Tản Mạn về
Phê Bình
Của Tôi
của Nguyễn
Thanh Sơn
“Why is there something instead of nothing,"
[Tại sao có
cái gì đó, thay vì chẳng có gì?]
Martin
Heidegger
"Why
couldn't there be nothing instead of Heidegger?"
Ralph Brave:
Being Martin Heidegger
[Tại sao lại
chẳng thể có cái không, thay vì có Heidegger?]
Khốn
nạn thay, làm sao tin cậy được cái thứ viết trắng?
Roland
Barthes: Không độ của cách viết [Le degré zéro de
l’écriture].
... Proposant enfin l'accomplissement de ce rêve
orphéen: un écrivain sans littérature. L'écriturre blanche, celle
de Camus, celle
de Blanchot ou de Cayrol par exemple, ou l'écriture parlée de Queneau,
c'est le dernier épisode d'une Passion de l' écriture, qui suit pas à
pas le déchirement de la conscience bourgeoise.
...Sau
cùng đề nghị hoàn tất giấc mộng Orphée: nhà văn không văn chương. Cách
viết trắng Camus, cách viết Blanchot hay Cayrol thí dụ vậy, hay cách
viết nói của Queneau, đây là hồi chót của một Đam Mê viết theo từng
bước với sự rách toang của ý thức trưởng giả.
R.
Barthes: Dẫn vào Không độ của cách viết.
Tuy
chưa được nhìn thấy tác phẩm trên, nhưng người viết đã được đọc hầu hết
những bài viết ở trong đó. Đọc, và đọc một số những bài khen chê sách,
khen chê tác giả của nó, nhận xét đầu tiên của tôi, không phải về sách,
mà về [cái việc] khen chê sách và người: có vẻ như cả hai dư luận khen
và chê đều chưa thực sự đọc cuốn sách. Hoặc có đọc, nhưng với một thiên
kiến. Hoặc, có một khoảng cách về cách đọc, cách viết, cách hiểu, một
tác phẩm phê bình giữa họ. Có một khoảng trống - một sự im lặng không
làm sao lấp nổi/ không làm sao hiểu nổi, giữa những “âm thanh và cuồng
nộ” đó.
Khen.
Lấy ngay bài của Ngô Tự Lập.
“Sinh
năm 1970, được đào tạo rất cơ bản, đầu tiên ở Liên Xô, sau đó ở Hoa Kỳ,
hai siêu cường giáo dục không thể chối cãi, Nguyễn Thanh Sơn có rất
nhiều thế mạnh của cá nhân cũng như của thời đại. Và anh đã chủ động và
khéo léo sử dụng những thế mạnh ấy cùng với những kinh nghiệm thu lượm
được trong những cuộc phiêu lưu trong sách vở và đời thực vào từng
trang viết. Có lẽ cũng chính vì thế mà đôi lúc văn Nguyễn Thanh Sơn có
vẻ điệu đàng. Nhưng có lẽ cũng không nên trách cứ anh về điều đó: một
cô gái đẹp thật khó mà không điệu khi có quá nhiều ánh mắt vây quanh!”
Cái
việc dùng tiểu sử đời tư để đọc tác phẩm, tuy không được mấy ông thuộc
trường phái phê bình cơ cấu, hậu cơ cấu, giải cơ cấu, thích thú, nhưng
không phải là không có ích. Nhưng sự kiện NTL cho biết NTS đã từng du
học tại hai siêu cường văn hóa - ấy chết xin lỗi, giáo dục - như trên
đã ảnh hưởng tới văn và người nói chung, và với tác phẩm PBCT, nói
riêng, ông không chỉ cho chúng ta thấy, ảnh hưởng như thế nào. Tôi lấy
thí dụ, NTL phải chỉ cho chúng ta thấy, NTS, chỗ này, chỗ kia…
đã ảnh hưởng trường phái phê bình hình thức
[formalism], hoặc ảnh hưởng cách phê bình của Belinski, chất thơ, dù
viết phê bình, của NTS, là từ Aimatov (?), từ Paustovski (?) mà ra (vẫn
thí dụ vậy). Bởi vì làm sao mà độc giả lại có thể hiểu nổi cái kiểu
luận lý: Do ảnh hưởng hai siêu cường giáo dục như trên… [cho nên]… văn
của NTS có vẻ điệu đàng!
Khen kiểu đó làm người được khen cũng thấy ngượng,
và mỗi lần đi đứng lại giật mình, không khéo mình lại điệu đàng như văn
của mình [Văn tức là người mà!].
Thêm nữa, hai siêu cường giáo dục chưa chắc đã đào
tạo nổi một nhà văn, nói chi một nhà phê bình, bởi vì giáo dục là giáo
dục, văn chương là văn chương, phê bình là phê bình, đừng có lộn xộn!
Với tôi, văn phê bình của Nguyễn Thanh Sơn là một ví
dụ điển hình minh họa cho ý kiến của Roland Barthes [1], rằng người ta
không thể có cách nào khác, ngoài cách dùng vẻ đẹp văn chương, để viết
về vẻ đẹp văn chương. Nhiều đoạn văn trong tập sách mỏng của anh, là
một cố gắng hoà trộn thể loại, hay thậm chí một cố gắng thoát ra khỏi
cái nhà tù nhàm chán của những lời phẩm bình và răn dạy mà các nhà phê
bình vô tình tự nhốt mình vào cùng với sự tự huyễn hoặc về một vai trò
dẫn hướng rất đáng ngờ, nếu không nói là nực cười, của họ. Cũng có
những đoạn văn thậm chí chúng ta có thể đọc như đọc một trích đoạn
truyện ngắn:
"Khi
bản giao hưởng kết thúc, một sự im lặng kỳ diệu tràn ngập gian phòng.
Sau đó tất cả đứng cả dậy và vỗ tay vang dội. Tiếng vỗ tay tràn ngập
tất cả các góc của phòng hoà nhạc, mọi người vỗ tay, gào thét, làm tất
cả những cử chỉ mà họ có thể làm để khiến Itzhak Perlman hiểu họ biết
ơn ông thế nào về điều kỳ diệu ông đã làm tối hôm đó.
Ông
mỉm cười, gạt mồ hôi trên trán, sau đó ông nói khe khẽ, trầm ngâm và
sùng kính: "Các bạn biết đấy, đôi khi nghĩa vụ của một nghệ sĩ là khám
phá ra anh có thể làm gì cho âm nhạc chỉ với những thứ anh có".
Ngô
Tự Lập đọc NTS.
Qua
tiểu chú về R. Barthes, người đọc biết đây là một nhà phê bình văn học
người Pháp. Nhưng chẳng biết câu mà NTL trích dẫn, nguyên văn nó ra làm
sao, nói trong trường hợp nào, và từ đó, người ta mới hiểu được cái đẹp
mà ông phê bình người Pháp này khen, nó như thế nào.
Câu
văn của NTS mà NTL trích dẫn đó, xem ra cũng chưa được “đẹp” cho lắm,
và rất đúng như NTL nhận xét, nó có vẻ đẹp của một câu văn của “truyện
ngắn” chứ không phải của “phê bình”. Và những vỗ tay, gào thét, làm tất
cả những gì có thể làm… tất cả những cái đó thật khó mà được coi là
phản ứng của một tầng lớp khán thính giả bị “hớp hồn” bởi một bản giao
hưởng.
Ý
tôi là:
NTL
phải cho biết sơ sơ, R. Barthes là nhà phê bình thuộc trường phái nào,
vì rất quan trọng, đặc biệt với ông này, người đã muốn đặt lại vấn đề
thoạt kỳ thuỷ của văn tự, của cách viết, và đề cao “cái đẹp” trần trụi,
trắng hếu, cái đẹp “bạch bản”, của một lối viết “trung tính”, viết từ
không độ, của cuốn Kẻ Xa Lạ, của Albert Camus.
Và
một cái đẹp của một cách viết từ không độ không thể nào được “minh hoạ”
bằng một câu văn thật là “hoa mỹ” như câu của NTS mà NTL trích dẫn.
R.
Barthes, một cách nào đó, là đệ tử của trường phái phê bình theo chủ
nghĩa hình thức của “siêu cường giáo dục” Liên Xô. Liệu chăng, con
đường phê bình của NTS là từ Liên Xô, qua Pháp, rồi về Việt Nam? Và
"lịch sử" một lần nữa, được lập lại?
Tôi
nghi, Barthes có nói câu mà NTL nói lại, nhưng NTL đã “hiểu sai” ý của
Barthes, như tôi lấy trường hợp Barthes đọc Camus, như một minh chứng,
rằng cái đẹp mà Barthes nói đó, không phải cái đẹp của một câu văn hoa
mỹ, của lạm dụng tu từ. Barthes coi phê bình như là bản văn choàng lên
một bản văn, như thế có nghĩa: nhà phê bình trước hết và trên hết phải
là một nhà văn, rồi [hãy] là nhà phê bình, và đây là điểm mà NTL, bằng
“trực giác” của một người đọc, chứ không phải của một người phê bình,
đã nhìn ra ở NTS, nhưng lại phát biểu sai, minh hoạ nhảm bằng một câu
của Barthes mà ông chỉ hiểu lơ mơ, đại khái, chắc chắn như vậy, nếu
không, ông đã không “minh họa” bằng một câu văn “điệu đạng” như trên!
Nên
nhớ, Barthes khen Camus, là người viết văn theo kiểu “dùi đục chấm mắm
cáy”, như nhận xét của Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bản Phong Thần
Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hỏa, Dernier Inventaire Avant Liquidation,
tức danh sách 50 cuốn hay nhất thế kỷ, mà Kẻ Xa Lạ đứng số một, do sáu
ngàn độc giả Pháp lựa chọn, khi trả lời cuộc phỏng vấn do FNAC (?), và
báo Le Monde thực hiện vào năm 1999: “Chỉ có một điều độc nhất không
mang tính phi lý [ở nơi nhà văn của thứ văn chương phi lý này], là ông
đã phát minh ra những câu văn ngắn, (“chủ từ, động từ, túc từ, chấm”,
như trong một ghi chú của Malraux gửi nhà xb, khi đọc Camus), một thứ
viết (une sorte d’écriture) khô, trung tính, [sử dụng thì] quá khứ kép
(passé composé). [Văn sĩ Tây thường sử dụng quá khứ đơn, passé simple,
trong loại truyện kể, récit]. Lối viết này ảnh hưởng đậm lên tất cả
những tác giả của nửa thế kỷ sau, trong đó có cả nhóm Tiểu Thuyết Mới.
Nhưng viết như thế không phải là không thể diễn tả “cái đẹp” của những
hình ảnh mạnh. Thí dụ như, để tả những giọt nước mắt và mồ hôi trên mặt
Perez: ‘Elles s’étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis d’eau
sur ce visage détruit’. [Nước mắt, mồ hôi dàn dụa trên khuôn mặt vỡ
vàng, như một lớp véc ni].” [Trích bài viết của Beigbeder về cuốn số 1
trong bảng phong thần cuối cùng]. Sartre, trong bài Cắt Nghĩa Kẻ
Xa Lạ [Explication de L'Étranger], coi lối
viết của Camus gần với Hemingway; những câu ngắn,
mỗi câu từ chối đà viết của câu trước nó. Mỗi câu
là một lại bắt đầu. Mỗi câu như vọt ra từ hư vô... Hãy
so sánh thứ văn đó, với câu của NTS mà NTL trích dẫn, là thấy ngay có
một sự hiểu lầm về cái đẹp ở đây.
Vào
một dịp khác, người viết sẽ nói tiếp, về cái đẹp của văn phê [bình], nó
khác với cái đẹp của văn truyện, như thế nào, và nhân đó, bàn về vấn
nạn mà Barthes nêu ra: nhà văn, như là một tác giả, phải chết đi, cho
người đọc xuất hiện. Và người đọc, ở đây, là người sản xuất ra bản văn:
“Because the goal of literary work (of literature as work), is to make
the reader no longer a consumer, but a producer of the text” [Bởi vì
mục tiêu của tác phẩm văn chương (của văn chương như là tác phẩm), là
làm cho người đọc không còn là người tiêu thụ mà là người sản xuất bản
văn] [Trích S/Z, tiểu luận của R. Barthes, bản tiếng Anh, nhà xb Hill
and Wang, New York].
Sức
tưởng tượng của nhà phê bình
Người
ta thường đòi hỏi ở một phê bình gia những đức tính, thí dụ, khách
quan, tổng hợp, tinh tế, dự đoán… Ít ai đòi hỏi sức tưởng tượng, vì
nghĩ rằng, món này, nhà văn cần hơn, và với nhà phê bình, tưởng tượng
còn làm người đó ham rong chơi ở những miền xa lạ, sa đà, lan man, tản
mạn… Hãy trở về với những con cừu của mi đi!
NTS
thường bắt đầu bài viết của anh bằng sự tưởng tượng. Đây có lẽ là điều
mà NTL nhận ra, và phân biệt được NTS giữa những nhà phê bình khác, khi
ông nhè một câu văn, thay vì một nhận định, phê bình của NTS, để mà
khen.
Một
số bài viết trong Phê Bình Của Tôi có cái ngược đời
của nó, là thường mở ra bằng tưởng tượng qua hình ảnh, và hình ảnh đó,
bề ngoài có vẻ như không ăn nhằm gì tới cái hiện tại, cái đương thời,
và lẽ dĩ nhiên, rất ư xa lạ với cái vấn đề mà bài viết nêu ra sau đó,
theo kiểu, tại sao cái ô lại nằm lù lù ở trên bàn máy may, ở trong một
bức họa, thí dụ vậy… khiến độc giả bị tò mò và cứ thế đọc tiếp. Một
hình ảnh mở đầu như thế, nó giống như một thai đố,
và có khi, với tài năng của một tác giả, nó còn đưa tới niềm bí ẩn cứ
muôn đời bí ẩn, của cái gọi là phép lạ văn học. Sartre đã từng tự hỏi
tại làm sao cửa sổ mở ra cõi âm thanh và cuồng nộ [mở sang khu vườn
Thuý] lại là ý thức của một tên khùng, [lại đóng chặt lại mãi bởi một
tên xưng xuất là thằng bán tơ], và từ đó suy ra kỹ thuật hỗn độn
[technique du désordre], của cách viết Faulkner, và hơn thế nữa, tìm ra
một trong những chìa khoá mở ra cuốn bi kíp dậy viết văn: Kỹ thuật luôn
qui chiếu về siêu hình học của tiểu thuyết gia, và với Faulkner, là
siêu hình học về thời gian.
Tôi
vẫn nghĩ, số phận một bài viết - phê bình hay không phê bình - hay hoặc
dở, là do cái hình ảnh mở ra đó.
Thật
ra, cũng có nhiều người viết tiểu luận, phê bình, sử dụng hình ảnh dẫn
dụ, thay vì những từ khen chê, những phán đoán hay dở. Nhà văn nữ người
Anh, Virginia Woolf rất ưa dùng kiểu này.
Hay
như nhà phê bình V.S. Pritchett, mở ra bài Chuyện Vặt:
Tôi
lại đọc Dos. Lũ Quỉ. Bạn biết cảm giác rồi đấy. Ngồi bên lửa, nghĩ về
điều, nhờ nó mà bạn làm hòa với cuộc đời khốn kiếp, ngay cả khi khốn
kiếp nhất, thì cũng vẫn cái
đều-đều-một-giọng-chuyện-thường-ngày-ở-huyện của nó, [điều mà Blanchot
gọi là thảm kịch của cái vô ích, của sự tầm phào, nhàm chán, hay là nỗi
nhớ bùn của nhà văn Anh, D.H. Lawrence trong Người Tình Của Nữ Bá
tước]. Bất thình lình có tiếng gõ cửa, có tiếng kêu la. Một người đàn
ông bị sát hại nơi căn nhà dưới phố. Lại Dostoievsky. Dostoievsky, "kẻ
tội lỗi tày trời", tên sát nhân lớn lao vĩ đại nhất của một cõi văn
chương.....
Ian
Frazier (nhà văn Mỹ, thường viết văn “u mặc”, humor, và “không-giả
tưởng”, non-fiction), trong một bài viết về một nhà văn Nga bị Stalin
sát hại, Daniil Kharms, mà ông coi là một nhà văn tức cười nhất của thế
kỷ, đã nhắc tới một hình ảnh mở đầu của ông nhà văn Nga, như vầy:
“Puskhin mê ném đá”.
Ian
Frazier viết: “Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán
ra nổi cái gì sẽ tới liền sau đó”.
Một bài điểm sách của Oates đã
bắt đầu như thế này: Thượng Đế, khi muốn thịt kẻ nào, bèn cho kẻ đó nổi
tiếng!
Tôi
cũng muốn bắt đầu bài viết của tôi về NTS bằng một “hình ảnh” của
Oates. [Hãy tưởng tượng những giờ phút vinh quang nhất mực của nhà văn,
và hãy quên đi cảnh tượng Thượng Đế làm thịt người đó!].
Có thể những âm thanh và cuồng nộ chung quanh tác
phẩm của anh, và có thể, câu mà NTL viết về anh, như một “apology”,
“xin lỗi giùm bạn mình”, [‘Nhưng có lẽ cũng không nên trách cứ anh về
điều đó: một cô gái đẹp thật khó mà không điệu khi có quá nhiều ánh mắt
vây quanh!”], nhưng thật sự là cho “cả hai”, làm tôi nhớ tới hình ảnh
của Oates, cũng nên.
Còn đây là “lời khuyên” của tôi, với những ai hiện
đang ngập ngừng tại ngưỡng cửa “phê bình”:
Hãy
bắt đầu một bài viết (điểm sách, phê bình, tiểu luận, tạp ghi, tản
mạn….) với một hình ảnh, nếu không thể, đành với ý tưởng, hay ý nghĩ,
chớ bắt đầu bằng một lời khen, hoặc chê.
Cái
kiểu của NTL: Tôi hơi thất vọng về tập sách của Nguyễn Thanh Sơn.
Kỳ
sau, sẽ bàn tiếp về sự “hơi” [bị?] thất vọng của “bạn ta”.
NQT
Oates,
Joyce Carol
Sinh ngày 16
tháng Sáu 1938. Tiểu thuyết gia, truyện ngắn gia, tiểu luận gia, đa
dạng về thể loại và văn phong, sắc bén khi đụng tới những đề tài như
bạo động và cái ác trong xã hội hiện đại.
[Theo Bách
Khoa Britannica]
Victor Sawdon Pritchett: nhà
văn, nhà phê bình Anh (b. Dec.
16, 1900, Ipswich, Suffolk, Eng.--d. March
20, 1997, London, Eng.), được phong Sir (1975), và
Companion of Honor (1993), vì những đóng góp văn học.