Linh Hồn Của Biển
"Rồi bỗng bạo dạn hơn, chị
choàng qua, siết vòng
tay lại."
"Anh cũng
đừng nghĩ quẩn quanh nữa. Em không giận anh đâu. Em cũng... thương anh
lắm!"
"... Xong
rồi anh ạ... Vâng, lúc năm giờ sáng, trong tay em..."
(Biển, truyện ngắn của Miêng).
Một tác giả người
Mỹ, trên tờ The New Yorker cho rằng,
trong thị trường sách, cũng như trong thị trường phim, có hai loại ăn
khách
(hits): sách ngủ (sleepers) và sách bom (blockbusters). Những tác giả
như John
Grisham, Tom Clancy hay Danielle Steel viết loại blockbusters. Sách của
họ được
quảng cáo rầm rộ, ngay từ khi chưa in; và khi in ra, chỉ trong vài ngày
là đứng
đầu bảng. Nhưng chỉ trong vài tuần lễ là từ từ nguội dần. Độc giả biết
rất rõ
về món hàng họ mua: tiểu thuyết Danielle Steel luôn luôn là tiểu thuyết
Danielle Steel.
Sleepers, những cuốn sách ngủ, số lượng bán
ra không
làm sao biết được, bởi vì nó cứ từ từ đến với bạn đọc, thường là qua
một người
bạn giới thiệu (Bạn đã đọc Biển của Miêng chưa?, đại khái vậy). Ở Mỹ,
sleepers
được bán ở những tiệm sách độc lập, những nơi mà khách hàng thường hỏi
như vầy:
(Mới đây, dạo này), có cuốn nào đọc được không?
Cá nhân người viết lần đầu
làm quen với Miêng, qua
truyện Biển, đăng trên Thế Kỷ 21. Đọc, chú ý, nhưng lại để đó, cho đến
khi một
bạn văn hỏi, đã đọc truyện đó chưa.
Sau này anh bạn nghĩ, chính anh mới là người
làm tôi
chú ý đến một tác giả còn đang ngủ như Miêng.
Đây là một kinh nghiệm hết
sức cá nhân, và nó còn liên
can tới một cái tôi đáng ghét, nhưng cũng xin được viết ra.
Thời gian ở Trại Cấm Thái
Lan, người viết có tự dịch
một truyện ngắn, Bụi, và đưa cho một bà Mỹ làm thiện nguyện trong trại.
Sau khi
đọc, sửa cho đúng văn phạm, cú pháp, bà gửi cho một người quen, làm cố
vấn văn
chương cho một tạp chí ở Mỹ.
Ông này viết thư trả lời.
Một cái thư dài trên hai
trang. Sau khi giảng giải một hồi về thế nào là một truyện ngắn, ông
phán: Đây
không hẳn là truyện ngắn, mà là một thứ "drama" (kịch). Ông phân
tích sự khác biệt giữa hai thể loại, rồi
yêu cầu: Tôi cần ít nhất là 20 "truyện ngắn" như thế này, nếu muốn
lăng xê tác giả. Một truyện ngắn mà đạt tới "drama" như trên, có khi
chỉ nhờ ăn may, nhờ sống ở Trại Cấm.
Nó do Trại Cấm viết, chưa chắc của tác giả!
Khi đọc Biển, có lẽ tôi đã
có cùng một hoài nghi: Mình
cần phải đọc chừng 20 truyện ngắn như vầy.
Theo tôi, còn rất nhiều
người đã bỏ qua Biển: lại
chuyện vượt biển! Chỉ nội cái tên truyện, đã cho thấy, đây là một giấc
ngủ dài,
sau khi đã quá mệt mỏi.)
*
Vào năm 1992, một người đàn
bà có thời đã từng là một
nữ nghệ sĩ trình diễn tên là Rebecca Wells xuất bản một cuốn tiểu
thuyết,
Little Altars Everywhere, tại một nhà sách nhỏ, nay đã dẹp tiệm, tại
Seattle.
Wells thì vô danh, nhà sách thì không có tiền để quảng cáo. Tuy nhiên,
bà có
một người bạn, trải qua lễ Tạ Ơn với một người bạn, là người sản xuất
(producer),
của chương trình "All Things Considered" thuộc đài phát thanh
"National Public Radio". Ông này đọc cuốn sách, và chuyển qua cho
Linda Wertheimer, chủ nhân một chương trình TV. Linda khoái cuốn sách
quá, thế
là bà đưa Wells lên đài. Một thính giả ở Blytheville, Arkansas nghe
cuộc phỏng vấn kể trên. Ông
này lại có bà vợ tên là Mary Gay Shipley, chủ một tiệm sách trong thành
phố.
Ông chồng mua sách tặng vợ. Mary Gay quá mê nó. Thế là Wells tỉnh ngủ,
cứ lên
dần, và trở thành một tác giả có sách bán chạy nhất.
Nhà văn người Nhật Kawabata,
Nobel văn chương 1968,
trong bài mở đầu tập truyện "Những truyện ngắn ở trong lòng bàn tay",
viết: Những người viết, khi trẻ thường làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ,
viết
những truyện trong lòng bàn tay.... Tinh thần thi ca những ngày trẻ thơ
của tôi
sống mãi ở trong chúng".
Biển,
của Miêng
cũng thuộc loại truyện lòng tay. Đọc, tôi nghĩ, ngoài tinh thần thi ca
ra, còn
có những giọt nước cam lồ nhỏ xuống cho cả một thế hệ: một người đàn bà
khóc
thương một người đàn ông mất trí nằm trong bệnh viện và trong những giờ
phút
cuối cùng, người đàn ông lầm vị nữ bồ tát với người vợ đã chết, cùng
với con
cái, trong lần vượt biển.
Lầm lẫn, có lẽ không phải
như vậy. Hoặc đây là giá trị
biểu kiến của truyện. Trong cuốn Chữ và Vật, Michel Foucault cho rằng
người
điên, hay Kẻ Khác (l'Autre), là một người nhìn tất cả sự vật đều giống
nhau,
khác với người bình thường, hay Kẻ Vẫn Thế (le Même). Cũng trong cuốn
sách, ông
cho rằng tự tử là phán đoán sáng suốt cuối cùng của một con người bình
thường.
Nếu
chúng ta
chấp nhận hành động vượt biển như là phán đoán sáng suốt sau cùng, như
vậy
người đàn ông sống sót trong khi vợ con chết hết, đã thực sự tin rằng
người đàn
bà đang nhỏ lệ là vợ của ông. Cũng tương tự như vậy - và đây là ý nghĩa
đích
thực của truyện ngắn theo tôi - "sự thực" xuất hiện, khi người đàn bà
gọi điện thoại cho chồng: "... Xong rồi anh ạ... trong tay em".
Camus
có truyện
ngắn "Người đàn bà ngoại tình", câu chuyện về một người đàn bà, đêm
đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả
hai vợ
chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một
đề tài
lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn
"Before the Law", của Kafka.
Đây
là câu
chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi
cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi
chút
xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc
đời.
Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh
tính vô
chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi
đứng
đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng
xong bổn
phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.
Trong
truyện
ngắn Evelyne của James Joyce, trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người
lính
của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người
yêu
thương, và có đủ điều kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác
tốt đẹp
hơn; nhưng tới giờ phút chót, cô gái quyết định "ở lại".
Truyện
ngắn
Biển, của Miêng, bằng những tình cảm độ lượng thoát thai từ tinh thần
Phật
giáo, theo tôi, đã đưa ra một đề nghị chót cho vấn nạn người đàn bà
ngoại tình.
Bằng hành động "trong tay em", người đàn bà đã vượt quá "Luật
Pháp", ôm cả hai cuộc đời, bên trong và bên ngoài cánh cửa (lưu đầy và
quê
nhà?), nhập làm một.
Trong
bài Tựa
cho tập truyện đầu tay, mới xuất bản của Miêng, Nguyễn Nam
Trân viết:
"Tôi có cảm tưởng nhân vật của Miêng phần lớn mang một vết thương chưa
lành, hay chưa biết bao giờ lên sẹo"... " (Tác phẩm) ghi lại bao nỗi
thăng trầm của những đời người trong đó có bạn, có tôi. Chúng mình vẫn
là những
kẻ sống sót của một thời máu lửa, và vẫn còn là nhân chứng của một thời
hỗn
mang, đến nay mỗi ngày vẫn còn như đi trên dây xiếc để giữ một thế quân
bình
cho tầm hồn".
Theo
tôi, kinh
nghiệm của Miêng - như trong Biển, hoặc Nhân Chứng - không có bạn có
tôi ở
trong đó. Tôi muốn nói nam giới. Nhân vật của Miêng lại càng không phải
những
kẻ sống sót sau một cuộc chiến. Kinh nghiệm của bà là về người đàn bà
ngoại
tình, về chuyện Vượt Cạn, về chuyện ôm lấy người đàn ông mất trí, thay
vì người
tình (người đàn ông Việt Nam lưu vong, một vị bác sĩ thành đạt nơi xứ
người),
như trong Nhân Chứng:
"Mẹ tính đến để nói là muốn
giữ lại với tonton tình
bạn êm đẹp. Và cũng để báo cho tonton biết là mẹ có bầu với tonton."
Nhân
vật chính
trong truyện sau đó đã tự tử, khi khám phá ra nhân cách của người tình.
Nhân Chứng cũng làm chúng ta liên tưởng tới
người đàn
bà độc nhất tỏ mắt, không tên, trong thế giới "Mù Lòa" của Jose
Saramago, nhà văn Bồ Đào Nha, Nobel văn chương 1998. Rằng mù lòa ở đây
là một
bệnh lý học về lương tâm, hơn là một khuyết tật của mắt, hoặc của kính
đeo mắt.
Không phải chúng ta trở nên mù, mà là chúng ta mù, những người mù có
thể nhìn
nhưng không nhìn (I don't think we did go blind, I think we are blind,
I think
we are blind, blind but seeing, blind people who can see but do not
see).
Tương tự, "gì gì có vần "ương" theo sau
mà chả là em" (Biển) gợi nhớ những nhân vật không tên của Jose
Saramago.
Đây là viễn ảnh u tối của tác giả về nỗi cô đơn của con người hiện đại.
Ở cuối Mù Lòa, một vài người
lại nhìn được, và một
người trong số họ đưa ra nhận xét: kinh nghiệm dậy chúng ta một điều
rằng,
chẳng hề có người mù, chỉ có sự mù lòa.
Sự
thực, nói
Miêng không phải là một kẻ sống sót sau cuộc chiến, là chỉ muốn tách
biệt hẳn
bà ra khỏi cái dòng văn chương hải ngoại vốn vẫn cay đắng vì một Miền
Nam thất
trận, (có cả người viết, lẽ dĩ nhiên!).
*
Trong
một bài
phỏng vấn đăng trên tạp chí The Paris Review, khi được hỏi những ảnh
hưởng mạnh
mẽ nhất vào công việc, tầm nhìn (vision), chuyện viết lách của ông, G.
Steiner
đã trả lời: "Đó là cái lò Frankfurt (school). Walter Benjamin, nếu còn
sống, chắc chắn là người viết cuốn "Sau Hỗn Mang" (After Babel, tác phẩm
của G.
Steiner) thực sự vĩ đại. Tôi luôn luôn bị ám ảnh rằng cuốn sách đúng ra
phải là
của ông, và nó sẽ tuyệt vời biết bao."
Đọc
Biển, tôi
cũng bị ám ảnh bởi một cuốn Sau Hỗn Mang như thế. Như thể bao nhiêu
giọt nước
mắt của người đàn bà ngoại tình nhỏ xuống, là để khóc than cho một tác
phẩm vĩ
đại:
Giả
sử, những
người đã chết vẫn còn sống, cuộc phiêu lưu trên biển cả chỉ là những
chuyến ngao
du, chẳng hề có hải tặc, hãm hiếp, nhục nhã, cay đắng...
Rằng
sau đó,
tất cả mọi người Việt Nam lưu vong lại được trở về nhà, trong vinh
quang, trong
hạnh phúc...
Nguyễn
Quốc Trụ
Linh Hồn của
Biển
(Đọc: Đọc lại.
Cần phải viết về kinh nghiệm này)
"Rồi bỗng
bạo dạn hơn, chị choàng qua, siết vòng tay lại."
"Anh
cũng đừng nghĩ quẩn quanh nữa. Em không giậïn anh đâu. Em cũng...
thương anh lắm!"
"...
Xong rồi anh ạ... Vâng, lúc năm giờ sáng, trong tay em..."
(Biển, truyện
ngắn của Miêng).
Chủ đề Việt
số này: họ viết văn làm thơ như thế nào. Người viết muốn thêm vô một
chút: họ đến
với độc giả bằng cách nào, nhân đọc một bài trên The New Yorker số ra
ngày 4
tháng Mười 1999: The Science of the Sleeper, tác giả Malcolm Gladwell.
Tác giả bài
báo viết, trong thị trường sách, cũng như thị trường phim, có hai loại
ăn khách
(hits): sách ngủ (sleepers) và sách bom (blockbusters). Những tác giả
như John
Grisham, Tom Clancy hay Danielle Steel viết loại blockbusters. Sách của
họ được
quảng cáo rầm rộ, ngay từ khi chưa in; và khi in ra, chỉ trong vài ngày
là đứng
đầu bảng. Nhưng chỉ trong một vài tuần lễ là từ từ nguội dần. Độc giả
biết rất
rõ về món hàng họ mua: tiểu thuyết Danielle Steel luôn luôn là tiểu
thuyết
Danielle Steel. Sleepers, những cuốn sách ngủ, số lượng bán ra không
làm sao biết
được, bởi vì nó cứ từ từ đến với bạn đọc, thường là qua một người bạn
giới thiệu
(Bạn đã đọc Biển của Miêng chưa?, đại khái vậy). Ở Mỹ, sleepers được
bán ở những
tiệm sách độc lập, những nơi mà khách hàng thường hỏi như vầy: (Mới
đây, dạo
này), có cuốn nào đọc được không?
Cá nhân người
viết lần đầu làm quen với Miêng, qua truyện Biển, đăng trên Thế Kỷ 21.
Đọc, chú
ý, nhưng lại để đó, cho đến khi một bạn văn hỏi: đã đọc truyện đó chưa.
Sau này
anh bạn nghĩ, chính anh mới là người làm tôi chú ý đến một tác giả còn
đang ngủ
như Miêng.
Đây là một
kinh nghiệm hết sức cá nhân, và nó còn liên can tới một cái tôi đáng
ghét,
nhưng cũng xin được viết ra.
Thời gian ở
Trại Cấm Thái Lan, người viết có tự dịch một truyện ngắn, Bụi, và đưa
cho một
bà Mỹ làm thiện nguyện trong trại. Sau khi đọc, sửa cho đúng văn phạm,
cú pháp,
bà gửi cho một người quen, làm cố vấn văn chương cho một tạp chí ở Mỹ.
Ông này
trả lời: truyện ngắn không hẳn truyện ngắn, mà là một thứ "drama"
(kịch).
Ông phân tích giữa hai thể loại, rồi yêu cầu: tôi cần ít nhất là 20
truyện ngắn
như thế này, nếu muốn lăng xê tác giả. Một truyện ngắn mà đạt tới
"drama" như trên, có khi chỉ nhờ ăn may, nhờ sống ở Trại Cấm. Nó do
Trại Cấm viết, chưa chắc của tác giả!
Khi đọc Biển,
có lẽ tôi đã có cùng một hoài nghi: mình cần phải đọc chừng 20 truyện
ngắn như
vầy.
(Theo tôi,
còn rất nhiều người đã bỏ qua Biển: lại chuyện vượt biển! Chỉ nội cái
tên truyện,
đã cho thấy, đây là một giấc ngủ dài, sau khi đã quá mệt mỏi.)
Vào năm
1992, một người đàn bà có thời đã từng là một nữ nghệ sĩ trình diễn tên
là
Rebecca Wells xuất bản một cuốn tiểu thuyết, Little Altars Everywhere,
tại một
nhà sách nhỏ, nay đã dẹp tiệm, tại Seattle. Wells thì vô danh, nhà sách
thì
không có tiền để quảng cáo. Tuy nhiên, bà có một người bạn, trải qua lễ
Tạ Ơn với
một người bạn, là người sản xuất (producer), của chương trình "All
Things
Considered" thuộc đài phát thanh "National Public Radio". Ông
này đọc cuốn sách, và chuyển qua cho Linda Wertheimer, chủ nhân một
chương
trình TV. Linda khoái cuốn sách quá, thế là bà đưa Wells lên đài. Một
thính giả
ở Blytheville, Arkansas nghe cuộc phỏng vấn kể trên. Ông này lại có bà
vợ tên
là Mary Gay Shipley, chủ một tiệm sách trong thành phố. Ông chồng mua
sách tặng
vợ. Mary Gay quá mê nó. Thế là Wells tỉnh ngủ, cứ lên dần, và trở thành
một tác
giả có sách bán chạy nhất.
Nhà văn người
Nhật Kawabata, Nobel văn chương 1968, trong bài mở đầu tập truyện
"Những
truyện ngắn ở trong lòng bàn tay", viết: Những người viết, khi trẻ
thường
làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những truyện trong lòng bàn tay....
Tinh thần
thi ca những ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong chúng".
Biển, của
Miêng cũng thuộc loại truyện trong lòng bàn tay. Đọc, tôi nghĩ, ngoài
tinh thần
thi ca ra, còn có những giọt nước cam lồ nhỏ xuống cho cả một thế hệ:
một người
đàn bà khóc thương một người đàn ông mất trí nằm trong bệnh viện và
trong những
giờ phút cuối cùng, người đàn ông lầm vị nữ bồ tát với người vợ đã
chết, cùng với
con cái, trong lần vượt biển.
Lầm lẫn, có
lẽ không phải như vậy. Hoặc đây là giá trị biểu kiến của truyện. Trong
cuốn Chữ
và Vật, Michel Foucault cho rằng người điên, hay Kẻ Khác (l'Autre), là
một người
nhìn tất cả sự vật đều giống nhau, khác với người bình thường, hay Kẻ
Vẫn Thế
(le Même). Cũng trong cuốn sách, ông cho rằng tự tử là phán đoán sáng
suốt cuối
cùng của một con người bình thường.
Nếu chúng ta
chấp nhận hành động vượt biển như là phán đoán sáng suốt sau cùng, như
vậy người
đàn ông sống sót trong khi vợ con chết hết, đã thực sự tin rằng vị nữ
bố tát
chính là vợ của ông. Cũng tương tự như vậy - và đây là ý nghĩa đích
thực của
truyện ngắn theo tôi - "sự thực" xuất hiện, khi người đàn bà gọi điện
thoại cho chồng: "... Xong rồi anh ạ... trong tay em".
Camus có một
truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", đêm đêm, sau khi làm xong hết
bổn phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén
thoát ra
ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một đề tài lớn của dòng văn
chương hiện
sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn "Before the Law", của
Kafka.
Đây là câu
chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi
cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi
chút
xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc
đời.
Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh
tính vô
chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi
đứng
đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng
xong bổn
phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.
Trong truyện
ngắn Evelyne của James Joyce, trong tập "Những người dân thành phố
Dublin", người lính của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn
dương. Một người yêu thương, và có đủ điều kiện để đưa cô gái Evelyne
tới một
cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng tới giờ phút chót, cô gái quyết định
"ở
lại".
Truyện ngắn
Biển, của Miêng, bằng những tình cảm độ lượng thoát thai từ tinh thần
Phật
giáo, theo tôi, đã đưa ra một đề nghị chót cho vấn nạn người đàn bà
ngoại tình.
Bằng hành động "trong tay em", người đàn bà đã vượt quá "Luật
Pháp", ôm cả hai cuộc đời, bên trong và bên ngoài cánh cửa (lưu đầy và
quê
nhà?), nhập làm một.
Trong bài Tựa
cho tập truyện đầu tay, mới xuất bản của Miêng, (Nguyễn Mộng Giác trích
lại,
trên Văn Học), Nguyễn Nam Trân viết: "Tôi có cảm tưởng nhân vật của
Miêng
phần lớn mang một vết thương chưa lành, hay chưa biết bao giờ lên
sẹo"...
"(Tác phẩm) ghi lại bao nỗi thăng trầm của những đời người trong đó có
bạn,
có tôi. Chúng mình vẫn là những kẻ sống sót của một thời máu lửa, và
vẫn còn là
nhân chứng của một thời hỗn mang, đến nay mỗi ngày vẫn còn như đi trên
dây xiếc
để giữ một thế quân bình cho tầm hồn".
Theo tôi,
kinh nghiệm của Miêng - như trong Biển, hoặc Nhân Chứng không có bạn có
tôi ở
trong đó. Tôi muốn nói nam giới. Nhân vật của Miêng lại càng không phải
những kẻ
sống sót sau một cuộc chiến. Kinh nghiệm của bà là về người đàn bà
ngoại tình,
về chuyện Vượt Cạn, về chuyện ôm lấy người đàn ông mất trí, thay vì
người tình
(người đàn ông Việt Nam lưu vong, một vị bác sĩ thành đạt nơi xứ
người), như
trong Nhân Chứng:
"Mẹ
tính đến để nói là muốn giữ lại với tonton tình bạn êm đẹp. Và cũng để
báo cho
tonton biết là mẹ có bầu với tonton."
Nhân vật
chính trong truyện sau đó đã tự tử, khi khám phá ra nhân cách của người
tình.
Nhân Chứng cũng làm chúng ta liên tưởng tới người đàn bà độc nhất tỏ
mắt, không
tên, trong thế giới "Mù Lòa" của Jose Saramago, nhà văn Bồ Đào Nha,
Nobel văn chương 1998. Rằng mù lòa ở đây là một bệnh lý học về lương
tâm, hơn
là một khuyết tật của mắt, hoặc của kính đeo mắt. Không phải chúng ta
trở nên
mù, mà là chúng ta mù, những người mù có thể nhìn nhưng không nhìn (I
don't
think we did go blind, I think we are blind, I think we are blind,
blind but
seeing, blind people who can see but do not see). Tương tự, "gì gì có
vần
"ương" theo sau mà chả là em" (Biển) gợi nhớ những nhân vật
không tên của Jose Saramago. Đây là viễn ảnh u tối của tác giả về nỗi
cô đơn của
con người hiện đại.
Ở cuối Mù
Lòa, một vài người lại nhìn được, và một người trong số họ đưa ra nhận
xét:
kinh nghiệm dậy chúng ta một điều rằng, chẳng hề có người mù, chỉ có sự
mù lòa.
Sự thực, nói
Miêng không phải là một kẻ sống sót sau cuộc chiến, là chỉ muốn tách
biệt hẳn
bà ra khỏi cái dòng văn chương hải ngoại vốn vẫn cay đắng vì một Miền
Nam thất
trận, (có cả người viết, lẽ dĩ nhiên!). Trong một bài phỏng vấn đăng
trên tạp
chí The Paris Review, khi được hỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào
công việc,
tầm nhìn (vision), chuyện viết lách của ông, G. Steiner đã trả lời: "Đó
là
cái lò Frankfurt (school). Walter Benjamin, nếu còn sống, chắc chắn là
người viết
cuốn Sau Babel thực sự vĩ đại. Tôi luôn luôn bị ám ảnh rằng cuốn sách
đúng ra
phải là của ông, và nó sẽ tuyệt vời biết bao."
Đọc Biển,
tôi cũng bị ám ảnh bởi một cuốn After Babel như thế. Như thể bao nhiêu
giọt nước
mắt của người đàn bà ngoại tình nhỏ xuống, là để khóc than cho một tác
phẩm vĩ
đại (giả sử những người đã chết vẫn còn sống, cuộc phiêu lưu trên biển
cả chỉ
là những chuyến ngao du, chẳng hề có hải tặc, hãm hiếp, nhục nhã, cay
đắng... Rằng
sau đó, tất cả mọi người Việt Nam lưu vong lại được trở về nhà, trong
vinh
quang, trong hạnh phúc...)
Với riêng
tôi, Biển làm nhớ lại những ngày đầu làm quen (đánh vật) với Hóa Thân,
của
Kafka. Và đây là một kinh nghiệm, về kỹ thuật viết.
"Villa
trông ra biển. Tường phía trước thấp..."
Truyện đầu
tay của tôi, "Những con dã tràng", đã được viết ra từ cát, biển, những
ngày hè Nha Trang, nhưng thực ra là từ cái không khí "tẩm vào người nỗi
chết"
của Kẻ Xa Lạ (Camus), của Buồn Nôn: "Tôi tự hỏi cớ sao lại sợ hãi một
thế
giới bình thường như vậy?" (Sartre).
Truyện được
Thanh Tâm Tuyền đánh giá "được", khi còn trong dạng bản thảo.
Khi đó Dương
Nghiễm Mậu, với truyện ngắn "Rượu chưa đủ", đăng trên Sáng Tạo bộ mới
đang làm xôn xao đám chúng tôi, những đứa trẻ vẫn mơ hồ hy vọng, con
đường độc
nhất thoát ra khỏi cuộc chiến, đừng để bị nó huỷ diệt một cách tức
tưởi, lặng
câm, là "văn chương". Khi viết "Những con dã tràng", tuy tự
hứa với lòng mình, đây là con đường phải chọn, nhưng tôi nhận ra một
điều, chưa
phải lúc này, chưa phải "thứ" văn chương này.
Chưa phải
lúc này: tôi vẫn nghĩ, phải học đã, rồi muốn gì thì muốn. Vả chăng, khi
đó, đam
mê đọc mạnh hơn đam mê viết. Đọc hối hả, đọc ngày đọc đêm, song song
với những
bài toán, những bài vật lý. Đọc bất cứ thứ gì vướng vào mắt, như để
chạy đua với
mảnh bằng, với chiến tranh. Hơn nữa, sách tiếng Pháp loại bỏ túi, do
chương
trình Thông Tin & Văn hóa (Information & Culture) của chính phủ
Pháp
tài trợ, giá rất rẻ. Nhiều người Việt lúc đó đã mua sách gửi qua Pháp,
cho con
em, hoặc bạn bè, theo kiểu chở củi về rừng.
Không phải
"thứ" văn chương này.
Như trên đã
nói, Những Con Dã Tràng bước ra từ Kẻ Xa Lạ. Nó còn mang dáng dấp của
"Rượu
Chưa Đủ", của "Tư" (Thanh Tâm Tuyền). Nó nhập ngay vào cái không
khí bề mặt "hậu chiến Âu-châu ở Việt Nam" (ở Sài Gòn, ở quán Cái
Chùa...) Ngay khi Thanh Tâm Tuyền đánh giá "được", tôi hình như mơ hồ
nhận ra một điều: nếu tiếp tục con đường viết như thế đó, thật không
thể nào vượt
hơn được một Tư, một Rượu Chưa Đủ. Trong bài viết "Một Người Anh" (được
in lại trong Lần Cuối, Sài-gòn) tôi đã viết:
Đây là một
câu chuyện
"Buồn
Nôn" bắt đầu bằng câu nói của Roquentin: "Tôi nghĩ rằng mình đã hết
bệnh".
Tôi cũng muốn mở đầu văn chương của tôi bằng một kinh nghiệm như vậy.
Faulkner,
Why?: Postmodern? The South defeated as fate? Its pain: stronger than
life,
stronger than death, love, loyalty, duty.... My intention is to write
down, as
truthfully sa possible, (as fictionally as possible) the strange life
that has
become my fate.
Faulkner:
Technique as Fate?
"She's
a woman I think we're going to be hearing more from."
The best
part of a writer's bigraphy is the biography of style (Nabokov): cái
biography
of style của tôi là biography của cuộc chiến. Example: a sentence:
During
tormented nights, the holy ghost of Saigon awaked in me. I thought it
was the
ghost of mine....