Felix
Culpa: Đọc Nắng Hồng
Phương Nam
tiểu thuyết của Nguyễn Chí
Kham
NQT
"Ở nơi
đó, cũng vậy,
giữa những ống khói, trong những quãng ngừng của khổ đau, có một cái gì
giống
như là hạnh phúc.... Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc ở trại tập trung,
điều mà
tôi sẽ nói tới sau này, khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người
hỏi.
Thì cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi, hạnh phúc".
Kertesz: Mặt Trời Auschwitz
Trước
tiên, người viết cần
xác định, đây không phải là một bài điểm sách, theo đúng nghĩa của nó.
Chỉ là
tản mạn xung quanh một vụ nắng, và một vụ mùa. Về những điều bật ra,
khi đọc,
có khi chẳng liên quan gì tới cuốn sách.
Sau đây là một vài gợi ý.
- Nắng Hồng Phương Nam
[NHPN] viết về một
thời kỳ sau 1975. Nhân vật chính từ giã cuộc đời thường để vào cuộc đời
tù. Độc
giả, từ những dòng tóm tắt như thế, tự nhiên là sẽ có ý nghĩ, chắc là
"căng" lắm đấy. Nhưng không phải như vậy. Cuộc giã từ, đổi đời thường
lấy đời tù diễn ra rất ư là "êm ả", trong khi thực tế không phải như
vậy. Ngay cả khi cho rằng, bởi vì đây chỉ là một cuộc du ngoạn diễn ra
chừng 10
ngày, theo như thông báo của nhà nước mới, nó cũng không thể êm ả như
vậy. Tại
sao tác giả lại chọn một cách viết như thế?
- Cách viết giả
tưởng, và lịch sử vốn đi
kèm với nó, đặc biệt, lịch sử Lò Thiêu, Trại Tù của một số tác giả như
Kertesz,
Sebald... liệu có thể áp dụng để giải thích NHPN?
- NHPN: Chỉ là
Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi, tập
truyện đầu tay của NCK, nối dài, trải rộng ra?
- NHPN: một great
design? Một cách nhìn
khác về Trại Tù?
Và như một geat design, cho
dù thất bại, vẫn đáng một ngọn đèn cầy (Brodsky viết về Akhmatova)?
- Trừ những bài
ca phản chiến theo đúng
nghĩa của nó, và bây giờ trở thành "void", những bản nhạc tình ca của
Trịnh Công Sơn cứ sống hoài, tuy được viết ra từ những ngày phản chiến
đó. Liệu
NHPN là một lập lại kinh nghiệm trên?
Từ những gợi ý trên, đưa đến
nhận định chìa
khóa, về cuộc chiến VN, nhìn từ phương nam: một cuộc chiến không thể có
anh
hùng miền nam?
*******
Ông viết, "Một cuốn sách phải quậy nát
bấy, những vết thương... Một cuốn sách phải là một hiểm nguy. Những
cuốn sách
của ông, chúng nguy hiểm theo nghĩa nào?"
"Thì đúng như vậy. Hãy
nghe này:... khi cuốn "Précis...." của tôi ra lò, một tay phê bình
của tờ Thế Giới (Le Monde) gởi cho tôi một lá thư, với lời trách móc:
'Ông
không nghĩ đến hậu quả, nếu cuốn sách lọt vào tay mấy người trẻ tuổi?'.
Thật là
phi lý! Sách phục vụ lớp trẻ? Phục vụ như thế nào? Dạy dỗ chúng? Giúp
chúng
học? Nếu như vậy, chúng chỉ cần tới trường, tới lớp."
"Không, tôi cho rằng
cuốn sách đúng là một vết thương. Nó phải thay đổi cuộc đời của người
đọc, cách
này hoặc cách khác.... Một bà viết về tôi, mới đây, trên tờ Le
Quotidien de
Paris: 'Cioran viết điều mà người ta phải nói thầm, khi nhắc lại'. Tôi
không
viết, theo nghĩa 'làm ra một cuốn sách', để cho người ta đọc. Không,
tôi viết
để hất đi một gánh nặng cho tôi. Nhưng rồi sau đó, khi nghĩ về 'nhiệm
vụ của
những cuốn sách của tôi' (la fonction de mes livres), tôi nói với mình,
chúng
phải như một vết thương. Một cuốn sách, mà người đọc 'vũ như cẩn' sau
khi đọc
nó, là một cuốn sách vứt đi."
Cioran
Kafka cũng từng nói như vậy:
Ông viết cho bạn
là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những
cuốn
sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay
động
chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì
ích chi
đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta
hạnh phúc
biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc,
chúng
ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống
như gặp
một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân
thiết mà
chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống
xuất tới
một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn
sách phải
giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin
như
vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn,
trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
**********
Người viết quen Nguyễn Chí Kham
từ những ngày
ở Quán Chùa. Khi còn tờ Nghệ Thuật, và Sài Gòn còn tương đối thanh
bình. Thập
niên 1960. Đọc bài văn đầu tiên của anh, trong mục Những Người Viết
Mới, trên
Nghệ Thuật do Viên Linh làm tổng thư ký.
Ngồi Quán Chùa, anh cho biết,
đó không phải là
bản văn đầu tay. Anh đã từng viết trước đó. Đã có nhiều truyện ngắn
đăng trên
báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Đã lãnh tiền nhuận bút nhiều lần. Những truyện
ngắn
đó, tuy không tệ, vì được chọn đăng, nhưng anh muốn, một cách viết
khác. Đoản
văn trong mục Những Người Viết Mới là thử nghiệm đầu tiên, cho một thứ
văn học,
khác. Tôi nói, tôi thường đọc Tiểu Thuyết Thứ Năm, và biết những truyện
ngắn ở
đó như thế nào. Và một khởi đầu như vậy, dù muốn hay không muốn, nó
cũng bám
chặt lấy anh. Đọc Nắng Hồng Phương Nam là thấy ngay điều đó. Câu chuyện
có thể
dài hơn nữa, dầy hơn nữa. Nhưng không phải như vậy. Tôi nhớ, Faulkner
đã từng
nói, trong một truyện ngắn, cái lấy ra khỏi quan trọng hơn là cái giữ
lại. [
Barthes: Sự đánh giá của chúng ta chỉ trông cậy vào thực tập, và thực
tập này
là của việc viết. Một bên, là cái có thể viết, và một bên là cái không
còn có
thể viết: Cái gì nằm trong thực tập viết, cái gì đã bị bỏ đi, đã rời
khỏi nó.
Bản văn nào tôi bằng lòng viết (lại viết), mong viết, thèm viết....?:
Our
evaluation can be linked to a pratice, and this pratice is that of
writing...
(S/Z, trang 4, bản tiếng Anh của nhà xb Hill and Wang, New York]. Tôi
nghĩ,
định luật này phải áp dụng cho cả truyện dài. Khởi đầu dễ dãi quá làm
hỏng
những trang viết tiếp theo. Theo nghĩa này, người ta cho rằng câu mở
đầu là rất
quan trọng. Bạn cứ viết được câu mở, là có thể kéo dài nó. Cũng vẫn
theo nghĩa
này, Walter Benjamin cho rằng những mẩu đoạn mà một nhà văn lớn hì hục
với
chúng, nặng ký hơn so với những tác phẩm đã hoàn tất. Trường hợp này đã
từng
xẩy ra trong văn học. Trên tờ Người Nữu Ước, đã lâu lắm, nhắc tới một
nhà văn Mỹ
rất nổi tiếng, thuộc loại best-sellers, tôi không còn nhớ tên (tác giả
một cuốn
sách đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người Lữ Hành Kỳ Dị), ông
này đúng
ra có thể viết những tác phẩm "vượt thời gian", nhưng lại bằng lòng
làm một tác giả best-seller. Tờ báo kết luận, ông ta đã "bán rẻ" tài
năng của mình.
{Tác giả này tên là Harold
Robbins]
Trong NHPN có những câu văn
thuộc loại bán rẻ, bên cạnh những câu văn thuộc loại bán đắt. Thí dụ
như, ngay
ở đoạn đầu...
Câu mở đầu là rất quan trọng,
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, tôi đã từng trải qua một kinh nghiệm như
thế.
Chấp nhận thành công dễ dãi kéo theo những tác phẩm dễ dãi. Có thể có
người
nghĩ khác, nhưng với tôi, đây là một " kỷ luật", đối với ai đó tính
lựa chọn cuộc đời "trăm năm rách nát với văn chương". (Nguyễn Du).
Beckett còn khó hơn nữa: Hãy thua. Thua nữa. Thua cho bảnh.
*****
Theo
tác giả một cuốn sách
viết về Chekhov, William Faulkner đã lấy Chekhov làm thí dụ, 'Trong một
truyện
ngắn, bạn càng nói nhanh, càng giản tiện về một điều, một chuyện, và
nếu được,
thì đây là thứ số một, như Chekhov, khi ông sử dụng mỗi lần hai hay ba
ngàn từ.
Nếu không được thứ số một, ông phải dùng tới tám chục ngàn từ'. Về
truyện dài,
ông nói, "Trong một cuốn tiểu thuyết, bạn có thể cẩu thả, nhưng trong
truyện ngắn, không thể cẩu thả. Tôi nói tới những truyện ngắn của
Chekhov.
Chính vì vậy mà tôi coi tiểu thuyết là thứ hạng nhì.... trong truyện
ngắn bạn
phải hết sức chính xác."
Chekhov vốn không viết được
truyện dài, và để giải thích cho sự không thể viết: "Chỉ những nhà văn
thuộc nòi phong nhã [issu de la noblesse] mới biết viết tiểu thuyết.
Còn chúng
ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt quá sức chúng ta."
[Roger Grenier, Hãy nhìn
tuyết rơi (những ấn tượng về Chekhov), nhà xb Gallimard, tủ sách Folio,
1992]
Nguyên văn câu của Faulkner:
"Vâng, thưa Ngài. Ngài
có thể cẩu thả, có thể bỏ rác vào trong một cuốn tiểu thuyết, và người
đọc sẵn
sàng bỏ qua. Trong một truyện ngắn, kế bên thơ, hầu như mọi từ phải
đúng... Tôi
muốn nói những truyện ngắn hay, như của Chekhov. Chính vì vậy mà tôi
coi nó
hạng nhì, bởi nó đòi hỏi chính xác gần như tuyệt đối. Đâu có chỗ thừa
để mà cẩu
thả. Đâu có chỗ bỏ rác."
(Faulkner ở Đại Học, trang
207)
***
Khi
người ta viết [được], thì
hà cớ chi mình [còn cố mà]... viết?
Tôi có đọc được ở đâu đó, trong
cái cõi văn
Việt, một ông nhà văn có tuổi, trong thư gửi một người bạn trẻ lăm le
viết,
rằng, hồi còn nhỏ, ông ta mê đọc lắm, có đồng nào, là cúng cho tiệm cho
mướn
truyện, đồng đó. Rồi tới một lúc, ông tự hỏi tại sao người ta viết
được, mà
mình lại chịu... thua, [chịu bỏ tiền ra mướn truyện]?
Thế là ông viết, và trở thành
nhà văn.
Tôi nghĩ, ông ta dù thế nào
đi chăng nữa, cũng có chút thành thực, khi nhìn lại cái thuở tập tành
viết của
mình. Rằng cái chuyện viết nó cũng chẳng ghê gớm gì lắm đâu. Sartre
cũng đã
từng khuyên y chang như vậy, khi nói: Muốn biến một câu chuyện trở
thành một
cuộc phiêu lưu, thì cứ việc ngồi vào bàn, và viết.
Giống như một anh chàng lần
đầu mê gái, ẩn tàng trong công việc ngồi vào bàn, và viết, là một chân
lý của
văn chương, khi dám liều mình làm quen với... mớ chữ!
Nhưng giả sử có người hỏi
tiếp: Nếu người ta viết được mà tôi cứ cố tình chịu... thua, vưỡn cố
tình không chịu...
viết, thì sao?
Nói rõ hơn, cái việc tớ ngồi
vào bàn và viết đó, nó không liên quan gì đến người khác. Người khác
viết được
hay không, tớ đếch cần. Điều [tớ] cần, là [tớ] viết!
[Khi ngồi vào bàn, hãy nhớ
một điều thật là quan trọng: Sau những văn chương Cách Mạng, Hiện Thực
Xã Hội
Chủ Nghĩa, Chống Cộng, Chống... CỦA CHÚNG TA, bây giờ chỉ còn độc một
thứ: văn
chương của tớ, của cậu....]
Hoặc nói bảnh hơn, riết róng
hơn: Chỉ khi nào tớ thấy rằng, cậu viết không được, nên tớ mới đành
phải...
viết!
Vả
chăng, những kẻ thật biết
viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn?
(Lý Trác Ngô. Tựa Tây Sương
Ký).
Người
khác viết được, tớ chỉ
cần đọc, chẳng cần viết làm gì cho nó mệt... c[ử] [ả] mình!
Đây là ý nghĩa câu của
Barthes: Khi nhà văn xuất hiện, là mở trong hắn ta/ chị ta, một vụ án
văn
chương. Và cái gọi là văn chương tiền phong, trước hết, và trên hết, là
một yêu
cầu tự thân, và chỉ chỉ liên can tới, chỉ một nguời.
Thí dụ như Nguyễn Du, chẳng
hạn. Khi Truyện Kiều xuất hiện, người ta biết được một điều: văn chương
chỉ có
mỗi một nhiệm vụ, là ca tụng cái đẹp, thí dụ như thân thể một người đàn
bà,
nhất là khi người đó đang... tắm:
“Rõ ràng trong ngọc trắng
ngà,
“Sờ sờ trước mắt một tòa
thiên nhiên!”
Coetzee
lại giải thích khác,
khi đi tìm ngưyên nhân của cái việc viết
dở như hạch ở một số tác giả...
Bởi vì, cũng chính Sartre, đã
để cho nhân vật của mình, là anh chàng Roquentin,
Trong khi mơ màng nghe một
nàng Kiều đen hát, qua dĩa nhạc Jazz, tại xen cuối ở Điểm Hẹn
(Rendez-vous des
Cheminots) trong Buồn Nôn:
Some of these days, You'll
miss me honey."
[Một ngày nào em sẽ nhớ
anh...]
Và mơ tưởng viết về một cuộc
"phiêu lưu": "Nó phải đẹp
và cứng như thép"....
[Il faudrait qu'elle soit
belle et dure comme de l'acier]
[Phiêu Lưu_Viết_ Dục Vọng
Cương Cứng Mong Được Trường Tồn_Le Dur Désir De Durer_ Belle et Dure
Comme De
L'Acier]
Buồn
Nôn thoạt đầu có tên
Buồn Phiền: La Mélancolie. Cái tít này, Sartre mượn của Durer, một họa
sĩ Đức
(được nhắc tới trong Les Mots).
Thân Phận Tình Yêu, của Bảo
Ninh, sau đổi là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Liệu Nắng Hồng Phương Nam,
một cái tên vô thưởng vô phạt, huề vốn như thế, là nhằm trung tính hóa
(neutraliser), những cái tên như Bếp Lửa, Nỗi Buồn, Dựa Lưng Nỗi Chết,
Mùa Hè
Đỏ Lửa, và sau này, Đáy Địa Ngục, Đại Học Máu....?
Cũng vẫn Sartre, trong bài
viết về Francois Mauriac, sau in lại trong Nhận Định I (Văn Chương Là
Gì?), cho
rằng, "Sách nói cho cùng chỉ là mớ giấy lộn, nhưng coi chừng, nó còn là
một con đại bàng đang chuyển động”
(nguyên văn: một cái dáng lớn
đang chuyển động, une grande forme en mouvement).
Con đại bàng đang xỏa hết hai
cánh rộng của nó đó, là: Sự Đọc. La Lecture.....
“Một cuốn tiểu thuyết lớn phồng
ra bằng thời
gian của những độc giả của nó (un roman... se gonfle, et se nourrit
avec le
temps de ses lecteurs).”
******
Trong bài trả lời phỏng vấn của Thanh Tâm
Tuyền (La Part d' Exil; trong lời giới thiệu, Lê Hữu Khóa đã coi ông là
một tác
giả đáng gờm nhất, le plus redoutable, đối với giới phê bình Việt Nam,
do tính
sáng tạo đa dạng, do lý thuyết văn chương tổng hợp), ông viết: Sau khi
được
giải phóng - après ma libération, tức là sau khi ra khỏi trại tù, chứ
không
phải sau 1975 (người viết bài này thêm vô) - trên con đường trở về,
việc đầu
tiên mà tôi làm, là cúi gập mình ghi chép những bài thơ đã được ký ức
lưu giữ
suốt thời gian bị giam giữ... Tôi là một kẻ sống sót, nhưng tôi không
muốn là
nhà văn nữa, như tôi từng mong muốn. Khi ở trong trại tù, tôi đã viết
trong ký
ức: Viết, phải làm sao, đối với tôi, như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có
gì thay
đổi. Và bây giờ, tôi tự bảo mình: Một việc như thế, khi nào tôi có
thể?:
Lại-viết (re-écrire)......
Liệu có
thể đọc NHPN: như
chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi?
*****
Ở cuối
cuốn tiểu thuyết của
Cees Nooteboom, In the Dutch Mountains, người kể chuyện-tiểu thuyết gia
nhập
vào câu chuyện gẫu, về sự thực và giả
tưởng, với những cái bóng của Plato, Milan Kundera, và Hans Christian
Andersen....
"Tại sao", nhân vật
Nooteboom hỏi," tôi lại ham muốn
không thể cưỡng lại được, cái việc giả tưởng hóa,
nghĩa là kể ra những
điều dối trá?"...
"Đó là do bất
hạnh", Andersen trả lời, "Nhưng bạn bất hạnh chưa đủ, cho nên bạn
chẳng làm sao mà viết ra nổi".
[Coetzee, trong bài viết về
Cees Nooteboom: Tiểu thuyết gia và Du
lịch gia]
Coetzee
cho rằng, chưa từng
có một tác giả nào nhận xét cay đắng như vậy, về chính những gì mà ng
ười đó
viết ra, và ông giải thích thêm, nỗi bất hạnh của Noteboom, là do ông
ta quá
thông minh, quá rắc rối nhiêu khê, quá kẻ tỉnh (urban), cho nên không
thể nào
trao "hết" trứng cho ác (dấn thân hết mình vào chuyện viết, nghĩa là
ảo tưởng hóa cuộc đời), và lại còn ít nhức nhối về cái số mệnh (nghiệp)
viết
(cuộc đời trăm năm rách nát vì văn chương), thành thử không làm sao có
thể biến
nó thành số mệnh (nghiệp) của chính nó.
Theo
Coetzee, chẩn đoán căn
bệnh văn chương ở một số nhà văn bất hạnh chưa đủ mà đã đòi viết văn,
của
Andersen, thật đúng với cuốn In the Dutch Mountains: Với tất cả những
tài năng,
những dí dỏm, những hóm hỉnh, với tất cả những tia sáng sáng tạo, những
chiếu
rọi vào một cái tôi, và vào cái gọi là "giả tưởng của cái tôi", với
tất cả cái gọi là phong nhã, yểu điệu của một văn phong, cộng tất cả
lại, vẫn
chưa đủ "cảm" (feeling), để mà viết ra nổi một cuốn tiểu thuyết, tức
là một câu chuyện.
*****
Borges
nhắc tới một lời
khuyên của Khổng Tử, rằng chúng ta phải kính trọng quỉ thần, nhưng Ngài
nói
thêm, liền đó, rằng chúng ta phải tránh né những loài siêu nhiên đó
(the
supernatural beings). Kính, và né. Những huyền thoại về Đạo Giáo
(Taoism) và
Phật Giáo cũng không hề coi thường một lời khuyên như vậy. Theo ông,
không có
một xứ sở nào lại mê tín như là xứ Trung Hoa. "Cuốn tiểu thuyết bề thế
của
họ, Hồng Lâu Mộng (The Dream of the Red Chamber), là cuốn tôi [Borges]
thường
trở tới trở lui. Trong đó, hằng hà sa số, là những ngỡ ngàng, kinh
ngạc, [những
thần tiên, những mĩ nữ, nào gương báu để soi việc gió trăng, gương soi
để
khuyên răn người đời, nào tam sinh hữu hạnh, nào nước để tưới sự
buồn...],
chúng không phải là bất khả, đâu phải là không có, mà đầy rẫy ở trong
Hồng Lâu
Mộng: chính là bởi vì đây là hiện
thực (precisely it is realist, and
marvels are not considered impossible or even unlikely). (1)
(1):
Trích từ bài viết
"[Bo Tung Linh, Hổ Khách "] P'u Sung-ling,The Tiger Guest", (
trong Tuyển Tập Không Giả Tưởng của Borges, Selected Non-Fictions, J.L.
Borges,
Eliot Weinberger biên tập, Penguin Books, trang 507).
Ở trên,
tôi có đưa ra đề
nghị: Nắng Hồng Phương Nam, do cái tên của nó, là nhằm hóa giải những
cái tên
như là Đáy Địa Ngục, thí dụ vậy. Bây giờ, mượn ý của Borges như vừa
dẫn, qua
một cuốn tiểu thuyết thật là đồ sộ, chắc chắn là đồ sộ hơn, chỉ nói về
bề dầy,
so với NHPN, chúng ta có thể nhìn ra một "sự thực":
Nếu ĐĐN là một thái quá về
địa ngục, thì NHPN cũng là một thái quá, cũng vẫn một [đáy] địa ngục đó.
Một khi bạn bình thường quá,
hoặc "ngây thơ quá", về
"vẫn cùng một" thực tại, như vậy là biến nó trở thành không thực,
thành một thứ quỉ thần,
mà quỉ thần là phải Kính,
và Né.
Nhắc tới Borges, và qua ông, tới Hồng Lâu
Mộng, tới tác giả của nó: Tào Tuyết Cần, (1716?) - 1763 (?), giống như
phần lớn
các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi
niềm cô
phẫn, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại.
Ông vốn sinh ra trong một gia
đình đại quí tộc... Năm lần vua Khang Hi tuần du phương Nam, thì bốn
lần ở lại
nhà họ Tào... có thể đoán biết cuộc sống trong phủ Giang hồi đó xa hoa,
vương
giả thế nào.... Trong Hồng lâu Mộng, Nguyên Phi về thăm nhà có một buổi
mà phải
xây cất bao nhiêu đình tạ... nữa là hoàng đế tuần dự ngự đến nhà.
Nhà ông chẳng những hào môn
vọng tộc hiển hách như thế, mà còn có truyền thống văn chương...Nhưng
cuộc sống
vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì
tất cả
đã ở đằng sau rồi: Cha bị khép tội bị cách chức, bị tịch biên gia sản,
nhà họ
Tào suy sụp và ông phải về sống ở vùng ngo\ại ô phía tây thành Bắc Kinh
trong
cảnh cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu.
Hồng Lâu Mộng có thể xem là
làn phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quí tộc đã
tan vỡ
đó.
[Trích HLM bản tiếng Việt, do
nhà Văn Học ở trong nước, xuất bản]
Bây giờ người viết thử mô
phỏng đoạn trên, ứng vào NHPN:
Tác giả vốn thuộc vào một
miền đất, từ khi bắt đầu lịch sử của nó, đã thừa mứa miếng ăn cái mặc,
đã bao
lần họ Trịnh muốn thôn tính nhưng đành chịu thua, phải trở về lại đất
bắc, rồi
tới ngày 30 tháng Tư năm đó... Vào lúc tác giả bắt đầu viết NHPN thì
tất cả đã
ở đằng sau rồi, cả một miền đất trở thành.... một chân lý không bao giờ
thay
đổi, cả một cuộc chiến trở thành tủi nhục, cả những ngày tháng dài cải
tạo cũng
đã quá xa rồi, khi ông viết, ông ở bên Mỹ, và NHPN có thể xem là làn
phản quang
những hồi ức của tác giả về cuộc sống đã có một thời đẹp đẽ đó, nếu
không phải
của tất cả thì cũng là của riêng ông, với một số người đẹp ở trong
quãng đời
đó, nhất là quãng đời cải tạo ở miền bắc, chưa nói đến chuyện nhờ nó mà
ông,
người tù_như một nhà văn, hân hạnh gặp được Nhất Linh, và luôn cả Loan,
tại Hà
Nội....
Bạn có thể cho rằng, người viết
quá cay đắng,
cay nghiệt, quá... nhưng sự thực là như thế đó: Nếu Hồng Lâu Mộng chỉ
là một
giấc mơ ở lầu hồng, chỉ là cuộc tình tay ba tay tư tay năm tay sáu tay
bẩy,
giữa Bảo Ngọc và một mớ con gái đẹp, NHPN thật sự chỉ là một cuộc tình,
của một
anh chàng sĩ quan đi cải tạo, với một số
những người đàn bà....
Vần đề còn lại, thật là nhức nhối: Tại sao HLM
thì thành công mà NPHM lại... thất bại?
Liệu cái thất bại của NHPN có
đáng một ngọn
đèn cầy, như Joseph Brodsky đã nói, về trường hợp một "great design"?
Tôi tin là đáng!
Theo nghĩa, một tác phẩm thất
bại (dở) nhiều khi cho chúng ta nhiều bài
học quí giá, so với một tác phẩm "được", nào đó,
cũng viết về
cuộc chiến, đó!
********
Đỗ Long Vân viết Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, tại Sài
Gòn, vào năm 1967.
Cuộc chiến, "ba mươi năm
nội chiến từng ngày": Ở bên ngoài Sài Gòn. Xa. Xa lắm
Những ngày Mậu Thân 1968. Một
năm sau đó. Chưa có. Chẳng thể nào có.
Vậy mà người đọc vẫn cảm
thấy, chúng, cái thực, cái chết chóc, cái hung bạo, hiện diện ở trên
từng trang
sách.
Khi cảm thấy độc giả hơi lơ
là với nó, tác giả cảnh cáo: Tại sao, tại sao...
Tôi tin rằng, sau này, sử
gia, tiểu thuyết gia, nhân loại gia... muốn nhìn lại những ngày Mậu
Thân, không
thể bỏ qua Vô Kỵ giữa chúng ta của Đỗ quân.
Đâu phải tự nhiên Thánh Thán
bỏ công đọc truyện trai gái ở dưới Mái Tây. Một nhà cách mạng Việt Nam
(Nhượng
Tống) bỏ công dịch nó.
"Vở 'Mái Tây' tôi dịch
hầu các bạn đây nguyên là một vở tuồng Tầu. Người viết vở tuồng ấy là
Vương
Thực Thủ đời Nguyên. Cũng như tất cả các nhà viết tuồng ở Đông hay Tây
phương
thường lấy một truyện xưa làm 'lam bản', họ Vương viết truyện này lấy
truyện
'Hội Chân' làm lam bản. 'Hội Chân' nghĩa là 'gặp tiên'....."
[Nhượng Tống: Cùng Bạn Đọc.
Viết trên Phong Mãn Lâu đêm 25.1.1942]
[Trích từ bản in của nhà xb
Văn Học, Hà Nội. 1992]
[Bạn đọc để ý: thời gian
Nhượng Tống dịch Mái Tây, là trước 1942, rõ hơn: trước Cách Mạng Mùa
Thu. Đỗ
Long Vân viết Vô Kỵ giữa chúng ta: trước 1968, trước biến cố Mậu Thân,
mà trận
địa chính của nó là Sài Gòn, “hang ổ của Mỹ Ngụy”, nói theo những người
CS, hay
nói theo Đỗ quân: "Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa
cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những
nghi vấn
mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết"].
Đâu phải tự nhiên, thay vì
viết về cuộc chiến
Tây Sơn, và một ông vua Gia Long người miền nam thống nhất đất nước sau
đó,
Nguyễn Du viết về một con điếm ở mãi bên Tầu, bán mình chuộc cha....
******
Làng Kế Bên: Nắng Hồng Phương Nam?
Làng Kế Bên của Kafka là một
câu chuyện gồm
gần như chỉ một câu, mà người viết trích lại sau đây:
Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời
vắn chi đâu. Như Nội đây, nhìn lại nó, thấy đời như co rút lại, thành
thử Nội
không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: làm sao mà một người trẻ tuổi
rong ruổi
sang làng kế bên mà không e ngại - bỏ qua chuyện tai nạn - một đời thọ
như thế,
hạnh phúc như thế, vẫn không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi
như
vậy".
Bản
tiếng Anh:
The
next village.
My grandfather used to say:
“Life is astoundingly short. To me, looking back over it, life seems so
foreshorthened that I scarcely understand, for instance, how a young
man can
decide to ride over to the next village without being afraid that – not
to
mention accidents – even the span of a normal happy life may fall far
short of
time needed for such a journey”.
Bây giờ
cứ giả sử như Làng Kế
Bên là:
Địa Ngục,
Trại Cải Tạo,
Đại Học Máu,
Miền Đã Mất [Lost Domain],
Cõi Thiên Thai,
Quãng đời để dành, theo
nghĩa:
Khi còn đang sống ở bên trong
một cuộc chiến, bị nó hành hạ, nên phải
bịa đặt ra một quãng đời để dành, bây giờ mới có thì giờ rảnh ranh để
sống nó!
Ở đây, [tôi muốn nói, ở trong
Nắng Hồng Phương Nam] bạn [tôi muốn nói, tác giả, và độc giả của NHPN]
sẽ gặp
lại tất cả những giấc mộng lớn nhỏ, mà cuộc chiến làm cho phải bỏ dở...
Cái anh chàng sĩ quan cải
tạo, trong thời gian còn cuộc chiến, anh ta bị khốn quẫn về nó.... nên
chẳng có
thì giờ, dù chỉ để nghĩ, tới làng kế bên, có thể có thực, thí dụ như
những
người tình mà anh đã từng gặp, mà vì chưa có dịp sống, nên nhét tất cả
vào
trong đó....có thể do anh bịa đặt...
Rồi chiến tranh kết thúc. Dù
muốn, người ta cũng chẳng cho anh có thì giờ lo cho vợ con, gia
đình.... Anh
phải đi cải tạo, và anh dành cái quãng đời không còn có thể lo cho gia
đình đó,
mơ tưởng về một cõi thiên thai, về một làng kế bên....
****
Nắng Hồng Phương Nam: Một thứ "Lam
Bản" tìm thấy lại, theo nghĩa của Milton:
Paradise Lost: Time Regained.
Thiên Đàng Mất Đi là Thời Gian Tìm Thấy Lại
Time Regained: Paradise Lost.
Thời Gian Tìm Thấy Lại là Thiên Đàng Mất Đi
Vấn đề là: Thời gian tìm thấy
lại, là thời gian nào?
Thời gian trước, hay sau,
Trại Tù?
****
Nắng Hồng Phương Nam: "Felix Culpa":
"Happy Fault", " Happy Guilt": "Tề Ngụy Hạnh
Phúc"?
O felix culpa, quae talem ac
tantum meruit habere Redemptorem
Missal
O happy fault, which has
deserved to have such and so mighty a Redeemer.
Trích theo tự điển những
trích dẫn, The Oxford Dictionary of Quotations.
Norman Manea [cho rằng câu
này có thể là của St. Augustine, nhưng như từ điển trích dẫn Oxford cho
thấy,
của Missal] dịch là (nguyên bản tiếng Anh của chính tác giả):
O happy guilt, which has
served such a great Redeemer, trong bài viết về
Mircia Eliade, khi trích một câu trong nhật ký của
triết gia này:
"Tôi thường nghĩ về mình
như sau: nếu không có cái felix culpa đó - là một đệ tử của Nae Ionescu
- tôi
có thể ở lại quê hương. Tốt nhất, tôi nên chết vì bịnh lao, trong một
nhà
tù." Ngày 29 tháng Tám 1985.
[Manea trích theo Ricketts,
tác giả cuốn sách về Eliade: Mircia Eliade, The Romanian Roots, p. 142).
Normal Manea trong bài viết
FELIX CULPA, đã chỉ trích Mircea Eliade, về thái độ ủng hộ phát xít của
triết
gia này, tương tự trường hợp Heidegger, bị chỉ trích hợp tác với Nazi,
và sau
đó giữ một thái độ câm lặng thách đố, khinh khi...
Liệu có thể coi NHPN như một
"felix culpa", "đối cực" của những đại học máu, đáy địa
ngục?
Ôi chao,
Được Sống Sót Cuộc Chiến,
Được Cứu Chuộc Cuộc Tù,
hóa ra là chỉ để:
Được (hay Bị?)
Viết
Nắng Hồng Phương Nam!
***
Thanh
Tâm Tuyền, đã từng làm
lại được thơ, ở trong trại cải tạo, nghĩa là một cách nào đó, ông lại
trở lại
được với Làng Kế Bên: Cõi Sáng Tạo.
"...Chẳng có chi là rõ ràng đối
với tôi.
Tuy nhiên, tôi nhủ thầm, tôi đang sống lại, nghĩa là thơ ca đang trở
lại, và
tôi sung sướng vì điều này. Tôi rụt rè e lệ như khi còn trẻ, với những
bài thơ
đầu, tôi giấu bạn tù những bài thơ, tôi không dám đưa cho họ đọc.
Khi bạn sống dửng dưng, ngày
này qua ngày khác, chẳng nghĩ tới tương lai, chẳng nhớ về dĩ vãng,
không âu lo
hiện tại, bạn còn lại chi? Còn cái điều đã có ở trong bạn; nó có đó,
chẳng cần
đến sự mong muốn của bạn.
Để qua đi những ngày đen tối,
những đêm mưa gió, ngày lạnh căm, bão bùng, mùa này, mùa nữa... tôi tìm
lạc thú
ở cái điều "đã hiện hữu ở trong tôi" đó; tôi mang theo, chỉ có nó; nó
luôn luôn ở trong thân thể tôi."
Thanh Tâm Tuyền:Thơ Giữa
Chiến Tranh và Trại Tù