đã đi ngủ. Những người trẻ tuổi nếu muốn giải trí họ đi đâu làm gì? Tôi
nghĩ đến
bến xe buýt ban chiều. Tưởng tượng nếu tôi là một cô gái trẻ đầy nhựa
sống đầy
tham vọng có nhan sắc, có lẽ tôi sẽ xách hành lý lên chuyến xe buýt đầu
tiên ra
khỏi thành phố im lìm ngủ này để tìm tương lai. Từ Mariposa đến San
Francisco
chỉ độ chừng 150 dặm. Và nếu tôi là một chàng lãng tử, nghèo kiết xác,
lỡ độ đường,
thì sao? Chưa đầy mười lăm phút tôi đã đi hết một vòng từ Nam đến Bắc
và quay về
chốn cũ. Câu thơ của Vũ Hữu Định hiện về trong trí óc tôi. “Đi dăm phút
đã về
chốn cũ.” Nếu tôi là chàng lãng tử thì sự dịu dàng ân cần của cô gái
thị trấn sẽ
làm tôi thầm mừng may mà có em đời còn dễ thương.
Tôi chợt nhận
ra vì sao thị trấn này có vẻ quen thuộc với tôi. Nó có những đặc tính
của
Pleiku tôi từng hình dung ngày tôi nghe bài thơ của Vũ Hữu Định ở đảo
Bidong.
Tôi không nhận ra điều này lúc đầu bởi vì tôi đến Mariposa nhằm vào cơn
hạn hán
dù đã cuối mùa hè. Chỉ cần hai ba tuần nữa khi gió thu chớm về, trời sẽ
lạnh,
buổi chiều và sáng sớm sẽ có sương mù. Mariposa có phố núi cao với
những ngọn
thông chọc thủng bầu trời, mùa thu sẽ có phố núi đầy sương. Mariposa
luôn có phố
núi cây xanh và sẽ có những ngày mưa trời thấp thật buồn. Ở quán pizza
tôi đã gặp
môt cô gái Mariposa má đỏ môi hồng tôi không nhận ra bởi vì cô là người
da trắng
và hơi đầy đặn hơn các cô gái miền Tây nguyên.
Một người bạn
trên blog (Rongbay) hiện nay đang ở Sài gòn nhưng trước kia từng ở
Pleiku bảo rằng
Pleiku bây giờ đã khác. Nhà lầu mọc lên như nấm. Pleiku là nơi ăn chơi
khét tiếng
của các đại gia. Có thể nói tôi là một người may mắn; may mắn vì ngây
thơ đến độ
ngu dốt về những chuyện chiến tranh. Tôi sống trong một quốc gia chiến
tranh
bom đạn triền miên, thế mà Pleiku trong tôi vẫn là một Pleiku trong mắt
nhìn của
chàng Romeo lãng mạn si tình Vũ Hữu Định. Tôi chưa hề nhìn thấy một
Pleiku với
những căn cứ quân sự. Không biết Pleiku là nơi McGeorge Bundy, vị cố
vấn quân sự
của Tổng thống Kenedy, đến viếng lần đầu tiên chứng kiến căn cứ quân sự
Mỹ bị tấn
công rồi qua đó đã quyết định tăng cường mức độ chiến tranh ở Việt Nam.
Pleiku
trong tôi muôn đời là một thị trấn miền núi đi dăm phút đã về chốn cũ.
Tôi yêu
Pleiku qua cặp mắt chàng lãng tử Vũ Hữu Định chỉ cẩn một cô gái hiền
lành má đỏ
môi hồng, tóc em ướt và mắt em ướt,em mềm như mây chiều trong là thấy
ngày may
mà có em đời còn dễ thương. Và tuy không có tiếng khèn cao nguyên qua
điệu nhạc
của Phạm Duy, không khí Mariposa với cổ tích của thổ dân vẫn gợi nhớ
đến
Pleiku.
Tôi biết tôi
chỉ cần gõ vài cái phím là tôi có thể nhìn thấy hình ảnh Pleiku hiện
nay trên mạng
nhưng tôi không muốn làm thế. Tôi muốn giữ gìn hình ảnh Pleiku tôi hình
dung
qua bài thơ của Vũ Hữu Định và qua điệu khèn trong bài hát của Phạm
Duy. Tôi biết
Pleiku đẹp tân tiến hào nhoáng vội vã hơn xưa. Khi tôi rời Sài Gòn tôi
mang
theo những điều tôi muốn quên, qua Pulau Bidong và Mariposa, hình dung
về
Pleiku tôi giữ trong tim, để nhớ.
HH
Tôi nhìn thấy
Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy
nhà gỗ
trải dài trên đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được
gió lùa vì
hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay
bốn dãy,
lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà
tôi nhìn
thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một chút, bên phải, tôi
nhìn thấy
biển mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng
chục
ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng,
nhìn thấy
dãy nhà phía dưới.
Phố núi cao
phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . . Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một
người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi ướt
nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như
sương. Em
Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em
ướt. Nên
mắt em ướt. . . Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài thơ
của Vũ Hữu
Định, Phạm Duy phổ nhạc. Thật ra tôi nghe bài hát này đã nhiều lần
nhưng không
để ý đến Pleiku chỉ để ý đến một mối tình và hai câu thơ còn một chút
gì, để nhớ
để quên. Đầu óc thơ dại của tôi vào cái tuổi chỉ biết yêu thôi chả hiểu
gì nghĩ
thầm ông này nói gì kỳ quá, đáng lẽ đi đôi với để nhớ phải là để thương
chứ sao
lại để quên. Chỉ sau khi lớn lên thêm chút nữa, rời VN tôi mới nghiệm
ra, Sài
Gòn là nơi tôi có nhiều điều muốn quên. Buổi chiều hôm ấy ở trên đảo
Bidong tôi
lần đầu hình dung Pleiku, một vùng cao nguyên, núi non, có sương mù, có
những
cô gái má đỏ môi hồng, tiềng khèn Tây nguyên, đường phố lưa thưa vắng
vẻ.
Tuyệt.
Làm Gấu nhớ
tới bài viết của "em của Gấu", Đơn Dương ngây ngô quận.
Bài thơ
của Vũ Hữu Định, cái hình ảnh “mai xa lắc”,
từ “lắc”, khủng thật.
VHD nói tới “đồn
biên giới”. Còn ở đây, xa lắc, là Bidong, là lưu vong, là, là… điều gì,
kỷ niệm
gì mà người viết muốn quên đi, nghĩa là muốn [phải] nhớ mãi!
Joseph Huỳnh
Văn, bạn Gấu, thi sĩ, cũng rất mê thơ VHD, nhất là bài này.
Tks. NQT
Bài viết này làm GNV nhớ
bài viết về Đơn Dương, nhưng sau đó,
GNV tự hỏi, hay là G nhớ Đơn Dương và bài viết của em CM trước, và bài
tạp ghi
chỉ là cái cớ, để cho cái nhớ bật ra thành lời, thành chữ?
Hà, hà!
Tuy nhiên, bữa nay đọc
lại, thì lại ngộ ra rằng thì là, bài
viết này làm nhớ nhiều nhớ lắm, không chỉ dung dị có vậy.
Thứ nhất, nhớ những ngày
bỏ chạy quê hương.
Tất nhiên.
Nhớ câu phán của sư phụ
Faulkner (1)
Và nhớ bài viết của nhà
thơ Charles Simic, điểm 1 tác giả mới
tinh, với cuốn đầu tay, là cuốn Sư Tử Hà Đông, Tiger’s Wife, có giới
thiệu trên
TV.
Nhớ nhất là cái câu ông
phán, về cuốn
sách, và về tác giả: The
Weird Beauty of
the Well-Told Tale
Cái
đẹp thật là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành
(1)
Thời gian là
chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà
những kẻ
thắng trận không thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới, một
bãi biển
lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm mồ
chỉ đường,
được nâng niu, gìn giữ không phải bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ
thần
chiến tranh với cành cọ vàng và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu,
một đầy
tớ gái, của chính sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm,
bất động.
Con người thực
ra đâu cần sự thành đạt, cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối
với cả
một quốc gia, một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là
một điều tốt,
cho nó.
William
Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The Road
Back, của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu
luận, Diễn văn, Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern
Library, NY, ấn bản 2004.