ĐỖ QUÝ TOÀN
và
CHÂU
HẢI
CHÂU
Nhà thơ Đỗ Quý Toàn sinh ngày
15-6-1939 tại Bắc Ninh.Thời niên thiếu chạy loạn dọc theo các vùng
thượng du Bắc
Việt. Năm 1954, cư ngụ tại Sài Gòn. Ông là giáo sư văn chương ở các
trường Chu
Văn An, Nguyễn Du. Khởi sự viết văn làm thơ từ 1955. Bài viết của ông
thường
đăng ở Ngàn Khơi, Văn Nghệ, Sống, Lửa Việt, Tân Dân… Đỗ Quý Toàn còn là
một
huynh trưởng hướng đạo Việt Nam, hăng say hoạt động xã hội.
Từ 1975 đến nay (1988), ông ở
Montréal Canada. Đã dạy học tại các trường Võ Bị Hoàng Gia St. Jean,
đại học
Concordia, đại học McGill. Hiện nay ông là giáo sư đại học Québec tại
Montréal
(UQAM) về môn tài chánh xí nghiệp. Ông tiếp tục viết cho các báo tiếng
Việt ở hải
ngoại. Tháng 4-1987, ông cùng các nhà văn Trương Bảo Sơn, Nguyễn Khắc
Ngữ đứng
ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam lần đầu tiên tại Canada.
Đỗ Qúy Toàn lập gia đình năm 1965
cùng dược sĩ Đỗ Quyên, hiện nay đã có ba con: Lu, Phoóc, Kinh Coong.
Chị Quyên
và các cháu là nguồn hứng khởi (chữ Đỗ Quý Toàn) để nhà thơ hoàn thành
tập tiểu
luận “Yêu Con Dạy Con Nên Người Việt”, vừa được nhà xuất bản Văn Nghệ
(Hoa Kỳ) ấn
hành đầu năm 1988.
Những tác phẩm khác đã in tại Việt
Nam trước 1975: Nàng (thơ, 1965), ĐêmViệt Nam (thơ, 1966)
(Những câu hỏi dưới đây của Châu Hải
Châu dành cho nhà thơ Đỗ Quý Toàn và những câu đặt ra cho các tác giả
khác, chỉ
là cái cớ để mỗi tác giả đưa ra những điều cần trình bày, nên câu trả
lời được
yêu cầu thật đầy đủ càng dài càng tốt)
Châu Hải Châu (CHC): Theo tài liệu của
nhà văn Võ Phiến, trước 1975,anh đã có hai tác phẩm Nàng (1965) và Đêm
Việt Nam (1966), cả hai tác phẩm đều là thi tập ? Anh có thể
giới thiệu sơ qua
hình thức
cũng như nội dung của hai đứa con tinh thần đó ?
Đỗ Quý Toàn (ĐQT): Nàng
là một tập
thơ in năm 1965. Tôi thực chưa bao giờ có ý định in thơ. Tập thơ thứ
nhất này,
do một số bạn bè góp tiền in tặng, nhân đám cưới của vợ chồng tôi. Tôi
nhớ có
Trần Dạ Từ, Tú Kếu, Lê Tất Điều, Vũ Dũng, Nguyễn Trung, Dương Nghiễm
Mậu…và cả
anh Phạm Duy nữa. Nguyễn Trung vẽ bìa và vẽ cái mặt tôi in bên trong.
Hình như
mỗi người góp hai trăm đồng thời đó, coi như đi mừng đám cưới.
Tập thơ viết về Nàng,
nhưng không phải
chỉ thơ tình. Có những thao thức tâm linh. Có những rung động siêu
hình. Khi
yêu mình hầu như thấy cả vũ trụ và mình trong vũ trụ.
Tập thơ Đêm Việt
Nam do nhóm sinh
viên văn khoa in năm 1966. Những bài thơ này viết từ 1963. Khi tôi xúc
động trước
thời cuộc như biến cố: hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, đám tang
Nhất Linh.
Nhưng phần lớn các bài thơ đó viết sau khi tôi đã đi nhiều về miền quê
từ vụ cứu
lụt ở miền Trung năm 1964 và tiếp xúc với những đau khổ trên quê hương.
Anh ruột
tôi tử trận năm 1963. Những người bạn khác cũng lần lượt vào nghĩa
trang Quân đội.
Khoảng hè 1966, mấy bạn sinh viên tổ chức các buổi đọc thơ ở khu đất
Khám Lớn,
tức đại học Văn khoa, ở đường Gia Long,
hình như đó là đêm đọc thơ đầu tiên trước công chúng. Tôi nhớ có Trần
Dạ Từ, Tú
Kếu và tôi cùng đọc thơ. Hình như có cả Trần Tuấn Kiệt. Những bài thơ
nói về nỗi
đau khổ không thể ngâm nga được, cho nên chúng tôi đọc, có lúc thét
lên. Có một
nhà văn đàn anh, sau đó đã viết rằng: “Nghe đọc thơ, anh thấy rùng
mình” . Các
bạn sinh viên đề nghị in. Tất nhiên sở Kiểm duyệt không cho in, nên họ
chỉ quay
ronéo, Nguyễn Trung vẽ bìa và phụ bản rất đẹp.
Cả hai tập thơ trên, tôi đều không có
ý định in. Cả hai đều do anh em họ làm giúp. Sau này là tôi cũng tiếc
là mình hờ
hững với thơ quá. Bây giờ muốn in lại làm tài liệu cũng khó tìm hết các
bài thơ
mình có thể vẫn còn thích. Tôi vốn coi chuyện làm thơ
là chuyện rất riêng tư. Mình không nhịn
được thì phải làm thơ, chứ không phải để làm cái gì, để cho ai cả. Đăng
báo thì
dễ dàng. Người ta đọc báo xong thì quên ngay. Góp một bài thơ cũng như
tới họp
mặt với bạn bè, cho vui vậy thôi. Bây giờ ở nước ngoài thì khác. Lắm
lúc muốn đọc
lại thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn, tại lại trách thầm tại sao cái ông “Đinh
Thành
Tinh” đó không in một tập thơ để mình dễ tìm. Anh chị em tản mác khắp
nơi, tìm
một tờ báo lắm lúc cũng khó. Như vậy tôi mong các bạn thi sĩ nên in thơ
thành tập
thì hơn.
CHC: Qua nhận xét của nhà thơ Trần Tuấn
Kiệt, anh là một thi sĩ có “tiếng thơ rất lạ, khi siêu thoát, khi mãnh
liệt…”
và sở trường ở thể tự do, lục bát, điều đó phải chăng có nghĩa anh ít
dùng các
thể loại khác như năm chữ, bảy chữ ?
ĐQT: Trần Tuấn Kiệt là
một thi sĩ hơn là một người nghiên
cứu về các thi sĩ.
Tôi cũng giống Kiệt ở chỗ đó. Chúng tôi đều không đọc thơ của người
đương thời cho đầy đủ. Chỉ đọc những bài
mình thích mà
thôi, bài nào không thích thì bỏ qua. Có lẽ vì vậy khi nói đến thơ,
Kiệt chỉ nhớ
đến hai loại. Thơ tự do và thơ lục bát. Tôi đã viết đủ các loại thơ.
Nhưng thể
lục bát viết ít nhất. Có lẽ vì mỗi lần viết tôi tự thấy trong thơ mình
có ảnh
hưởng của các thi sĩ trước. Những người cùng
thời với tôi như Trần Dạ Từ, Viên Linh, Bùi
Giáng vv…đã vượt thoát
khỏi những ảnh hưởng của người xưa nên lục bát của họ mới lạ, kiều diễm
hơn nhiều.
Tôi chắc Trần Tuấn Kiệt nhắc đến thơ lục bát, và trích mấy bài lục bát,
vì
đương khi viết cuốn sách, Kiệt có sẵn mấy bài lục bát trước mắt. Tôi
biết Kiệt
thích mấy bài thơ anh trích lắm, đã ngâm nga mấy lần cho tôi nghe. Uyên
Thao
khi viết về tôi trong cuốn sách của anh, không trích bài lục bát nào
cả. Uyên
Thao làm việc kỹ lưỡng cẩn thận hơn Trần Tuấn Kiệt. Nhưng tôi thấy ảnh
cũng chỉ
trích dẫn những bài thơ vừa đăng báo trong khoảng thời gian anh đang
viết sách
mà thôi. Thời gian đó tôi và Uyên Thao đang làm việc chung ở một số toà
báo (Diễn
Đàn, Đời…) gần như ngày nào cũng gặp nhau. Nhưng chúng tôi không mấy
khi nói
chuyện thơ. Anh không bảo tôi đưa các bài thơ cũ cho anh coi. Uyên Thao
là một
nhà báo, một chiến sĩ, anh không coi việc thảo luận văn chương là việc
chính.
Không thể bắt anh ấy sưu tầm hết thơ của mỗi tác giả trước khi viết về
họ được.
Lỗi của tôi là không in thơ thành sách, bà con biết thơ tôi nhờ đăng
báo mà
thôi. Nói vậy nhưng cũng phải công nhận, các anh Trần Tuấn Kiệt, Uyên
Thao đã
có công viết mấy cuốn sách về thi ca, giai đoạn sau 1954. Tôi nhớ có
lần gặp
Nguyên Vũ ở đại học Wisconsin, Nguyên Vũ dẫn tôi vào thư viện, tìm thấy
cuốn
sách của Trần Tuấn Kiệt. Mở ra đọc, tôi rất mừng, đi chụp ngay mấy bài
thơ cũ của
mình vì (tất nhiên có mấy bài hay) chính tôi cũng mất mấy bài thơ đó
rồi. Đọc lại
như gặp được người cũ! Nhưng dù sao cũng xin chú ý là anh em nhà in họ
sai nhiều
quá, đọc lại thấy thơ mình méo xẹo cũng buồn lắm.
CHC: Đối với Sáng
Tạo, anh đã thấy những
đóng góp như thế nào trong phong trào “làm mới thi ca”
một thời ?
ĐQT: Theo tôi nghĩ,
nhóm Sáng Tạo là một nhóm có ảnh
hưởng rất quan trọng đối
với thi ca Việt Nam. Chúng ta hồi tưởng lại giai đoạn 1955-1956, lúc đó
tôi
đang bắt đầu gởi thơ đăng báo. Và chúng tôi không thể nào không chịu
ảnh hưởng
của các thi sĩ tiền chiến cũng như các thi sĩ thời kháng chiến. Quang
Dũng,
Hoàng Cầm đã đổi cách diễn tả trong thi ca, họ làm thơ phá thể, cũng
như Đinh
Hùng, Vũ Hoàng Chương. Nhưng quí vị trên còn rụt rè lắm. Họ đổi nhịp
các câu
thơ, viết câu dài câu ngắn khác nhau. Nhưng văn pháp, hình ảnh, vần
điệu chưa
thay đổi. Cách nhìn và cách cảm vẫn theo nếp cũ. Phải đến Thanh Tâm
Tuyền,
Quách Thoại, Nguyên Sa mình mới thật sự thấy những cái mới, khiến mình
sững sờ.
Lúc đó tôi và Trần Dạ Từ gặp nhau gần
như hàng ngày. Trần Dạ Từ ở nhà Nguyễn Thụy Long. Bà mẹ Long nghèo
nhưng bao
dung cả lũ con cháu như chúng tôi. Nhiều buổi sáng tôi đói quá cũng
sang nhà
bác ăn chực, bác lúc nào cũng có chảo cơm chiên. Nguyễn Khắc Nhân, Viên
Linh,
Lê Đình Điểu,Dương Nghiễm Mậu vv… cũng la cà ở đó. Trừ Mậu, Điểu và
Nhân thì
chúng tôi đều rách ghê lắm. Chúng tôi có bài thơ, bài văn là đưa nhau
đọc. Tôi
thường trốn học đến nhà bác Long, nhất là nếu có bài thơ mới đem đến
đọc cho Từ
nghe. Thế rồi chúng tôi đọc thơ tiền chiến, đọc hoài đến thuộc lòng. Lửa
Thiêng, Rừng Phong, Lỡ Bước Sang Ngang..vv. đọc đi đọc lại mãi,
tất
nhiên thơ của
chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng của các thi sĩ trước. Bất cứ thi sĩ trẻ
nào cũng
muốn vượt ra khỏi ảnh hưởng của đàn anh, đàn chị. Viết xong một bài
thơ, ai
cũng thấy thơ mình độc đáo, hay ho, đáng để lại cho muôn đời. Nhưng chỉ
vài ba
tháng sau có khi thấy ngay bài thơ đó không đáng giữ lại, vì không có
gì mới.
Trong khung cảnh đó, chúng tôi đọc
Quánh Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa và thấy họ mới lạ thật , nhất
là Thanh
Tâm Tuyền từ hồi anh ấy đăng thơ trong Lửa Việt và sau in tập thơ Tôi
Không Còn
Cô Độc. Chúng tôi dần dần thấy yêu thơ của họ. Tôi nói dần dần
tức là
mất một
hai năm gì đó, chúng tôi mới bắt đầu thích thơ tự do thật sự. Và khi đã
thích họ
thì bắt đầu chúng tôi tự thấy mình tự do cứ viết như mình thích, không
bị ảnh
hưởng của các đàn anh tiền chiến đè nặng nữa.
Phải nói là thơ tự do lúc mới ra đời
có vẻ Tây, vì ảnh hưởng của các thi sĩ Pháp. Thời “thơ mới” xuất hiện
cũng vậy.
Cũng như Nguyễn Trãi, Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm từng bị ảnh hưởng
thơ Tàu.
Nhưng khi ngôn ngữ của họ đã chín mùi thì ảnh hưởng của Tàu cũng bớt
đi. Giống
như Huy Cận, Hàn Mặc Tử không tây như Xuân Diệu trong “Thơ Thơ”.
Nhưng thơ tự do của anh em Sáng Tạo
không thể có ảnh hưởng lớn như vậy nếu không nhờ hai yếu tố khác trong
tạp chí
đó. Một là các nhà văn Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Nguyễn Sĩ Tế vv…viết lý
luận. Họ
giúp cho tờ báo có bề thế, và nhờ vậy thơ tự do nổi bật lên. Yếu tố thứ
hai là
sự đóng góp của các thi sĩ khác: Tô Thùy Yên, Duy Thanh, Phạm Nguyên
Vũ, Kiệt Tấn,
Mai Trung Tĩnh, Vương Tân vv…Họ tiếp tay cho những người mở đường và
không ai
còn cô độc nữa. Mấy năm sau đó thì các vị đàn anh như Vũ Hoàng Chương,
Đinh
Hùng cùng góp thơ cho Sáng Tạo.
Tờ báo nghiễm nhiên trở thành một tờ
báo của
Văn Học Miền Nam, không phải chỉ là một nhóm trẻ “tân thời”. Rất tiếc
là thời
đó chế độ Ngô Đình Diệm kiểm duyệt quá nặng nề nên tuy có tự do nhưng
các văn
thi sĩ vẫn chưa khai phá hết những cái mới. Tờ Sáng Tạo lại còn bị nhóm Văn Đàn
của mấy anh em đảng Cần Lao đả
phá, có khi chụp cho cái mũ cộng sản
nữa. Tôi đã
nêu ý kiến này trong một bài khác, nói chuyện thơ.
Tất nhiên ảnh hưởng của Sáng Tạo quan
trọng nhưng những nhóm khác cũng đóng góp rất nhiều vào vai trò duy trì
một nền
văn chương rất đa diện, rất phong phú ở miền Nam Việt Nam. Phải, khi so
sánh với
văn chương miền Bắc chúng ta mới hiểu nền văn chương miền Nam giàu có
và sống động
hơn nhiều.
CHC: Anh có nghĩ rằng
ngôn ngữ thi ca hôm nay, tại quê
người đang dần dần bế
tắc và “nhai lại” như một nhạc sĩ danh tiếng đã nhận định về nhạc ?
ĐQT: Tôi không theo dõi
tình hình ca nhạc với các tác giả
mới nên không rõ mặt
đó Những bài mới của anh chị Hưng Ca, của Hoàng Quốc Bảo … cũng nhiều
khám phá
đó chớ ?
Tôi không nghĩ là thơ ca hiện nay ở
nước ngoài đang bề tắc, nhai lại. Phải nói ngược lại mới đúng. Những
người làm
thơ trẻ bây giờ dùng ngôn ngữ trác tuyệt, mới lạ vô cùng. Đọc Ngu Yên
thử coi.
Ngu Yên làm thơ tưng bừng sung sướng, thoải mái. Tôi vẫn muốn viết về Tựa Đề
Bên Trong và Hóa Ra Nét Chữ
Lên Đường Quẩn Quanh mà chỉ sợ mình chưa
thấm thía
hết được những cái hay lạ trong ngôn ngữ Ngu Yên.
Thơ Nguyễn Bá Trạc thật vượt thoát, tự
do đưa tiếng Việt vào miền đất lạ. Bắc Phong, Cao Đông Khánh vv… có
tiếng nói độc
đáo của họ. Chúng ta có bao nhiêu tiếng nói mới trong thơ ca. Nguyễn
Mạnh
Trinh, Lâm Hảo Dũng, Hoàng Xuân Sơn, Phan Ni Tấn chưa kể những người
viết đã
lâu như Chu Vương Miện, Thái Tú Hạp, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Đức Bạt Ngàn,
Nguyễn
Tất Nhiên, Trần Nghi Hoàng vv và vân vân. Trong lúc trả lời vội vàng
cuộc phỏng
vấn này không thể nhớ hết được. Kiệt Tấn làm thơ nghe cũng sướng quá
trời.
Chính vì những thi sĩ đó mà tôi có ý
nghĩ là dòng thơ văn hải ngoại cuối thế
kỷ 20 này sẽ đóng góp vào lịch sử Văn Học Việt Nam nhiều hơn dòng văn
học trong
nước. Tôi mới đọc một tập thơ (của Thanh Thảo) và một tập ký (của Hoàng
Phủ Ngọc
Tường) xuất bản năm 1985 ở trong nước. Họ là những người có tài, đọc
thì thấy
rõ. Nhưng những tác phẩm của họ nghe tưng tức như người vừa nói vừa bịt
mũi, bịt
miệng, vừa lo nhìn trước sau. Họ muốn làm mới tiếng nói, làm mới văn
chương.
Nhưng không có tự do thì văn nghệ không thể có khám phá và sáng tạo
được. Đọc một
bài thơ sang bài sau thấy lối mòn và ngõ cụt.
Ở nước ngoài thì ngược lại. Không những
mình tha hồ viết, tha hồ in, mà mình lại va chạm với văn thơ thế giới.
Mình
không còn phải trói mình trong qui thức của ngôn ngữ cũ nữa. Tất nhiên
tự do
cũng có nhược điểm, mình thấy báo lá cải, nhiều văn khiêu dâm, nhưng đó
là cái
giá phải trả để được tự do.
Còn sang thế kỷ 21 thì sao ? Tôi nghĩ
đến lúc đó thì mình đã mang thơ văn ở hải ngoại về cho bà con trong
nước đọc và
nối tiếp dòng văn học Việt Nam chính thống từ thời Nguyễn Trãi, Hồ Xuân
Hương,
không dứt đoạn. Lớp đàn em sanh bây giờ ở nước ngoài có
thể trong 20 năm nữa chỉ còn 10 đến 20 phần
trăm đọc thông tiếng Việt. Nhưng bà con trong nước họ vẫn đọc tiếng
Việt. Mình
viết cho tất cả mọi người Việt Nam đọc, đâu phải chỉ cho người ở nước
ngoài ?
Anh biết ông thi sĩ Nga Brodsky mới được giải Nobel năm rồi ? Hai tháng
trước
ông mới đến nói chuyện ở trường tôi, đại học McGill. Khi người ta yêu
cầu ông tự
đọc thơ, ông nhất định đọc bằng tiếng Nga, tiếng mẹ đẻ của ông, chứ
không đọc bản
dịch tiếng Anh. Ông đọc xong, có người khác đọc bản dịch. Sách của
Pasternak ba
chục năm sau dân Nga mới được đọc. Sách của Soljenitsyne chắc còn đợi
năm mươi
năm nữa mới về đến Nga. Người Việt mình thì chắc lẹ hơn…Cán bộ cộng sản
ra nước
ngoài có khi dấm dúi mang về một tập thơ Ngu Yên khoe bà con. Tôi luôn
luôn
nghĩ đến viễn tượng đó. Vì vậy tôi ước mong anh
chị em ở nước ngoài không nên nghĩ mình chỉ viết
cho bà con ở
Montréal, Paris, Sydney hay Orange County đọc. Mình còn viết cho người
Việt ở
trong nước nữa.Bây giờ họ chưa được đọc thì mười năm nữa họ sẽ đọc. Khi
họ đọc
câu thơ: … “Mưa theo chân bước tà tà / mưa bình yên nối tiếp ta với
trời” (Luân
Hoán) những giọt mưa đó đâu nhất thiết là mưa ở Montréal ? Ở Đà Nẵng, ở
Bạc
Liêu…cũng vậy thôi. Như thế nghĩa là mình ở đây nhưng mình vẫn đóng góp
cho tiếng
Việt, người Việt khắp nơi, thời nay đời sau. Một ông bạn ở Sài Gòn viết
thư nhắc
nguyên văn một câu tôi đăng trên báo Văn
Học ở California (một người
nào ở
Paris về đọc lại cho nghe). Nghe vậy khi tôi viết tôi tự thấy mình phải
thận trọng
hơn nhiều lắm.
CHC: Nghe
tin nhà xuất bản Văn Nghệ ở Cali Hoa Kỳ vừa cho phát hành một tác phẩm
của anh.
Đây là tập thứ nhất anh cho ấn hành tại hải ngoại? Sách viết ở thể văn
xuôi
nhưng cũng đầy thơ ? Cũng xin anh cho biết động cơ nào thúc đẩy anh
hứng khởi
góp ý cùng các bậc cha mẹ hiện ở xứ người qua một tác phẩm giàu công
sức và ý
nghĩa như thế ?
ĐQT: Nhà Văn
Nghệ mới in cuốn Yêu Con, Dạy Con
Nên Người Việt gồm những bài tôi viết
từ
1983-1984 đến 1987. Tôi không biết sách có vị thơ hay không, nhưng có
lúc đọc lại
những đoạn viết về mẹ tôi và cha tôi, tôi cũng rất cảm động. Đọc lại
bài viết về
bữa cơm gia đình cũng thấy lòng mình an hòa trở lại. Tôi nghĩ đó là đọc
“văn
mình” cho nên nó mới thấm thía như vậy.
Tôi khởi sự viết loạt bài trên khi đọc
một bài báo ở California của anh Giao Chỉ năm 1983. Anh kể chuyện một
đứa bé Việt
Nam 13 tuổi phạm tội giết người. Tôi lo nghĩ hết sức. Tôi có ý mỗi bà
con các
nơi cùng thảo luận chuyện dạy chữ Việt hay dạy văn học lịch sử Việt.
Nhưng là
chuyện tập nếp sống thuần hậu của người Việt mà từ bé mình vẫn tập theo
gương tốt
của ông bà cha mẹ. Khi suy nghĩ tiếp về chuyện trên tôi mới nhận ra văn
hóa,
truyền thống không thể học ở trong sách, mà ở chính mỗi người chúng
mình. Khi
có bạn hỏi thế nào là lối sống Việt Nam ? Tôi đề nghị mỗi người hãy nhớ
lại hồi
nhỏ của mình được ông bà cha mẹ dạy những gì. Từ hồi đó đến giờ mình
vẫn bỏ
ngoài tai, bây giờ thử nhớ lại và tập lại đi, tự nhiên các con nó sẽ
học. Từ đó
mới lại nhận ra rằng không thể giữ được truyền thống Việt nếu không có
đời sống
gia đình. Tôi viết ít bài về nếp sống gia đình. Điều rất cảm động là có
nhiều vị
đàn anh cũng như bạn bè đã khuyến khích tôi. Nhiều bài đã được các báo
ở đâu
đâu tự ý đăng lại mà không cho biết. Có bữa đến Tổ Đình Từ Quang gặp
giáo sư
Nguyễn Văn Phú, ông bảo ông vừa chụp một bài của tôi để gởi cho mấy
người bạn ở
Úc, ở Pháp. Có lần tôi nhận được thư của người bạn ở California anh
nói: “Tòa
báo chúng tôi đang đổi giờ làm việc, để anh chị em phải về nhà sớm ăn
cơm tối với
các con, theo đề nghị trong bài của ông”. Tôi nghĩ chúng ta đều có nhu
cầu củng
cố gia đình. Ai cũng lo chuyện lớn như lập Viện văn hóa, chuyện đoàn
kết cả triệu
người Việt hải ngoại, nên ít có người lo chuyện nhỏ như làm sao cha mẹ
bày tỏ
tình yêu thương với con. Mà chuyện đó cũng quan trọng, mà hồi nào tới
giờ mình
không thấy mấy ai bàn đến chuyện đó.
Vì vậy tập tiểu luận của tôi thực sự
là nói về tình yêu. Tôi không dám bàn về chuyện giáo dục nói chung. Tôi
nhận thấy
mình rất vụng về khi muốn tỏ cho các con thấy rằng mình yêu chúng. Mà
nếu trẻ
nó không yêu mình thì làm sao nó học nơi mình ?
Nói đến học, chúng ta thường nặng nề
về phần lý trí. Chúng ta dùng nửa bên trái của khối óc để lý luận, phân
tích.
Nhưng dạy trẻ là tìm cách ảnh hưởng đến tác phong (behaviour) của chúng
chứ
không phải dạy cho chúng biết và hiểu mà thôi. Chúng ta chỉ dạy các con
được nếu
có thông cảm, có tình thương yêu. Vì vậy tôi nêu lên khẩu hiệu “Gia
Đình phải
là một tổ ấm” . Tình cờ hồi 1984 bài “Tổ Ấm” được đăng ở báo Diễn Đàn,
ở Paris,
tôi được đọc cuốn tiểu thuyết từ trong nước gởi qua. Cuốn đó cũng mô tả
sự tan
rã của gia đình và đạo lý. Một nhân vật trong đó nói: “Phải biến gia
đình thành
một pháo đài cố thủ”. So sánh hai hình ảnh gia đình, một nghĩa là tổ
ấm, một
nghĩa là “pháo đài”. Rõ ràng hai tâm trạng, hai hoàn cảnh, hai cách suy
nghĩ khác
nhau. Chỉ mừng là ở trong nước cũng có người đang thắc mắc và lo lắng
như mình. Từ đó mỗi lần tôi
viết, tôi cũng nghĩ đến bà con trong nước nữa.
Tôi không dám nhận là cuốn sách mới
in là hay lắm. Nếu có thì giờ đáng lẽ tôi sẽ viết lại hơn nửa. Vì khi viết để đăng báo tôi viết vội vàng.
Trước khi nhà Văn Nghệ in tôi
chỉ kịp cắt bớt một ít đoạn, sửa một ít
câu. Nếu
có ý định in sách thì tôi viết khác, có mạch lạc hơn và lời văn nhất
quán hơn.
Tôi chỉ hy vọng cuốn sách này có lợi vì
nó gợi cho độc giả suy ngẫm, và chính khi suy ngẫm thêm quý vị sẽ tìm ra những dấu hiệu hữu dụng, thực tế mà tôi không
hề nghĩ tới. Cũng có một vài bài tôi đang viết dở mà không kịp cho vào
cuốn
sách. Thí dụ về cái Tivi trong nhà, về cái đức cần kiệm . Tôi chỉ kịp
viết thêm
ít đoạn vào các bài đã có sẵn. Tôi muốn viết kỹ hơn về ngày giỗ, nói
chuyện
thêm về phúc đức ông bà, về liên lạc họ hàng, nhưng thật chưa có thời
giờ bàn bạc
với anh em nên chỉ nêu được một ít điều trong cuốn sách đó.
CHC: Không dám xin anh những ý kiến về
thi ca, vì hình như anh đã hoàn tất tác phẩm “Nói Chuyện Về Thơ” ? Khi
nào anh
sẽ đọc giả được phép giữ trong tủ sách gia đình tác phẩm công phu đó ?
ĐQT: Loạt bài “Nói Chuyện Thơ” đăng
báo từ 1985. Tôi vẫn còn đang viết dở, chưa biết bao giờ mới xong. Cuối
năm
1986 thì tôi sang California, anh em Người Việt có dặn bao giờ xong để
họ in.
Tôi đâu dám từ chối. Tôi hy vọng sẽ viết thêm ít bài vào mùa xuân năm
nay, khi
học trò thi cử xong. Nói chuyện thơ thì nói hoài không hết. Không thể
nói là
“xong” được phải không ?
CHC: Số lượng thơ của anh trong mười
năm nay hình như có phần giảm so với sức viết thời còn ở quê nhà. Phải
chăng vì
những bề bộn của cuộc sống mới. Hoặc vì phải dành thì giờ để thực hiện
những
công trình lớn hơn ? Có thể cho anh em biết dự tính cho ngày mai của
anh ?
ĐQT: Nhiều lý do khiến thơ ít viết
hơn. Một là tuổi tác. Thơ phải bồng bột, hứng khởi, bất ngờ. Ở tuổi
tôi, với
công việc hàng ngày giây phút đó hiếm lắm. Tôi viết nhưng cơn hứng
nguội thì lại
bỏ đi. Một lý do nữa là hàng ngày phải nói tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Việt
nói không đều, không tiếp xúc với anh em văn nghệ Việt Nam thì làm sao
có hứng
khởi làm thơ luôn chứ ?
Nhà Văn Nghệ đề
nghị năm nay xuất bản
một tập thơ của tôi. Có thể tôi sẽ chọn một số bài tôi viết ở Canada từ
năm
1975 để in thành tập “Cỏ Và Tuyết”. Thơ cũ thì tôi phải sưu tầm. Anh
Nguyễn
Đăng Thường ở London (Anh quốc) còn giữ được ít bài thơ tôi đăng báo
hồi 1960.
Tôi cũng có dự định sẽ viết về 25 năm thi ca Việt Nam ở nước ngoài
(1975-2000)
vì vậy tôi có nhắn tin xin anh chị em gởi cho tôi những bài thơ đắc ý.
Rất nhiều
vị hưởng ứng. Thế là tôi mang một món nợ rồi. Chúng ta rất biết ơn anh
Võ Phiến,
khi anh có ý soạn bộ Văn Học Miền Nam
từ 54 đến 75. Anh Viên Linh cũng
có ý định
đó. Tôi muốn sang thế kỷ 21 bà con ở trong nước cần tài liệu thì mình
có ngay
cho họ kẻo rồi mấy chú cán
bộ dốt nó viết tào lao chả ra gì cả.
CHC: Thay mặt độc giả Sóng, thành thật
cảm ơn anh Đỗ Quý Toàn và xin anh cho đọc giả đọc lại một bài thơ của
anh. Bài
gì có câu: “hai đứa ngồi đó như hai hòn bi” ấy. Tưởng cũng nên hỏi anh
xuất xứ
bài này.
ĐQT: Bài này được nhiều người biết vì
anh Phạm Duy phổ nhạc hay quá xá. Vì anh mà nhiều người gọi tôi là “thi
sĩ hai
hòn bi”. Viết vào khoảng năm 1959 in lần
đầu trên báo Ngàn Khơi khoảng
1960-1961. Ngày đám hỏi tụi tôi, năm
1964, tôi đọc
cho bạn bè nghe. Anh Phạm Duy có ở đó, bảo đưa anh đem về. Một tuần sau
anh gặp
tôi ở đường Lê Lợi dừng lại hát cho tôi nghe liền. Nghe chị Thái Thanh
hát ở
Đêm Màu Hồng đã lắm.
Chuyện Tình
Thơ Đỗ Quý
Toàn
Ôi anh yêu
em vì em biết nói
Em đã biết
thưa em còn biết gọi
buổi sáng trời
mưa khiến anh nhớ em
bây giờ trời
nắng anh nhớ em hơn
ngồi xuống
đây đi nghe chim đang hót
đồng cỏ bàn
tay trời cao mắt ướt
khi ngó nhau
thôi còn biết nói gì
hai đứa ngồi
đó như hai hòn bi
có cánh hoa
đẹp anh hái cho em
em không
thèm nhận anh chết cho xem
và anh sẽ
khóc miên man suốt ngày
ôi chả bao
giờ buồn như bữa nay
này em yêu
quý em có biết nghe
trên cánh đồng
cỏ có con bò kia
nó kêu “bò”
“bò” và nó ăn cỏ
trời hôm nay
cao, yêu em, hỡi gió
và trên đỉnh
đồi có cây to tướng
ở một cành
ngang có một tổ kiến
có con đi ra
có con đi vào
trời hôm nay
nắng, yêu em xiết bao
này em yêu dấu
em nào có hay
hồi nãy trên
trời có con chim bay
có con chim
nó bay qua trên trời
trời xanh đến
thế đôi mình lứa đôi
*
Trích tạp
chí Sóng, số 71 phát hành vào
tháng 4 năm 1988
Ghi chú:
1/ Tạp chí
Sóng (ISSN 08222-4266) là tờ báo
của
thuyền nhân Việt Nam (The Vietnamese
Boat People’s Magazine), Chủ nhiệm Nguyễn Tăng Chương (nhà giáo). Chủ
bút: nhà
văn Minh Đức Hoài Trinh. Tòa soạn đặt tại
thành phố Toronto Canada. Hiện nay báo đã đình bản.
2/ Nhà thơ Đỗ
Quý Toàn còn dùng các bút danh Vương Hữu Bột, Đạo Cấy, Ngô Nhân
Dụng…Hiện ông sống
và làm việc tại Hoa Kỳ. Từng giữ chức Chủ bút tạp chí Thế Kỷ 21 trong
nhiều
năm. Bạn đọc có thể gặp bài viết của ông đều đặn trên tạp chí Thể Kỷ
21. Người
Việt Oline qua các bài bình luận chính trị, kinh tế,văn học,câu chuyện
bàn tròn
vv…
Tác phẩm in
tại hải ngoại: Yêu Con, Dạy Con Nên
Người Việt (tiểu luận, 1988), Cỏ Và
Tuyết
(thơ, 1989), Đổi Mới Kinh Tế (biên khảo), Tìm Thơ Trong Tiếng Nói (biên
khảo,
1992)
Nguồn: Trang
Luân Hoán