Sự sinh, sự
chết và sự sống: Đọc "Báu Vật Của Đời" của Mạc Ngôn.
Phạm Xuân
Nguyên
Cuốn
tiểu thuyết của nhà văn Trung Quốc dày
860 trang chữ Việt kể cuộc đời một phụ nữ nhà quê Trung Hoa tên là Lỗ
Toàn Nhi,
năm 16 tuổi bỏ tục bó chân, lấy chồng là Thượng Quan Thọ Hỷ; chồng bất
lực –
không có khả năng truyền giống – mẹ chồng khát cháu trai nối dõi tông
đường,
Toàn Nhi lấy giống đàn ông thiên hạ, sinh cho nhà Thượng Quan một đàn
con chín
đứa, gồm tám gái, một trai. Trong số đó, Lai Đệ và Chiêu Đệ là giống
của ông
chú dượng chỉ biết đánh bạc, bắn chim. Vu Bàn và Lãnh Đệ của một anh
chàng bán
vịt dạo; Tưởng Đệ, của một thầy lang bán thuốc rong; Phán Đệ, của Lão
Béo bán
thịt chó; Niệm Đệ, giống hòa thượng Trí Thông chùa Thiên Tề; Cầu Đệ,
giống của
bốn tên lính thất trận; sau chót, cặp sinh đôi Ngọc Nữ và Kim Đồng, của
mục sư
Malôa.
"Mẹ
nhận ra một chân lý nghiệt ngã: là
đàn bà không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không
được, sinh
con toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình, dứt
khoát phải
sinh con trai." (tr.783).
Nhưng
Kim Đồng, đứa con trai duy nhất sau chuỗi
sinh nở dằng dặc một đời người của Lỗ thị lại suốt đời bám vú mẹ trong
khi các
cô gái nhà Thượng Quan đều quyết liệt dấn thân vào đời. "Phong nhũ phì
đồn"
(mông to, vú nẩy ) trước hết là nói cái sự sinh ấy. Lỗ thị trước hết,
là số phận
người phụ nữ Trung Quốc trong một xã hội phong kiến coi rẻ giá trị,
phẩm giá của
người phụ nữ. Chuyện ăn nằm, thụ thai, và sinh nở của Lỗ thị trước hết,
là sự
tung hê, thách thức cái xã hội ấy. Chỉ nội mặt này – cứ tạm gọi là về
phương diện
phong tục, tập quán – Lỗ thị xứng đáng là một bà mẹ vĩ đại.
2
Đàn
con của Lỗ thị có đủ mọi thành phần xã hội,
nói rộng ra, có đủ mọi giống người. Họ được bà mẹ vĩ đại sinh ra đúng
vào lúc đất
nước Trung Quốc cũng đang trong cơn quặn đau quặn đẻ. Giặc ngoại xâm,
các thế lực
chính trị thay nhau đến rồi đi, bao biến thiên, bao bi kịch xảy đến với
vùng đất
Cao Mật, với gia đình Thượng Quan. Mỗi đứa con chọn một con đường, một
cách sống,
và một cách chết trên con đường đời đầy gian truân khổ ải. Họ thậm chí
còn xung
khắc, thù ghét nhau theo sự chọn lựa chính kiến, lý tưởng, nhưng điểm
tựa duy
nhất, nguồn an ủi duy nhất của họ, là người mẹ Lỗ thị. Đất nước cũng
vật vã
thăng trầm như đời mẹ. Lỗ thị càng là một bà mẹ vĩ đại. Đó không còn là
thân phận
người phụ nữ nữa. Đó là thân phận đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau
thương. Đau
thương và vĩ đại như cơn lốc tràn qua lục địa Trung Hoa mênh mông, xoáy
quật
thân phận một người phụ nữ như Lỗ thị đến chết vẫn chưa được yên.
Mở
đầu truyện, người mẹ sinh Kim Đồng trong
cơn ngất lịm. Kết thúc truyện, Kim Đồng thức chong đêm canh mộ mẹ, sợ
"ông
Chính Phủ" bắt đào lên dù chôn tại một bãi đất hoang. "Anh trông thấy
phía sau mộ mẹ, nơi không bị giẵm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những
bông hoa
mầu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi
thơm.
Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh
hoa rất
giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn một mùi
máu. Vì
sao hoa nở có máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người." (tr. 859).
3
Xét
trên phương diện văn học, Lỗ thị là một
nhân vật ghê gớm – một phụ nữ tượng trưng của một đất nước ở cái khả
năng thiên
phú mà dù con người có chà đạp tiêu diệt đến đâu thì vẫn trường tồn,
bởi vì nếu
nó mất đi thì mất luôn cả sự sống. Đêm nằm bên mộ mẹ, ngước mắt nhìn
lên trời
sao, ngẫm về cả cuộc đời đau khổ chất chồng của mẹ mình, Kim Đồng chỉ
thấy hiện
ra những bầu vú. "Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì
sao.
Báu vật của đời là vú to mông nẩy!". Cả lịch sử của đất nước nhà văn
tóm lại
ở bốn chữ ấy: phong nhũ đồn phì. Mạc Ngôn, do đó, ở phương diện này, là
một nhà
văn ghê gớm.
Mạc Ngôn là
ai? Đọc tiểu sử của ông, qua lời giới thiệu của bản Việt ngữ, chúng ta
được biết,
ông sinh năm 1935, hiện là sáng tác viên bậc một của Cục Chính Trị, Bộ
Tổng
Tham Mưu, Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc, cuốn "Phong nhũ phì đồn", in
năm 1995, và được trao giải thưởng cao nhất về truyện cùng trong năm.
Trước đó,
ông đã nổi tiếng với cuốn "Cao Lương Đỏ" , và trở thành nổi tiếng
trên thế giới cùng với sự xuất hiện của cuốn phim dựa theo tác phẩm do
đạo diễn
lừng danh Trung Quốc, Trương Nghệ Mưu, chuyển thể; cuốn phim đoạt giải
Cành Cọ
Vàng tại Liên hoan phim ở Cannes (Pháp) năm 1994.
Những chi tiết
trên có gì đáng nói, với độc giả người Việt? Thứ nhất, Mạc Ngôn thuộc
lớp nhà
văn trẻ ở Trung Quốc. Tiếp đó, ông dám viết về cái hiện thực bề sau, bề
sâu, của
lịch sử hiện đại nước ông. Thứ nữa, cái viết của ông được chấp nhận, và
đón nhận.
4
Tác phẩm
trên của Mạc Ngôn, xét về nghệ thuật viết tiểu thuyết, không hẳn là
xuất sắc.
Trong chừng mực nào đó, nó vẫn thuộc truyền thống của lối kể chuyện
mang tính cổ
truyền của Trung Quốc. Người đọc có cảm tưởng, ở phần cuối, tác giả có
vẻ lan
man, khi tản mạn về vùng đất Cao Mật bước vào thời kỳ mở cửa. Có vẻ như
tác giả
hơi tham nữa. Nhưng tôi thích ở đây, là cái nhìn nghệ thuật-lịch sử
tỉnh táo và
sắc sảo của nhà văn. Ông không nương nhẹ, không xuê xoa quá khứ. Mạch
văn của
ông cũng gây ấn tượng đối với tôi ở chỗ, nó cho thấy được dòng chảy của
cuộc đời
như vốn dĩ thể, không đứt đoạn, không tách bạch, dù các sự kiện rất
khác nhau
xoay vần cuộc đời nhân vật theo các nẻo số phận khác nhau. Tính liên
tục lịch sử
– đây là điều theo tôi, ở dạng truyện như thế này, các nhà văn ta
thường bị
gãy. Ví như ở hai thời điểm hai đội quân của Tư Mã Khố và của Lỗ Lập
Nhân thế
nhau về lại Cao Mật, nhà văn ta trong trường hợp này dễ phết lên bức
tranh hiện
thực hai màu tương phản theo chủ quan, còn Mạc Ngôn vững tay để chỉ có
một màu
phủ lên cuộc đời của mẹ con Lỗ Thị, như khách quan nó phải như thế.
5.
Đọc Mạc Ngôn
ở “Phong nhũ phì đồn” tôi nghĩ nhiều đến Lỗ Tấn. Có lẽ, bởi cả hai nhà
văn
Trung Quốc này, một đầu và một ở cuối thế kỷ 20, đã có sự gặp nhau
trong suy
nghĩ về đất nước mình. Nhân vật người điên của Lỗ Tấn thấy ai cũng muốn
ăn thịt
mình; nhân vật người không rời vú mẹ của Mạc Ngôn thấy bông hoa bốc mùi
máu;
hai hoàn cảnh lịch sử, hai chế độ chính trị khác nhau giữa hai thời kỳ
sống của
hai nhà văn. Nhưng có một cái không khác, đó là tình yêu nước, và trách
nhiệm
nhà văn của hai người, và không chỉ của riêng họ. Nhà văn, cũng như
người phụ nữ
vậy, phải có niềm vui và nỗi đau của sự mang thai và sinh nở những giá
trị mới,
nhận thức mới cho người đọc. Và xã hội phải có tinh thần làm bà đỡ mát
tay cho
những cuộc sinh nhọc nhằn và không ít nguy hiểm đó.
Phạm Xuân
Nguyên