Why Vietnam's
best-known author has stayed silent
Fifteen years after Bao Ninh's admired war novel, he
explains his fears about publishing a sequel
Suzanne Goldenberg in
Hanoi
Sunday November 19, 2006
The Observer
Bảo Ninh, trên tờ Match du
Monde [mẩu tiếng Tây: kể câu chuyện về nhân vật phản diện và những kinh
hoàng của cuộc chiến được sống bởi những người bộ đội nổi tiếng],
và tại nhà, do Gấu chụp, Hanoi cc 2002.
It was a soldier's story, set in battlefields of rotted
corpses and the tortured soul of a young teenager who went off to serve
his
country, and when the novel was published in 1991 it brought Bao Ninh
the
closest thing in
Vietnam
to instant literary celebrity.
Ninh never published again - although he is believed to have
finished another novel about the war, called Steppe, that he has
hesitated to
submit for publication.
Tại sao nhà văn nổi tiếng của Việt Nam im
tiếng
sau cuốn đầu tay?
Đây là câu chuyện của một
người lính được đặt
để trong khung cảnh của những trận đánh, và chiến trường thì đầy những
xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn bị tra tấn đến rách
bươm ra, của một chàng trai
trẻ, lên đường phục vụ xứ sở của mình, và khi nó ra lò vào năm 1991,
lập
tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt Nam.
Tác giả không hề in gì nữa,
mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất
một cuốn tiếp theo về chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần
ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told
The Observer in a rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured
by
middle-ranking officials. 'I compared everything I wrote to everything
I wrote
in the past, and it's not natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói với
phóng viên tờ Người Quan Sát, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại nhà
của ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà
nước
bậc trung ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi
viết trong quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."
*
Về
kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi
ức lộn xộn, một cách
hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có
thể nhẩy
vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất
thơ của
hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về
pháo bầy,
bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là
một sáng
tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và
Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông
khẳng định:
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu
thuyết gia. Với
Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể
mường tượng
ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến
tầu
định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai
nạn” xẩy
ra.
Và,
đây mới là ý nghĩa đích thực, mang
tính “uyên nguyên, bi
đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc
chiến, nhưng không thể tha thứ
cho cuộc tình”.
Như
chúng ta đã biết, truyện lúc đầu
có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn
truyện, mọi hồi tưởng, về chiến
tranh, lập tức kèm
theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để
lỡ. “Chẳng
còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì
đó, còn
em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến
này".
*
Không giống như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu
thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện viết, về tuổi
trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới
thiệu của Geoff Dyer trên tờ
Independence,
in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
*
Gấu không nhớ đã đọc Nỗi
Buồn, bản tiếng Anh, trước hay sau bản tiếng Việt. Bản đầu tiên Gấu có,
bìa sau trích đoạn bài giới thiệu của Geoff Dyer.
*
Đây là một tự truyện, và nó mở ra, thể tự truyện
sau đó ?
Lê Vân, trong Yêu và Sống, là một "nhập thân" của Phương, trong
Nỗi Buồn Chiến Tranh, và cũng là một thân phận tình yêu, khác, của một
miền đất.
Có thể vì nhận ra nhau, nên Bảo Ninh khen nức nở tự truyện của Lê Vân?
Và nếu như thế, liệu Kiên đã tha thứ cho Phương ?
*
Có những người có tài, không phải kể cho hậu thế, nhưng mà cho những
người nghe người có tài này kể, và nhờ vậy mà có cái để mà nhớ lại, để
mà tưởng niệm. Và những thế hệ sau, sau nữa... cứ thế mà nhớ lại, mà
tưởng niệm.
Sozhenitsyn:
Những người vô hình
Tôi nghĩ, Nỗi Buồn kể cho hậu thế, và cùng lúc, cho
những người không trực tiếp tham gia cuộc chiến.
*
Hách xì xằng, bằng những cú trữ tình và tàn bạo, u uẩn
và nên thơ, ngây thơ và xảo quyệt, Nỗi Buồn Chiến Tranh phán:
Chiến tranh, thằng khốn kiếp nào thắng, thì cũng khốn khổ khốn nạn,
thằng nhân
loại.
By turns lyrical and brutal, bleak and poetic, naive and cunning, The
Sorrow of War eloquently confirms that in war whoever wins, the
casualty is humanity.
[Lời giới thiệu bản tiếng Anh].
[Note: Gửi
BVVC. NQT]
Cổ lai Chinh Chiến Kỷ Nhân... Sầu?
Đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh
Bài này
viết đã lâu, ngay
từ
hồi chân ướt chân ráo ra hải ngoại, đăng trên tờ báo Nắng Mới [?] của
một nhóm nhà văn Montreal, và có gây một chút bão tố nho nhỏ, theo cái
nghĩa, sao dám đọc, và sao dám viết, về một nhà văn VC.
Sau in trong Lần Cuối Sài Gòn.
Kiếm không thấy bản "word", đành type lại, post lên đây, gửi
BVVC.
Thân. NQT

Cà Phê Điểm Hẹn, Rendez-Vous, Bờ Hồ, Hà Nội
, 2002
Đường Bờ Hồ
và hố tránh bom.
Hình của ký giả Harrison E. Salisbury.
"Có lẽ
cũng phải bật mí tí ti, và cho người ta biết chúng ta có một
người ở Hanoi".
[I think we ought to advertise a bit and let people know that we have a
man in Hanoi]
Một
chút tư liệu
Trước
1975, tôi quen một tay làm cho
tờ Time, chỉ qua cái
tên Cao Bồi. Anh bề ngoài hiền khô, ít nói, về bản thân lại càng ít
nói, vả
chăng, tôi cũng chẳng hề hỏi . Chúng tôi thường gặp nhau ở quán Cái
Chùa, đường
Tự Do, những lúc rảnh rỗi, bên ly cà phê, chờ đợi đám bạn cùng một đam
mê “nặn
xì” [đánh xì phé]. Thời gian đó, ngoài
công việc của một cán sự kỹ thuật Bưu Điện, tôi còn làm thêm cho hãng
thông tấn
UPI, chuyển hình ảnh bằng phương pháp vô tuyến điện,
radiophoto-operator.
Một
lần qua chuyện gẫu, Cao Bồi cho
biết Time tính làm một
số đặc biệt về Việt Nam,
có bài giới thiệu hai nhà văn của hai miền.
Tôi
cũng muốn nói thêm, theo kiểu
ngoài lề, ở đây. Khi còn
ông Diệm, báo chí trong nước khỏi nói, đám báo chí ngoại quốc bị theo
dõi rất
gắt. Tin tức, hình ảnh chuyển đi ra ngoài nước đều bị kiểm duyệt, nhất
là sau
các vụ đảo chính hụt, dinh Độc Lập ăn bom, vụ Phật Giáo… Văn phòng
chính của họ
phải cho người giả dạng du khách, ghé sân bay Tân Sơn Nhất, ở đó có
người chờ
sẵn, nhận bản tin, hình ảnh.. rồi sau đó, trở lên máy bay, hệt những
điệp viên.
Mạch điện đàm Saigon-Hongkong thường được các hãng tin “book” sẵn, mỗi
lần ngửi
có mùi gì lạ, “something in the air”. Chỉ sau khi ông Diệm mất, mới có
những
mạch viễn ký như UPI, AP, và những mạch vô tuyến viễn ảnh, các giờ đọc
tin cho
các hãng truyền hình CBC, NBC, ABC…
Tôi
nghĩ, Time muốn có tiếng nói nhà
văn của cả hai miền Nam
Bắc, vì lúc này cuộc chiến đang vào giai đoạn ác liệt. Câu chuyện gẫu
trên xẩy
ra sau khi ông Diệm mất, cỡ 1966 gì đó. Người Mỹ đổ quân xuống bãi biển
Đà Nẵng
năm 1965. Horst Faas, trưởng phòng hình ảnh hãng AP đổ ra hàng ngàn
thước phim,
chỉ để chụp cảnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ từ những chiếc tầu há mồm chạy
xuống bãi
biển. Cuối năm 1966, ký giả Harrison E. Salisbury của tờ Nữu Ước Thời
Báo, được
nhà cầm quyền Miền Bắc cho phép ‘tới [Miền Bắc, Hà Nội để] có một cái
nhìn nóng
hổi về những gì xẩy ra’ [Harrison E. Salisbury: Behind the
lines-Hanoi].
Đó
là một cuộc chiến mà người Mỹ muốn,
là của họ. Theo nghĩa,
rút ra bằng chiến thắng. “Mọi người bắt đầu gọi nó, một cuộc chiến bẩn
thỉu nho
nhỏ. Bẩn thì vẫn bẩn nhưng nho nhỏ thì hết rồi… Đừng vùi dập nó. Đây là
cuộc chiến
độc nhất mà chúng ta có”, một tên phi công đểu giả Mẽo tuyên bố như vậy
[sđd,
trang 3]. Dĩ nhiên, báo chí Mẽo cũng phát động một cuộc chiến ,của Mẽo,
của riêng
họ, của riêng báo chí Mẽo. Trong cuộc chiến Việt Nam,
hãng tin
Reuters của Anh cố tình vờ đi, chẳng thèm đặt văn phòng tại Sài Gòn
theo như người
viết được biết. Cách loan tin cũng chẳng có vẻ gì là thân thiện Mẽo,
hay Miền Nam.
Hãng thông
tấn Pháp AFP, tuy có văn phòng tại Sài Gòn nhưng không có mạch viễn ký,
mạch vô
tuyến viễn ảnh, cách loan tin cũng đầy ác ý với Mẽo và VNCH.
Cao Bồi cho biết nhà văn Miền Bắc mà Time tiếp xúc là Nguyễn Tuân. Còn
Miền Nam, một người hiện ở Mỹ, người viết bài có quen biết, nhưng do
không được sự đồng ý nên không thể nêu tên ở đây. Tuy nhiên sau, Time
bỏ ý định, không rõ lý do. Người viết có đọc một phóng sự của tờ Time
Life về cuộc sống ở Miền Bắc, không hiểu có phải vì có phóng sụ này,
nên Time bỏ ý định, hoặc không được Nguyễn Tuân đồng ý?
Sỡ dĩ nhắc chuyện cũ vì thời gain sau này, Time có bài giới thiệu cuốn
Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Khi
mới qua đây được ít lâu, tôi được
một người quen cho hay, rồi nhân đọc Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín, thấy
hình "ông bạn cũ": Cao Bồi là Phạm Xuẩn Ẩn, sĩ quan tình báo của Miền
Bắc.
Trước 1975, thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật
báo quân đội Tiền Tuyến, trong một bài giới thiệu tác phẩm đầu tay của
một nhà văn đã có vài tuổi lính, nhớ tới nhà văn Y Uyên vừa mới tử
trận, tôi có đưa ra một nhận xét: Hãy cố gắng sống sót, và, nếu may mắn
sống sót, nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ còn phải đụng với một cuộc
chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém trận đầu: văn chương!
Ý
nghĩ này, tôi gặp lại, sau 1975, khi
đọc Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi, chết trận Mậu Thân, hình như ở
khu Chợ Thiếc, Chợ Lớn, Sài Gòn. Liên tưởng tới bạn bè, phóng viên nước
ngoài đã từng có dịp được quen biết, và đã tử trận, như Huỳnh Thành Mỹ,
Sawada... tôi bỗng nhận ra một điều, cuộc chiến thật thâm hiểm, tàn
nhẫn: nó nuốt sạch những ai thực sự dám đương đầu với nó.
Theo
cách suy nghĩ đó, tôi nghĩ, Bảo
Ninh may mắn hơn nhiều
người: ông may mắn ở cả hai cuộc chiến.
Trong
văn chương, ông vượt qua được
khúc nguy hiểm nhất, mà đa
số nhà văn Miền Bắc gục ngã. Đọc họ, những tác phẩm xuất hiện cùng lúc
với Nỗi
Buồn, tôi không thấy, cho dù chỉ một chút thiện cảm, khi họ viết về
Miền Nam.
Có
thể, họ chẳng hiểu gì về Miền Nam,
ngoài những gì được Đảng nhồi
nhét.
Thượng
Đế, trong một cơn giận dữ, tạo
ra con người_con vật chính trị [Merleau-Ponty].
Cố quên đi sự giận dữ của Người, tôi đọc những tác phẩm của
những tác giả Miền Bắc. Đọc Nguyễn Thi, tôi có được những hình ảnh
tuyệt vời của
người phụ nữ Miền Nam, tình bà con lối xóm, theo dõi bước chân người mẹ
đi suốt
hai cuộc chiến, trong đêm vội tạt về nhà cho con bú trước giờ vào trận.
Đọc
Nguyễn Huy Thiệp, thời gian ông dậy học ở một bản làng miền núi, trong
văn ông
thấp thoáng chất huyền thoại, cái nôi của văn chương, của chuyện kể,
chưa vướng
mùi lý luận, giải thích, lên lớp… vốn là một thói quen không thể bỏ của
đa số tác
giả Miền Bắc. Đến “Tướng Về Hưu”, người đọc nhận ra không khí vất
vưởng, cô đơn
bao trùm lên tính khô khan của nhân vật, tính tàn nhẫn của sự kiện báo
hiệu sự
xuất hiện của những bạo chúa Caligula
sau này.
Tiểu
thuyết, nói cho cùng, chỉ là một
lời dối trá toan tính
nói lên sự thực: Je suis un mensonge qui dit toujours la vérité. Và sự
thực thường
là manh nha xuất hiện, ở những trang cuối, dòng cuối. Meursault, [trong
Kẻ Xa Lạ
của Camus] mở lòng ra trước vẻ xa lạ dịu dàng của cuộc đời: Je
m’ouvrais pour
la première fois à la tendre indifférence du monde. Julien Sorel trong
Đỏ và Đen
của Stendhal, ‘vào đời, trang bị bằng khí giới độc nhất, tham vọng’,
cuối
cùng tìm được tình yêu chân thật ở bà Renal, một nạn nhân của
anh. Kỳ cục
thay, con đường văn học xã hội hiện thực chủ nghĩa như ngược lại: Từ
thành công,
khi miêu tả những cuộc đời thực của từng nhân vật, những tình cảm, mong
ước chân
thật của họ… đến thất bại: chủ nghĩa Cộng Sản như một giải đáp thỏa
đáng nhất
cho một cõi thực chưa hề có.
Không
giống như Mặt Trận Miền Tây Vẫn
Yên Tĩnh, đây là một
cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện
viết, về tuổi
trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới
thiệu của
Geoff Dyer trên tờ Independence,
in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Về
kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi
ức lộn xộn, một cách
hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có
thể nhẩy
vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất
thơ của
hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về
pháo bầy,
bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là
một sáng
tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và
Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông
khẳng định:
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu
thuyết gia. Với
Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể
mường tượng
ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến
tầu
định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai
nạn” xẩy
ra.
Và,
đây mới là ý nghĩa đích thực, mang
tính “uyên nguyên, bi
đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc
chiến, nhưng không thể tha thứ
cho cuộc tình”. Như
chúng ta đã biết, truyện lúc đầu
có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn
truyện, mọi hồi tưởng, về chiến
tranh, lập tức kèm
theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để
lỡ. “Chẳng
còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì
đó, còn
em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến
này".