Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
ĐIỂM SÁCH
|
Trong Mê Cung
Tập
truyện của Nguyễn Trung Hối
nhà xb Văn Học, 1999.
Tập
truyện được Trần Hồng Châu (giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch)
viết tựa, Nguyễn Mộng Giác (nhà văn, chủ báo Văn Học), lời bạt, Hồng
Khắc Kim
Mai (nhà thơ), cảm đề. Ở đây, chỉ là tản mạn, về nhan đề của tập truyện.
Huyền thoại Hy Lạp
kể, Minos, vua xứ Crete, hoàng hậu là Pasiphae, có 4 người con; trong
số đó có
công chúa Ariadne. Minos vì không kiếm ra được một con bò trắng, đẹp,
để cúng
thần Poseidon, thần bèn khiến cho bà hoàng hậu chỉ mê ngủ với... bò!
Ông vua,
người chồng bị cắm sừng, điên đầu, phải cho vời ông thợ nổi tiếng là
Daedalus
tới vấn kế. Ông này tâu: Xin vua ra lệnh thiết kế một công trình - con
bò - rồi
cho hoàng hậu "vào trong đó ngủ". Nhưng ngủ thì phải đẻ. Quái vật
Minotaur xuất hiện. Lại phải thiết kế công trình - mê cung - để nhốt
nó... và
nhốt luôn ông thợ tài ba. (Daedalus đã từng giết học trò là Talos, vì
ghen
tài).
Huyền thoại mê
cung sau đó được sử dụng trong văn học, và tuỳ từng trường hợp, con
người hiện
đại lại có một diễn giải mới mẻ về nó. Lâu rồi, trên tờ báo của UNESCO
(bản
dịch tiếng Việt, xuất bản tại Việt Nam sau 1975), người viết đã từng
đọc một
dẫn giải tuyệt vời, liên quan tới viên kiến trúc sư. Đại khái như vầy:
-Trong
bất cứ một vấn đề, câu hỏi thiết yếu hơn câu trả lời.
Và câu trả lời đến lượt nó, lại trở thành câu hỏi.
-Ngay
một câu trả lời mang tính khẳng định, vẫn còn phải tra
hỏi.
Khi
Daedalus nghĩ ra mê cung để nhốt quái thú, ông đã đặt
câu hỏi tiếp theo: làm sao ta thoát khỏi, nếu bị nhốt ở trong đó. Chính
nhờ
vậy, ông đã dùng sáp gắn những lông thú -những bữa ăn còn lại của quái
thú - và
tạo thành đôi cánh, để bay lên cao, thoát khỏi mê cung. Ông có lẽ là
người đầu
tiên mở ra giấc mơ-bay của con người. Người con, Icarus, vì không nghe
theo lời
cha dặn, cứ bay mãi lên cao, sức nóng mặt trời làm chẩy sáp, đôi cánh
rã ra,
anh ta rớt xuống biển, và để lại một câu hỏi không (chưa) làm sao trả
lời: liệu
loài người có thể tiến mãi vào không gian vô tận.
Vấn
đề ở đây là: (Trong) Mê Cung của Nguyễn Trung Hối nhốt
"quái thú" gì?
Câu
trả lời có thể là: chủ nghĩa toàn cầu, sự tha hoá, mất
căn cước... và những "con mồi" của nó là những di dân, tị nạn, những
lưu vong...
Nhưng
"quái thú" có thể là kẻ khác, kẻ lạ, và cũng
là "chính ta", như Paz diễn tả trong Mê cung của cô đơn, khi dẫn lời
của Antonio Machado: Kẻ khác không hiện hữu, chỉ có "ta" (the one,
the same) thôi. Đây là một niềm tin "bất trị" của lẽ phải con người
(the incurable belief of human reason). Căn cước của một cá nhân chính
là thực
tại, như thể sau cùng, mọi chuyện bắt buộc phải là: chỉ có ta thôi.
Nhưng kẻ
khác cứ rằng co, cù nhầy, không chịu biến mất: một cục xương mà lý lẽ
con người
đụng vô là bể răng! Số kiếp con người, là đau khổ, là "lạc lối về",
trong
mê cung giam giữ vừa quái thú vừa nạn nhân...
-Liệu
những con người (lưu vong, di dân...) có cơ may thoát
khỏi mê cung?
Câu
trả lời của Nguyễn Mộng Giác: Những nhân vật Trong Mê
Cung của Nguyễn Trung Hối "còn mang tên Việt, nhưng rõ ràng cách hành
xử đã
hoàn toàn Âu hóa. Chẳng những họ không thua sút những người bản xứ da
trắng
quanh họ, nhân vật truyện Nguyễn Trung Hối đã ngang bằng (đôi khi còn
vượt hơn)
người bản xứ, nhập hẳn vào giai tầng thượng lưu. (Trích bài Bạt: Nhân
vật
truyện Nguyễn Trung Hối: Những người xa lạ.)
Nguyễn
Mộng Giác - sau khi kể về một người bạn thơ "từ
Việt Nam
sang
Mỹ đến thăm tôi. Tôi dẫn anh đi thăm một số bạn cũ cũng 'thường thường
bậc
trung' như tôi. Tôi cũng cho anh đọc một số tác phẩm văn thơ tiêu biểu
ở hải
ngoại. Đọc xong, anh cười bảo: Các cậu đạo đức giả bỏ mẹ! Nhà như thế,
xe như
thế, con cái đỗ đạt như thế, muốn nói gì thì nói, muốn in gì thì in,
nay còn
ngồi đây mai muốn qua Paris chơi thì nhấc cái điện thoại giữ vé.... Thế
mà văn
chương lúc nào cũng 'thân phận lưu vong' với "tạm dung đất khách".
Cậu đổi cái 'thân phận lưu vong' cho tôi đi!" - ông đã tin bạn có lý:
Quả
thật trong những lời rên rỉ trong văn chương hải ngoại cũng có những
kiểu làm
dáng theo thời, kiểu nhà giàu đứt tay. Cũng có thể là sự khôn ngoan
chọn cái
dễ: vì viết về hạnh phúc khó hơn viết về đau khổ bất hạnh. Viết về
thành công
còn khó hơn. Hiểu như thế, trong cách dựng nhân vật, Nguyễn Trung Hối
đã tìm
con đường khó. (Bạt). Ở đây, cũng nên phân biệt giữa những nhân vật
thành công,
và tác giả của chúng (nhà văn lưu vong).
Câu
trả lời của J. Brodsky: Lưu vong chỉ dậy cho chúng ta
một bài học: sự tủi nhục.
Trong
bài viết Phận lưu vong (The Condition We Call Exile),
ông khẳng định: Một con người tự do, khi thất bại, đừng đổ vạ cho ai (A
freeman, when he fails, blames nobody). Đây là một bài đọc trong một
hội nghị
tại Vienna vào năm 1987, khi làn sóng người Việt bỏ nước ra đi đang làn
nhức
nhối lương tâm nhân loại: Hôm nay chúng ta tụ họp tại đây, trong căn
phòng
quyến rũ, ánh đèn sáng chưng, vào một buổi tối tháng Chạp lành lạnh như
thế này
để nói về số phận nhà văn lưu vong. Xin hãy trầm tư đôi phút để nghĩ
tới vài
người trong số họ... Hay là tưởng tượng tới những thuyền nhân Việt Nam
đang cố vượt lên đầu những đợt sóng dữ nơi biển cao, hoặc là đã tạm yên
ổng, về
nơi ăn chốn ở trong những trại tiếp nhận...
Cho
dù bạn có thể đặt cho hiện tượng (lưu vong) bất cứ một
cái tên riêng nào, cho dù duyên do, quê cũ, quê mới... chỉ có một điều
thật
hiển nhiên: Thật khó khăn vô cùng cho họ khi nói về số phận nhà văn lưu
vong mà
phải nhìn thẳng vào người đối diện.
Theo
ông nếu phải cho nó, văn chương lưu vong một thể loại,
thì đây là bi-hài. Bởi vì, vốn đã có những hiểu biết (do sự nhập thân
trước
đó), nhà văn lưu vong có thể đánh giá cao những tiện nghi xã hội và vật
chất
của chế độ dân chủ "hơn" những người bản xứ. Nhưng cũng vì lý do đó,
anh ta hoàn toàn không thể đóng một vai trò có nghĩa trong xã hội mới.
Chế độ
dân chủ nơi xã hội mới cho anh một sự an toàn vật chất, nhưng lại làm
cho anh
hoàn toàn vô nghĩa về phương hiện xã hội. Và sự thiếu, mất ý nghĩa
(lack of
signifiance) là một điều nhà văn, lưu vong hay không lưu vong, không
thể chịu
nổi.
Tuy
đã từng đoạt giải Nobel văn chương, đã viết văn làm thơ
bằng tiếng Anh, nhưng ông không hề coi đó là những dấu hiệu của sự
thành công
nơi xứ người. Vẫn trong bài đã dẫn, ông dùng một ẩn dụ: Là một nhà văn
lưu vong
giống như một con chó, hay một con người bị văng ra không gian, trong
một con
tầu vũ trụ (lẽ dĩ nhiên, con chó chứ không phải con người, bởi vì họ sẽ
chẳng bao
giờ 'tha' (retreive, như chó tha mồi) bạn về. Và cái con tầu vũ trụ, đó
chính
là ngôn ngữ của bạn. Để kết thúc ẩn dụ, phải nên thêm vô là: mãi sau
đó, người
hành khách trên con tầu vũ trụ mới nhận ra con tầu không hướng về trái
đất, mà
văng ra ngoài không gian.
Câu
trả lời của Rusdhie: Chỉ khi nào sáng tạo ra tiếng Anh,
tái phát minh nó (réinventer) để cho chính mình sử dụng, cho những nhu
cầu của
mình, khi đó mới hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
Câu
trả lời của Linda Lê: Tôi coi tôi như một kẻ dị giáo
trước thần tượng (tiếng Pháp), và phải tái tạo, tái phát minh nó, là
một
pygmalion của nó (pygmalion: nhân vật thần thoại, si mê phi tượng rồi
lấy làm
vợ, khi pho tượng biến thành người).
Nhưng
người thợ và con trai không là những người độc nhất
thoát ra khỏi mê cung. Còn dũng sĩ Theseus. Nhờ sợi dây của người yêu
là
Ariadne, anh đã thoát khỏi mê cung sau khi giết quái thú.
Câu
hỏi: Liệu trong những di dân sẽ có một dũng sĩ. Sợi dây
Ariadne: Truyền thống văn hóa cũ, từ quê mẹ? Người đẹp từ quê hương
mới? Tình
yêu (hôn nhân dị chủng...) sẽ là giải đáp cho vấn nạn mê cung?...
Những
câu hỏi đó, hình như "bàng bạc" Trong Mê
Cung...
Nguyễn Quốc Trụ
|